K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 5 2021

Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226) tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. ... Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn.

15 tháng 5 2021

Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226) tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ,  sớm tỏ ra có chí khí hơn người. ... Lớn lên,  là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn.

15 tháng 5 2021

TK

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17 tháng 10 năm 503). Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. ... Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Lý Bí có tài, được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay).

15 tháng 5 2021

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17 tháng 10 năm 503). Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. ... Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Lý Bí có tài, được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay)

15 tháng 5 2021

Phùng Hưng tự Công Phấn, hiệu Đô Quân, là lãnh tụ một cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của nhà Đường thời Bắc thuộc lần thứ ba trong lịch sử Việt Nam.

15 tháng 5 2021

Cho tới nay ngày sinh của ông vẫn chưa rõ. Các sách chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ghi ông mất năm 802, chỉ một thời gian ngắn sau khi đuổi được giặc phương Bắc. Một nguồn dã sử cho biết ông sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 1 năm 761) và mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức ngày 13 tháng 9 năm 802), thọ 41 tuổi.

15 tháng 5 2021

Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang, Ninh Giang cũ ở Hải Dương), mấy đời là hào tộc mạnh, tính khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Khúc Thừa Dụ được suy tôn là Khúc Tiên Chủ, là tiết độ sứ người bản địa đầu tiên của Tĩnh Hải quân, đồng thời là người đặt cơ sở cho nền độc lập của dân tộc Việt sau hơn 1.000 năm thuộc Trung Quốc.

15 tháng 5 2021

Khúc Thừa Dụ (? - 907), quê ở Hồng Châu (thuộc vùng Bình Giang và Ninh Giang tỉnh Hải Dương). Ông vốn là con nhà hào phú. Hồi bấy giờ nước ta bị nhà Đường đô hộ, nhưng thế nhà Đường đã suy, các hào kiệt dấy binh chống lại, Khúc Thừa Dụ được suy tôn làm lãnh tụ. Ông lãnh đạo thành công việc đánh đuổi bọn quan lại đô hộ, rồi nắm chính quyền vào năm Bính Dần (906) nhưng vẫn xưng Tỉnh Hải tiết độ sứ. Năm sau, Đinh Mão (907) ông mất, con là Khúc Hạo thay nắm quyền.

15 tháng 5 2021

Mai Hắc Đế, tên thật là Mai Thúc Loan, là vị vua người Việt thời Bắc thuộc, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại sự chiếm đóng của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8.

 
15 tháng 5 2021

TK

Mai Thúc Loan là người làng Hương Lãm, huyện Nam Đường, nay là thị trấn Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, dân lập đền thờ ông ở thôn chợ Sa Nam. Năm Mai Thúc Loan 10 tuổi, mẹ đi lấy củi bị hổ vồ, ít lâu sau bố cũng mất. Ông được người bạn của cha là Đinh Thế đem về nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho.

15 tháng 5 2021

Dương Đình Nghệ là người Ái châu, làm tướng cho Khúc Hạo. Đời Hậu LươngLưu Nghiễm của nước Nam Hán tiếm hiệu vua ở đất Quảng Châu, lấy cớ Khúc Hạo chiếm cứ đất Giao Châu, sai Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận đánh chiếm Giao Châu. Con trai Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ bị bắt. Dương Đình Nghệ dấy binh đánh bại Lý Khắc Chính. Vua Nam Hán cho Lý Tiến thay làm Thứ sử Giao Châu, Dương Đình Nghệ lại vây hãm. Vua Nam Hán sai Trần Bảo đem quân cứu Lý Tiến, Dương Đình Nghệ đón đánh chém Trần Bảo, giữ thành, xưng là Tiết độ sứ. Được tám năm, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn làm phản, giết chết lên thay.

