K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

30 tháng 10 2017

a. Mở bài: Dẫn dắt và trích dẫn câu nói

Bạn có thể làm theo Mẫu:

4000 năm lịch sử, 4000 năm dựng nước và giữ nước, 4000 năm ấy đủ để ghi lại những dấu ấn của những người con của dân tộc- những con người làm nên đất nước - "hiền khí của quốc gia". Thật vậy, Thân Nhân Trung đã từng viết: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.

b. Thân bài

- Giải thích câu nói của Thân Nhân Trung:

   + Hiểu theo nghĩa hiển ngôn của từng từ thì hiền là ăn ở tốt với mọi người (phải đạo), hết lòng làm trọn bổn phận của mình đối với người khác; tài là khả năng đặc biệt làm một việc nào đó. Hiểu rộng ra theo nghĩa hàm ngôn thì hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc.

   + Nguyên khí là khí ban đầu tạo ra sự sống của vạn vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là yếu tố quyết định sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước.

- Khẳng định ý kiếm của Thân Nhân Trung "Hiền tài là nguyên khí quốc gia" là hoàn toàn đúng đắn, chứng minh bằng cách đưa ra những dẫn chứng lịch sử :

   + Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ … (kèm các sự kiện cụ thể)

   + Ở những thế kỉ trước và nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước và khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới.

- Nguyên khí thịnh thì nước mạnh hay chính là những con người này chính là nền tảng của đất nước, là con người làm nên lịch sử 4000 năm. (Trích dẫn ví dụ về các cuộc chiến của nhân dân ta)

- Nguyên khí yếu: thời kì suy vong của các chính quyền Trịnh Nguyễn, An Dương Vương vì chủ quan khinh địch mà lâm vào cảnh nước mất nhà tan, …

c. Kết bài

- Bài học rút ra từ tư tưởng của Thân Nhân Trung:

   + Thời nào thì "Hiền tài" cũng "là nguyên khí của quốc gia". Vì vậy, phải biết quý trọng nhân tài, phải có những chính sách đãi ngộ đối với họ, nhất là trong thời kì mở cửa, nạn chảy máu chất xám không phải là hiếm như ngày nay.

   + Ở những cấp nhỏ hơn: cơ quan, đơn vị nào biết trọng dụng người tài thì có thể thúc đẩy công việc nhanh chóng và hiệu quả hơn.

   + Nhà nước ta hiện nay cũng coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu". Đồng thời vẫn tiếp tục có nhiều chính sách ưu đãi người hiền tài có điều kiện được cống hiến hết mình cho đất nước.

31 tháng 12 2018

a. Mở bài: Dẫn dắt và trích dẫn câu nói

Bạn có thể làm theo Mẫu:

4000 năm lịch sử, 4000 năm dựng nước và giữ nước, 4000 năm ấy đủ để ghi lại những dấu ấn của những người con của dân tộc- những con người làm nên đất nước - "hiền khí của quốc gia". Thật vậy, Thân Nhân Trung đã từng viết: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.

b. Thân bài

- Giải thích câu nói của Thân Nhân Trung:

   + Hiểu theo nghĩa hiển ngôn của từng từ thì hiền là ăn ở tốt với mọi người (phải đạo), hết lòng làm trọn bổn phận của mình đối với người khác; tài là khả năng đặc biệt làm một việc nào đó. Hiểu rộng ra theo nghĩa hàm ngôn thì hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc.

   + Nguyên khí là khí ban đầu tạo ra sự sống của vạn vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là yếu tố quyết định sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước.

- Khẳng định ý kiếm của Thân Nhân Trung "Hiền tài là nguyên khí quốc gia" là hoàn toàn đúng đắn, chứng minh bằng cách đưa ra những dẫn chứng lịch sử :

   + Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ … (kèm các sự kiện cụ thể)

   + Ở những thế kỉ trước và nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước và khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới.

- Nguyên khí thịnh thì nước mạnh hay chính là những con người này chính là nền tảng của đất nước, là con người làm nên lịch sử 4000 năm. (Trích dẫn ví dụ về các cuộc chiến của nhân dân ta)

- Nguyên khí yếu: thời kì suy vong của các chính quyền Trịnh Nguyễn, An Dương Vương vì chủ quan khinh địch mà lâm vào cảnh nước mất nhà tan, …

c. Kết bài

- Bài học rút ra từ tư tưởng của Thân Nhân Trung:

   + Thời nào thì "Hiền tài" cũng "là nguyên khí của quốc gia". Vì vậy, phải biết quý trọng nhân tài, phải có những chính sách đãi ngộ đối với họ, nhất là trong thời kì mở cửa, nạn chảy máu chất xám không phải là hiếm như ngày nay.

   + Ở những cấp nhỏ hơn: cơ quan, đơn vị nào biết trọng dụng người tài thì có thể thúc đẩy công việc nhanh chóng và hiệu quả hơn.

   + Nhà nước ta hiện nay cũng coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu". Đồng thời vẫn tiếp tục có nhiều chính sách ưu đãi người hiền tài có điều kiện được cống hiến hết mình cho đất nước.

31 tháng 8 2023

Tham khảo

Ở phần (1), Kinh đã thuyết phục mọi người về sự tham gia của mình trong hoạt động tuần hành bằng cách: Lin-cơn đã kí bản Tuyên ngôn Giải phóng nô lệ vào một trăm năm trước đó nhưng người da đen vẫn chưa được tự do.

→ Người da đen vẫn phải chịu sự bất công ngay cả chính quê hương của mình.

Kinh đã thuyết phục mọi người bằng việc đưa ra bằng chứng sau: Tổng thống Abraham Lincohn đã kí bản Tuyên ngôn Giải phóng nô lệ vào một trăm năm trước đó nhưng người da đen vẫn chưa được tự do.

=>Người da đen vẫn bị kỳ thị ngay trên chính quê hương của mình

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
31 tháng 1

Bài viết tham khảo

       Thủy triều đỏ là cách gọi thông thường, nhưng các nhà khoa học thường gọi là hiện tượng nở hoa của tảo ở biển.

       Hiện tượng tảo nở hoa (có tài liệu còn gọi là hiện tượng nở hoa của nước) gây ra bởi các loài vi tảo và vi khuẩn lam sống trong nước biển hoặc nước ngọt khi chúng phát triển rất nhanh, bùng phát quá mức về mật độ tế bào hoặc sinh khối. Hiện tượng tảo nở hoa xảy ra cả ở biển và nước ngọt, khi xảy ra ở biển thì gọi là thủy triều đỏ. Tảo nở hoa có thể sống ở bề mặt nước hoặc ở tầng đáy.

Đặc biệt, những thực vật phù du và sinh vật nguyên sinh đơn bào, các sinh vật như thảo mộc có thể hình thành những đám dày đặc, các vết có thể nhìn thấy ở gần bề mặt nước. Một số loài thực vật phù du, tảo chứa sắc tố quang hợp khác nhau về màu sắc từ xanh sang nâu đỏ.

       Khi mật độ tảo tập trung cao, nước sẽ đổi màu hay xỉn lại, từ tím đến gần như màu hồng, thường là màu đỏ hoặc màu xanh lá cây. Không phải tất cả việc nở rộ tảo đều dày đặc đủ để làm cho nước đổi màu, và không phải tất cả những nước đổi màu có liên quan đến nở rộ tảo đều đỏ. 

       Hiện tượng tảo nở hoa có thể do các loài tảo có độc tố và các loài không có độc tố. Khi các tảo độc nở hoa, chúng tiết ra các độc tố thuộc về 3 nhóm: nhóm độc tố gan, nhóm độc tố thần kinh, nhóm độc tố gây tiêu chảy. Chúng không chỉ gây độc cho các sinh vật sống trong nước như cá, giáp xác, động vật thân mềm, động vật có vú ở biển (như cá voi, sư tử biển)… mà còn gây độc cho cả một số loài chim, cho con người khi ăn phải thủy sản bị nhiễm độc, khi tiếp xúc hoặc uống phải nguồn nước bị nhiễm độc.