15 tháng 5 2021

Dương Đình Nghệ, có sách như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép là Dương Diên Nghệ, người Ái châu, làm tướng cho Khúc Hạo. Đời Hậu Lương, Lưu Nghiễm của nước Nam Hán tiếm hiệu vua ở đất Quảng Châu, lấy cớ Khúc Hạo chiếm cứ đất Giao Châu, sai Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận đánh chiếm Giao Châu. Con trai Khúc Hạo là Khúc Thừa Mĩ bị bắt. Dương Đình Nghệ dấy binh đánh bại Lý Khắc Chính. Vua Nam Hán cho Lý Tiến thay làm Thứ sử Giao Châu, Dương Đình Nghệ lại vây hãm. Vua Nam Hán sai Trần Bảo đem quân cứu Lý Tiến, Dương Đình Nghệ đón đánh chém Trần Bảo, giữ thành, xưng là Tiết độ sứ. Được 8 năm, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn làm phản, giết chết lên thay. Sự nghiệp Bối cảnh Phía Bắc nước Việt tồn tại 2 nước lớn là nhà Nam Hán và nhà Lương. Năm 919, Khúc Thừa Mĩ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua Nam Hán cả giận. Diễn biến Mùa thu, tháng 7, năm 923 vua Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh Giao Châu. Lý Khắc Chính bắt được Tiết độ sứ Khúc Thừa Mĩ đem về. Vua Hán phong tước cho Dương Đình Nghệ, cho Lý Tiến làm Thứ Sử Giao-Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành. Năm 931, Dương Đình Nghệ tìm cách báo thù cho họ Khúc, ông nuôi 3.000 giả tử (con nuôi), đặt ra trường đánh vật, chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ. Quảng cáo Lý Tiến lo sợ, sai người cấp báo cho vua Hán, cùng năm ấy, Dương Đình Nghệ đem quân vây Lý Tiến. Vua Hán sai Trần Bảo đem quân sang cứu, nhưng đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành. Lý Tiến trốn về nước, Trần Bảo vây thành, Dương Đình Nghệ đem quân ra đánh giết chết Trần Bảo. Dương Đình Nghệ giữ lấy thành, tự xưng là Tiết độ sứ nhận lĩnh việc châu. Cái chết Mùa xuân, tháng 3, năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết. Một nha tướng khác của ông là Ngô Quyền kéo quân từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiễn.

13 tháng 4 2023

Ngô quyền quê ở Đường Lâm ( Sơn Tây - Hà Nội ) , sinh ra ở một gia đình quý tộc . Ông là người có sức khỏe phi thường và ông là con rể của Dương Đình Nghệ . 

Chiến thắng bạch đằng :  

Trước khi đánh giặc thì Ngô quyền đã chọn sông Bạch Đằng để chiến đấu vì đây là con đường duy nhất để dễ vào nước ta , đóng cọc ngầm dưới biển , cho quân ta đi thuyền nhỏ vì nó giúp mình có thể vượt qua được các bãi cọc , cho vũ khí có một phần nhọn sắt , cho quân ta mai phục ở hai bên bờ sông . 

Đánh giặc Ngô Quyền đã cho một số lượng nhỏ ra để giả thua và rút chạy thì quân ta qua các bãi cọc thì nhân dân ta đã kéo bãi cọc nhô lên , quân mất một nửa quân thì Ngô Quyền cho quân ta đánh tổng hợp , Hoàng Tháo cho quân rút chạy thì bãi cọc lại nhô lên chặn đường chạy của địch , một số người thì bị Ngô Quyền giết chết , một số người thì nhảy xuống bơi , một số người thì đứng trên thuyền và Ngô Quyền đã giết được Hoàng Tháo . 

Chiến bạch đằng năm 938 , đã chấm dứt vĩnh viễn thời kì bắc thuộc sau gần 1000 năm bị phong kiến đô hộ cai trị . 

 

 

:,)

1. Nguyên nhân trận chiến Bạch Đằng năm 938:

Vì muốn mở rộng bờ cõi xuống phía nam nhằm đặt ách cai trị nhân dân ta. Lấy cớ kiều công tiễn cầu cứu vua nam hán sai con Hoằng Tháo cho quân xâm lược nước ta.

Xem thêm: Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (45-54)

 2. Diễn biến chiến thắng Bạch Đằng năm 938:

Năm 938, sau khi tập hợp được đông đảo anh hùng dân tộc về phe mình, Ngô Quyền dẫn quân từ Ái Châu ra bắc đánh Kiều Công Tiễn. Vì vậy, Kiều Công Tiễn nhanh chóng bị cô lập, không thể đứng vững để chờ viện binh từ Nam Hán.

Trong lúc vua Nam Hán đang tiến hành cuộc hành quân, Ngô Quyền đã nhanh chóng tiến đến thành Đại La khiến Kiều Công Tiễn không kịp chống cự nên thành nhanh chóng bị đánh tan. Kiều Công Tiễn cũng bị giết trong khi quân Nam Hán vẫn chưa vào được biên giới nước ta.

Cuối tháng 12 năm 938, đoàn binh thuyền Nam Hán do Hoàng Thao chỉ huy từ Quảng Đông (Trung Quốc) vượt biên xâm phạm vào lãnh thổ nước ta. Đoàn thuyền chiến thuận chiều gió Đông Bắc theo đường Đông Kênh qua châu Vĩnh An, theo trại Đại Bàng (đảo Kế Bào ngày nay) thuộc Ngọc Sơn, len qua các đảo nhỏ tiến vào vịnh Hạ Long. Dọc đường chúng không gặp một sự kháng cự nào. Hoàng Thao là viên tướng trẻ tuổi hung hăng, rất chủ quan khinh địch, vội vàng thúc quân đến thẳng vào cửa sông Bạch Đằng.

Kế hoạch tiến quân của quân Nam Hán:

Trước tình thế của Kiều Công Tiễn, vua Nam Hán phong cho con là Hoàng Cảo làm Tĩnh Hải quân, đổi niên hiệu là Giao Vương. Người con trai này sẽ dẫn 20 vạn quân nhân danh cứu Công Tiễn. Tuy nhiên, kế sách này của vua Nam Hán chưa kịp thực hiện thì tướng quân Ngô Quyền của ta đã đi trước một bước, tiêu diệt được Kiều Công Tiễn.

Khi những chiếc thuyền chiến đấu đầu tiên của quân Nam Hán vừa đến vùng cửa biển Bạch Đằng thì đội quân khiêu chiến của ta trên những chiếc thuyền nhẹ bỗng xuất hiện. Dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Tất Tố, quân ta chiến đấu rất dũng cảm, quyết liệt, vừa cố kìm chân giặc chờ cho nước triều lên cao, vừa để chúng không hoài nghi, giữ bí mật tuyệt đối cho trận địa mai phục. Quân Nam Hán vừa tiến vừa đánh, lợi dụng lòng quân đông, khí thế đương hăng và lúc triều dâng cao, chúng tăng tốc tiến sâu vào vùng cửa sông Bạch Đằng. Lúc nước triều dâng cao ngập cọc thì đội thuyền chiến của Nguyễn Tất Tố “dường như không còn sức”, họ vừa đánh vừa rút, để nhử địch vào trận địa đúng lúc, đúng chỗ, theo kế hoạch của Ngô Quyền. Thấy quân ta ít lại đang tìm cách tháo chạy, Hoàng Thao ra lệnh đuổi theo tiêu diệt. Càng đuổi, quân Nam Hán càng tiến sâu vào cửa sông và lọt vào trận địa mai phục của quân ta.

Kế hoạch kháng chiến của Ngô Quyền:

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 do Ngô Quyền chỉ huy với phương án tác chiến đặc biệt, vô cùng sáng tạo đã dẫn đến thắng lợi bất ngờ. Chính Ngô Quyền đã cho quân lính của mình đóng cọc bằng sắt nhọn xuống đáy sông Bạch Đằng. Khi triều cường, bãi cọc này sẽ bị che lấp hoàn toàn. Vì vậy, Ngô Quyền đã nghĩ ra kế dụ địch vào vùng này khi thủy triều lên. Sau đó, đợi khi thủy triều xuống, tàu địch mắc cạn rồi mới xuất trận. Kế hoạch này của tướng quân Ngô Quyền nhận được sự đồng tình của triều đình cũng như binh lính nên được tiến hành nhanh chóng và kín đáo.

Trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng:

Trận Bạch Đằng diễn ra vào một ngày cuối đông năm 938 trên sông Bạch Đằng ở cửa biển và hạ lưu. Khi trận đánh xảy ra, đoàn quân và chiến thuyền do Hoàng Cao chỉ huy vừa vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng.

Khi đoàn chiến thuyền của Hoàng Thao vượt qua vùng cửa sông Bạch Đằng thì nước triều bắt đầu xuống; đó cũng là lúc toàn bộ đội hình quân giặc lọt vào trận địa mai phục của ta. Khi thấy quân Nam Hán xuất hiện, quân Ngô Quyền chỉ có thuyền nhẹ và quân nhỏ, coi thường, tưởng ăn tươi nuốt sống nên mạnh dạn tiến vào.Đúng lúc đó đội quân khiêu chiến của Nguyễn Tất Tố được lệnh đánh quật trở lại và Ngô Quyền đích thân chỉ huy đại quân đổ ra từ ba phía, tiến đánh dữ dội. Trận tiến công bất ngờ, mãnh liệt của thủy quân ta từ thượng lưu đánh xuống chặn đầu, kết hợp với quân thủy bộ mai phục ở hai bên bờ sông đánh tạt ngang vào đội hình quân giặc.