       Các độc tố có thể ảnh hưởng tới không khí, gây khó thở. Ngoài việc tạo ra các độc tố, chúng còn làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước do chuyển màu, có mùi tanh khó chịu, hàm lượng oxy giảm đột ngột do phân hủy một lượng sinh khối lớn.Tảo không độc khi nở hoa cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng nước khi lượng sinh khối lớn của chúng bị chết và phân hủy.

       Tóm lại, hiện tượng nở hoa của tảo, đặc biệt là tảo độc gây tác hại tới hệ sinh thái biển, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đối với con người, gây thiệt hại cho ngành kinh tế khai thác, nuôi trồng thủy sản.

Thực tế, không phải đợt bùng phát tảo biển nở hoa nào cũng có hại. Chúng có thể có lợi vì là thức ăn cho sinh vật trong đại dương.

       Theo một cuốn sách của ông Kin-Chung Ho, Đại học Mở Hong Kong, sự xuất hiện của thủy triều đỏ ở một số địa điểm dường như là hoàn toàn tự nhiên, do sự chuyển động của các dòng hải lưu nhất định. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng có thể do phú dưỡng hóa nguồn nước - thải quá nhiều vào nước chất dinh dưỡng như nitrat hay phốt phát từ hoạt động nông nghiệp hay hiện tượng nước trồi - dòng nước lạnh đặc và nhiều dinh dưỡng di chuyển từ phía sâu lên bề mặt đại dương, thay thế dòng nước nóng hơn.

Thủy triều đỏ đã xảy ra ở nhiều nước: Hoa Kỳ, Brasil, Úc, Philippines, Trung Quốc, Anh, Malaysia…và gây ra nhiều thiệt hại.

       Năm 1968, tại Anh có 78 trường hợp người bị ngộ độc do ăn sò xanh nhiễm độc tố của tảo Alexandrium tamarense. Tính đến năm 1995, tại Philippines đã có 1422 người bị ngộ độc do ăn cá nhiễm độc tảo Pyrodinium bahamense var compressum và 82 người trong số này đã tử vong. Năm 1998, một loài tảo mới xuất hiện ở vùng biển Hong Kong đã gây ra thuỷ triều đỏ, ảnh hưởng đến 20 trong tổng số 26 khu vực nuôi cá, hủy hoại hơn 80 % trữ lượng cá thường xuyên. Năm 2013, hai người Malaysia đã chết do ăn cá nhiễm tảo độc từ thủy triều đỏ ở bờ biển đảo Borneo.

Tất cả các bang ven biển của Hoa Kỳ đều bị thủy triều đỏ và chịu nhiều thiệt hại do thủy triều đỏ gây ra, đặc biệt là ở New England, Florida, khu vực gần Vịnh Mexico… Thiệt hại do thủy triều đỏ gây ra đối với nuôi trồng, khai thác thủy sản, du lịch lên tới hàng chục triệu đô la.

       Tại Việt Nam, hiện tượng thủy triều đỏ cũng đã xảy ra ở nhiều nơi. Tuy nhiên, khu vực biển Bình Thuận là nơi có tần suất nở hoa của vi tảo cao nhất, hiện tượng này. Tháng 6 - 7/2014, thủy triều đỏ tạo nên các trận bọt biển màu đỏ vàng ở bãi biển Mũi Né – Hòn Rơm (Phan Thiết, Bình Thuận). Xác cá và nhiều động vật, rong tảo biển dạt vào và phân hủy, bốc mùi hôi thối gây ô nhiễm môi trường. Cư dân ở đây cho biết hiện tượng thủy triều đỏ thường xuất hiện ở vùng biển này vào tháng 6 hàng năm.

       Đồng thời, nghề sản xuất giống thủy sản và nuôi lồng các loài tôm hùm, cá mú cũng thải ra môi trường một lượng dinh dưỡng đáng kể cũng là một điều kiện kích thích sự nở hoa. Hiện tượng nở hoa nước thường xảy ra trong các hồ nước ngọt và các ao nuôi thủy sản. Hiện tượng tảo nước ngọt nở hoa cũng đã gặp ở Hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), hồ Xuân Hương (thành phố Đà Lạt) và gần đây, trong tháng 4/2016 tại sông Ba, đoạn chảy qua xã Chư Ngọc huyện Krông Pa, Gia Lai.