Thuyền chiến của ta nhỏ nhẹ cơ động “nhanh như gió” lại xuôi theo dòng nước lao thẳng vào đội hình thuyền chiến của giặc khiến cho chúng không kịp chống đỡ, bị rối loạn, lúng túng. Các cánh quân của Dương Tam Kha, Đỗ Cảnh Thạc, Ngô Xương Ngập, Nguyễn Tất Tố cùng các lực lượng dân binh nhất tề tiếng công quân giặc. Toàn bộ đội binh thuyền của Hoàng Thao nằm gọn trong vòng vây của quân ta. Chúng bị đánh chặn quyết liệt phía trước, bị liên tiếp tấn công từ hai bên cạnh sườn. Tất cả các lực lượng thủy bộ phối hợp chặt chẽ cùng tiến công tiêu diệt các thuyền chiến của địch. Quân Nam Hán cố tìm cách chống đỡ, nhưng dường như bất lực trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta. “Hoàng Thao không kịp chỉnh đốn binh thuyền”, tổ chức chống đỡ yếu ớt định tìm đường rút chạy ra biển, nhưng không kịp, chúng đã sa vào bãi cọc ngầm mà Ngô Quyền đã chủ trương bố trí những cọc gỗ bịt sắt nhọn đóng ngầm dưới nước để cản phá thuyền giặc. khi nước triều xuống.

Nhận thấy quân giặc đã mắc lừa, Ngô Quyền hạ lệnh cho quân ta giả bộ chạy ngược dòng chờ thủy triều xuống để thực hiện kế hoạch tấn công. Quả nhiên, thuyền lớn của quân Nam Hán mắc cạn khi thủy triều xuống và lần lượt bị đâm thủng gần hết cọc. Khi ấy tướng quân Ngô Quyền mới mở cuộc tấn công ồ ạt khiến quân Nam Hán không kịp trở tay, chỉ có thể tháo chạy.

Bị cọc chặn, bị quân ta đánh, thuyền địch không sao thoát ra biển được. Toàn bộ chiến thuyền của giặc bị đánh chìm, hầu hết quân giặc bị tiêu diệt

Xem thêm: Lịch sử là gì? Khái niệm về môn lịch sử và khoa học lịch sử?

 3. Kết quả trận chiến Bạch Đằng năm 938:

Bị quân ta đánh xuống bãi cọc ngầm và tiêu diệt gần hết quân số, quân Nam Hán nhanh chóng tháo chạy về nước. Bấy giờ vua Nam Hán đang đem quân đi hỗ trợ ở biên giới chưa kịp ứng phó thì đã bị bắt giữ. Vì vậy, khi nghe tin Hoàng Cảo tử trận, Nghiêm kinh hoàng, đành “tiếc rẻ thu hết quân còn lại mà lui”.

Đội quân thủy xâm lược của Nam Hán đã vĩnh viễn bị nhấn chìm xuống dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Chủ soái của giặc là Lưu Hoàng Thao bị giết tại trận. Quân Nam Hán thua to.Trận Bạch Đằng kết thúc thắng lợi về phía quân ta.

Với chiến thắng Bạch Đằng năm 938 này, nhà Nam Hán đã hoàn toàn từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt. Sau đó, đến năm 939, Ngô Quyền chính thức lên ngôi, lấy hiệu là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô và chọn Cổ Loa làm kinh đô.

Xem thêm: Chiến lược việt nam hóa chiến tranh? Âm mưu của đế quốc Mỹ?

 4. Nguyên nhân thắng lợi chiến thắng Bạch Đằng năm 938:

+ Do tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta khi hưởng ứng cuộc kháng chiến do Ngô Quyền lãnh đạo, đóng góp sức lực của mình để xây dựng được trận địa cọc lớn trên sông Bạch Đằng.

+ Do sự chỉ huy tài giỏi của Ngô Quyền và của tướng lĩnh, đã biết phát huy sức mạnh của dân tộc, biết sử dụng và phát huy các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, biết phát huy sở trường “thuỷ chiến” của dân tộc ta để giành thắng lợi.

Tại sao Ngô Quyền chọn sông Bạch Đằng làm trận địa chống quân Nam Hán?

Ngô Quyền chọn sông Bạch Đằng làm trận địa chống quân Nam Hán, vì nơi đây là khu vực có địa thế hiểm trở, thuận lợi cho việc tổ chức trận địa mai phục quân địch:

+ Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ Biển Đông vào nội địa Việt Nam. Muốn xâm nhập vào Việt Nam bằng đường thủy, quân Nam Hán chắn chắn sẽ phải đi qua cửa biển này.

+ Cửa biển Bạch Đằng rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời; cây cối um tùm che lấp bờ sông.

+ Hạ lưu sông Bạch Đằng thấp, độ dốc không cao nên chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh. Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài cây số. Lòng sông đã rộng, lại sâu, từ 8 mét – 18 mét. Khi thủy triều xuống, nước rút nhanh (khoảng 0.3 mét trong một giờ) ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh lệch khi cao nhất và thấp nhất là khoảng 3 mét.

Những khó khăn của quân Nam Hán mắc phải trong trận chiến Bạch Đằng:

+ Không thông thuộc địa hình; khó nắm được thời gian và mực nước trên sông khi thủy triều lên / xuống, do đó: khi thủy triều lên, quân Nam Hán không nhận ra trận địa cọc ngầm của người Việt; khi nước triều rút, các thuyền chiến của quân Nam Hán bị mắc kẹt.

+ Quân Nam Hán mang thái độ chủ quan, kinh địch.

Xem thêm: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp

 5. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938:

Trận chiến này là một trận đánh giữa quân dân Tĩnh Hải quân (vào thời đó, Việt Nam chưa có quốc hiệu chính thức) do Ngô Quyền lãnh đạo đánh với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả là người Việt giành thắng lợi lớn nhờ kế sách cắm cọc nhọn dưới lòng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền. Trước sự chiến đấu dũng mãnh của người Việt, quá nửa quân Nam Hán chết đuối, Hoàng tử Nam Hán là Lưu Hoằng Tháo cũng tử trận. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam, nối lại quốc thống cho người Việt.

– Đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán.

– Thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh chống xâm lược của dân tộc ta.

– Đã bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và mở ra thời đại độc lập đối với dân tộc ta.

– Chấm dứt thời kì Bắc thuộc, mở ra một thời đại mới – thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc Việt Nam. Đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc và kết thúc hoàn toàn thời kì đấu tranh giành lại độc lập hàng chục thế kỉ. Đưa dân tộc bước sang một kỉ nguyên mới.

– Để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh yêu nước sau này.

Xem thêm: Chính sách ngụ binh ư nông là gì? Nội dung chính và ý nghĩa?

 6. Bài học kinh nghiệm từ chiến thắng Bạch Đằng năm 938:

Chiến thắng Bạch Đằng để lại bài học kinh nghiệm đầu tiên là quyết định đánh giặc sớm, đúng đắn và sáng tạo. Người lãnh đạo kháng chiến phải luôn nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu của địch như lực lượng, vũ khí, trang bị,… của địch để đề ra chiến lược phù hợp, đúng đắn. Bài học kinh nghiệm thứ hai mà chiến thắng Bạch Đằng năm 938 để lại là phải chủ động nắm chắc địa hình cũng như thời tiết, khí hậu, thủy văn để lập thế trận, đánh thắng địch. . Bài học kinh nghiệm tiếp theo mà chiến thắng Bạch Đằng năm 938 để lại là sự tổ chức chỉ huy tài tình, linh hoạt, khéo léo, biết tận dụng thế mạnh của địa hình chiến đấu. Không những vậy, họ còn phải biết chớp thời cơ để tiến hành các cuộc tấn công tiêu diệt địch nhanh chóng, ít hao tổn binh lực.

Với tinh thần chiến đấu bất khuất và tài lãnh đạo tài ba của Ngô Quyền, quân dân ta đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy, vang dội năm 938. Hơn nữa, chiến thắng Bạch Đằng năm 938 còn khiến quân Nam Hán khiếp sợ, từ bỏ ý định xâm lược của chúng ta. đất nước một lần nữa.