       Theo các nhà khoa học, hiện tượng thủy triều đỏ và nở hoa nước là một trong những vấn đề cấp bách cần được quan tâm nghiên cứu cụ thể, lâu dài như: Về quy luật phát sinh và lan truyền của hiện tượng thủy triều đỏ và nở hoa nước; về sinh thái phát triển và sản sinh độc tố của một số loài vi tảo kể cả các loài đang hình thành có khả năng nở hoa. Trên cơ sở đó, có sự cảnh báo để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đồng thời đánh giá đầy đủ về những thiệt hại mà nó gây ra.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
31 tháng 1

Hiện tượng ấy có nguồn gốc tâm lý: muốn phán xét người khác.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
31 tháng 1

Trước hết là một hình thức bạo lực bằng ngôn từ. Bạo lực bằng ngôn từ có nguy cơ dẫn đến bạo lực về thể chất, hay làm dấy lên những định kiến, bất công xã hội.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
31 tháng 1

Đầu tiên, nó có thể khiến người bị miệt thị ngoại hình rơi vào trạng thái tâm lí tự ti, mặc cảm. Dần dần, người ta có cảm giác căm ghét chính cơ thể của mình. Việc bị ám ảnh thường xuyên bởi những lời miệt thị làm nảy sinh nhu cầu chỉnh sửa các khiếm khuyết của bản thân. Họ áp dụng những hình thức khắc phục bản thân như nhịn ăn, tập luyện khắc nghiệt, uống thuốc và phẫu thuật thẩm mĩ liên tục để thay đổi. Những điều này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe: biếng ăn, thể trạng suy kiệt, suy nhược tinh thần, trầm uất, không còn muốn hoạt động,...

24 tháng 9 2023

Tham khảo

Nếu nói bánh Chưng là biểu trưng cho ngày Tết miền Bắc thì bánh Tét chính là linh hồn Tết của miền Nam. Mặc dù ở mỗi địa phương lại có loại bánh Tét khác nhau nhưng nhìn chung bánh Tét Nam Bộ đều chung một khuôn mẫu, chung một quy trình cách thức và đều mang ý nghĩa sâu sắc.

Bàn về nguồn gốc của bánh Tét, có rất nhiều những thông tin khác nhau được đưa ra. Có nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn gốc bánh Tét là từ sự giao lưu văn hóa Việt - Chăm-pa, cũng có truyền thuyết nói rằng bánh Tét có từ thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh quân Thanh. Khi vua cho quân nghỉ chân ăn Tết năm 1789, vua thấy anh lính mang mời một món bánh rất ngon liền ra lệnh mọi người gói bánh này ăn Tết, đặt tên là bánh Tết, lâu ngày tên bánh chuyển thành bánh Tét.

Bánh Chưng có hình vuông tượng trưng cho trời, đất thì bánh Tét có hình trụ dài tượng trưng cho những cột chống trời, đứng giữa trời và đất mở ra không gian cho con người sinh hoạt và lao động sản xuất. Chính vì hình dáng trụ dài này nên bánh Tét còn được gọi với tên thân thuộc là những đòn bánh Tét. Thuở xa xưa khi đời sống còn khó khăn, bánh Chưng hay bánh Tét chỉ được gói vào dịp đặc biệt quan trọng như Tết nguyên đán, ngày nay bánh tét cũng được gói vào dịp này, tuy nhiên cũng có thể gói để bán vào mọi thời điểm trong năm. Mọi người gói bánh vào dịp trước Tết để vào ngày Tết có cặp bánh tét để trên bàn thờ dâng tổ tiên.

Bánh tét được gói bằng là chuối hoặc lá dong với nhân là gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn. Có nhiều loại bánh tét phụ thuộc vào nhân của nó nhưng nhìn chung có hai loại là bánh tét mặn và bánh tét ngọt. Bánh tét mặn nhân thịt còn bánh tét ngọt nhân các loại đỗ đen, đỗ đỏ, hạt điều, làm nên sự phong phú của món ăn này. Từng địa phương ở Nam bộ lại làm ra những món bánh tét mang