 Thành tựu văn hoá: Từ trong các xóm làng cổ; người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hoá bản địa; nội sinh tích luỹ được qua hàng nghìn năm trước. Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẵng đó; nhân dân ta phải sống cảnh “cá chậu chim lồng” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân; nhân dân vẫn; trong một môi trường sinh thái cụ thể và quen thuộc; không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hoá. Bất cứ lực lượng xã hội nào; bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn cản được sự phát triển kinh tế; văn hoá tự mở lấy đường đi. Nét hằng xuyên của văn hoá Việt Nam là sự “không chối từ” việc tiếp thu; tiêu hoá và làm chủ những ảnh hưởng văn hoá của nước ngoài. Qua con đường giao lưu văn hoá; trào lưu di cư của một số sĩ phu và bần dân Hán tộc xuống Giao Chỉ; trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử!) nằm trong phạm vi của đế chế ấy; nhân dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc về văn hoá vật chất cũng như về văn hoá tinh thần. Văn hoá vật chất: Ngay trong khi vay mượn; nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hoá vật chất; từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc; nhân dân ta đã biết tìm tòi; khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trầm; rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt; chất lượng; có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc; ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chỉ có chảo); ống nhổ; bình con tiện đầu voi; bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang”của đồng bào Mơnông gần đây. Văn hoá tinh thần: Chủ thể mang truyền thống văn hoá ngàn xưa và sáng tạo nền văn hoá mới trong khi không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hoá ngoại sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hoá; trước tiên là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hoá của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt. Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hoá Việt đặng chống đồng hoá là sự bảo tồn tiếng Việt; tiếng mẹ đẻ; tiếng nói của dân tộc. Tiếng nói là một thành tựu văn hoá; là một thành phần của văn hoá. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời; bản địa của dân tộc ta trên dải đất này. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ; tiếng Hán- và chữ Hán- được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi một lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình; cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên; tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt. Cố nhiên; dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài; trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần; đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải qua nhiều thế kỉ; tiếng Việt ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu những yếu tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán. Người ta thấy nhiều từ gốc Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng của Hán ngữ một cách độc đáo; sáng tạo; đã Việt hoá những từ ngữ ấy bằng cách dùng; cách đọc; tạo thành một lớp từ mới mà sau này người ta gọi là từ Hán- Việt. (Có một quá trình ngược lại; nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt- Hán). Trước và trong thời Bắc thuộc; tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai; Tạng- Miến; và nhất là Ấn Độ (các từ chỉ cây trồng như mít; lài.. và đặc biệt là các từ thuộc về Phật giáo như Bụt; bồ đề; bồ tát; phù đồ; chùa; tháp; tăng già…). Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Từ thời Hùng Vương; đã có một nền phong hoá riêng của người Việt cổ tuy còn giản dị; chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó; nhất định ảnh hưởng đến phong hoá Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân gian của nền phong hoá Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển. Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước;tính chất phụ quyền trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt) thì mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của ta; ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền bá tới miền này). Nét đặc biệt; là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hoá Việt cổ. Lễ giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ; cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe “tam tòng; tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh giặc và lãnh đạo nhân dân đánh giặc của Hai Bà Trưng; Bà triệu…Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao. Cùng với phong tục dùng trống đồng; nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc; xăm mình; chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng; tục nhuộm răng; ăn trầu cau…Cố nhiên; trong diễn trình lịch sử; nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống đồng); từ đầu công nguyên trở về sau; người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp (theo hệ thống đòn bẩy). Từ tập tục ở nhà sàn; dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng… Từ thời Hán; nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao và có ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Nền văn học nghệ thuật ấy cũng dần dần được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch; với mục đích nô dịch nên mức độ truyền bá cũng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn chế nhiều. Nhưng dù sao nó cũng để lại dấu ấn trên sự phát triển của nền văn hoá Việt. Thời Văn Lang; Âu Lạc; ta chưa có một nền văn học chính thức và thành văn tuy vẫn có một đời sống văn hoá khá cao. Nét đặc trưng của nó là văn hoá ngôn từ (chứ không phải chữ nghĩa sách vở) với phương thức thông tin truyền miệng. Nền văn nghệ dân gian của ta khá giàu có và tiếp tục phát triển dưới dạng các huyền thoại; huyền thích hay cao dao; tục ngữ. Cuộc sống của nông dân còn hạn chế trong khuôn khổ xóm làng; vùng địa phương; với những điều kiện còn chật hẹp; cho nên sự sáng tạo về nghệ thuật còn mang tính chất giản dị. Sự du nhập nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã có một tác dụng tích cực nhất định đối với đời sống văn hoá Việt Nam; nhất là ở một số trung tâm chính trị và buôn bán tập trung như Luy Lâu; Long Biên… Cho đến một hai thế kỉ sau công nguyên; văn hoá Đông Sơn và nghệ thuật Đông Sơn vẫn tiếp tục tồn tại tuy đang trên đà suy thoái mạnh. Dựa vào những hiện vật phát hiện được trong các mộ gạch cổ thuộc các thế kỉ I- VI; người ta hay nói đến sự nảy sinh một nền văn hoá nghệ thuật Hán – Việt trong thời gian này. Về âm nhạc; bên cạnh một số nhạc cụ có chịu ảnh hưởng Trung Hoa như khánh; chuông…chịu ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Á như trống cơm; hồ cầm; vẫn tồn tại những nhạc cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống; khèn; cồng chiêng… Phần cốt lõi của văn hoá tinh thần; là tư tưởng mà ngày trước thường biểu hiện chủ yếu dưới hình thức tôn giáo; tín ngưỡng… Phong tục tập quán thời các vua Hùng dựng nước nhìn chung còn thuần hậu; chất phác. Đó là phong hoá tín ngưỡng của một cư dân sống trong khung cảnh một nền văn minh nông nghiệp lúa nước đang phát triển. Phong hoá Giao Chỉ cho đến đầu công nguyên còn rất khác với văn minh Hán. Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng; có thể nói; trong thời Bắc thuộc; người Việt mất nước chứ không mất làng. Bởi vậy; như một tác giả phương Tây đã nhận xét; qua Bắc thuộc; nước Việt như một toà nhà chỉ bị thay đổi “mặt tiền” mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền văn hoá Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hoá; giành lại độc lập dân tộc. Nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc chỉ có bề dài của thời gian; chứ thiếu bề rộng trong không gian và càng thiếu hẳn bề sâu trong lòng cấu trúc của xã hội nước ta. Nền đô hộ ấy bạo ngược và thâm độc; song vẫn có phần hờt hợt và chỉ có tác động trên bề mặt của xã hội Việt Nam.

Về văn hóa, xã hội:

- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa như ngôn ngữ, văn tự.

- Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc.

TL
29 tháng 1 2021

Văn hoá Việt Nam thời kì Bắc thuộc

 

Bối cảnh lịch sử:

 

Vào những thế kỉ cuối của thiên niên kỉ TCN; nền văn hoá Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách ghê gớm. Quốc gia Văn Lang; sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa được xác lập và tồn tại chưa được bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 TCN; Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông- Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc; chia Âu Lạc ra thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 TCN; nhà Hán chiếm được nước Nam Việt; đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ; dưới đó là bảy quận; với chức quan đầu châu là thứ sử; đầu quận là thái thú.

 

Thời kì này kéo dài từ năm 179 TCN (tuy vậy nó được bắt đầu thực sự sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng; năm 43 sau công nguyên) tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỉ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kì này thường được gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc; song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc; vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục. Tổ tiên ta đã “mất nước”. Bấy giờ không còn một nước Việt cổ đại; và nếu nói như F. Ăngghen thì bấy giờ dân Việt cổ “không còn có một hành động độc lập trong lịch sử ”.

 

Trong diễn trình lịch sử văn hoá bên cạnh xu hướng Hán hoá là xu hướng chống Hán hoá mạnh mẽ; giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt; văn hoá Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ; nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc; đã tiến hành đồng hoá về mặt dân tộc và văn hoá.

 

Nếu như quốc gia; dân tộc và văn hoá Âu Lạc trước đó chưa hình thành hoặc chưa đạt tới trình độ phát triển cao; chưa định vị được những bản sắc vững chắc của riêng mình thì chắc chắn với những chính sách cưỡng chế đồng hoá trong suốt hơn 10 thế kỉ; nhà nước Việt; dân tộc Việt; văn hoá Việt đã trở thành một phần lãnh thổ; một bộ phận cư dân; một tiểu khu văn hoá của Trung Hoa đại lục.

 

Song điều đó đã không thể xảy ra; trong thời kì này; đặc trưng cơ bản của văn hoá Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hoá của mình; bảo vệ dân tộc mình; chống lại chính sách đồng hoá; đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển; cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước; giải phóng dân tộc.

 

 Thành tựu văn hoá:

 

          Từ trong các xóm làng cổ; người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hoá bản địa; nội sinh tích luỹ được qua hàng nghìn năm trước. Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẵng đó; nhân dân ta phải sống cảnh “cá chậu chim lồng” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân; nhân dân vẫn; trong một môi trường sinh thái cụ thể và quen thuộc; không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hoá. Bất cứ lực lượng xã hội nào; bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn cản được sự phát triển kinh tế; văn hoá tự mở lấy đường đi.

 

          Nét hằng xuyên của văn hoá Việt Nam là sự “không chối từ” việc tiếp thu; tiêu hoá và làm chủ những ảnh hưởng văn hoá của nước ngoài. Qua con đường giao lưu văn hoá; trào lưu di cư của một số sĩ phu và bần dân Hán tộc xuống Giao Chỉ; trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử!) nằm trong phạm vi của đế chế ấy; nhân dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc về văn hoá vật chất cũng như về văn hoá tinh thần.

 

 Văn hoá vật chất:

 

          Ngay trong khi vay mượn; nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hoá vật chất; từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc; nhân dân ta đã biết tìm tòi; khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trầm; rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt; chất lượng; có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc; ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chỉ có chảo); ống nhổ; bình con tiện đầu voi; bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang”của đồng bào Mơnông gần đây.

 

 Văn hoá tinh thần:

 

          Chủ thể mang truyền thống văn hoá ngàn xưa và sáng tạo nền văn hoá mới trong khi không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hoá ngoại sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hoá; trước tiên là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hoá của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt.

 

          Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hoá Việt đặng chống đồng hoá là sự bảo tồn tiếng Việt; tiếng mẹ đẻ; tiếng nói của dân tộc.

 

          Tiếng nói là một thành tựu văn hoá; là một thành phần của văn hoá. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời; bản địa của dân tộc ta trên dải đất này.

 

          Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ; tiếng Hán- và chữ Hán- được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi một lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình; cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên; tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt.

 

          Cố nhiên; dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài; trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần; đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải qua nhiều thế kỉ; tiếng Việt ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu những yếu tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán.

 

Người ta thấy nhiều từ gốc Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng của Hán ngữ một cách độc đáo; sáng tạo; đã Việt hoá những từ ngữ ấy bằng cách dùng; cách đọc; tạo thành một lớp từ mới mà sau này người ta gọi là từ Hán- Việt. (Có một quá trình ngược lại; nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt- Hán).

 

          Trước và trong thời Bắc thuộc; tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai; Tạng- Miến; và nhất là Ấn Độ (các từ chỉ cây trồng như mít; lài.. và đặc biệt là các từ thuộc về Phật giáo như Bụt; bồ đề; bồ tát; phù đồ; chùa; tháp; tăng già…). Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong phú.

 

          Từ thời Hùng Vương; đã có một nền phong hoá riêng của người Việt cổ tuy còn giản dị; chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó; nhất định ảnh hưởng đến phong hoá Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân gian của nền phong hoá Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển.

 

Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước;tính chất phụ quyền trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt) thì mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của ta; ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền bá tới miền này).

 

          Nét đặc biệt; là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hoá Việt cổ. Lễ giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ; cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe “tam tòng; tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh giặc và lãnh đạo nhân dân đánh giặc của Hai Bà Trưng; Bà triệu…Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao.

 

          Cùng với phong tục dùng trống đồng; nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc; xăm mình; chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng; tục nhuộm răng; ăn trầu cau…Cố nhiên; trong diễn trình lịch sử; nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống đồng); từ đầu công nguyên trở về sau; người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp (theo hệ thống đòn bẩy). Từ tập tục ở nhà sàn; dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng…

 

          Từ thời Hán; nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao và có ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Nền văn học nghệ thuật ấy cũng dần dần được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch; với mục đích nô dịch nên mức độ truyền bá cũng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn chế nhiều. Nhưng dù sao nó cũng để lại dấu ấn trên sự phát triển của nền văn hoá Việt. Thời Văn Lang; Âu Lạc; ta chưa có một nền văn học chính thức và thành văn tuy vẫn có một đời sống văn hoá khá cao.

Về văn hóa, xã hội:

- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa như ngôn ngữ, văn tự.

- Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc.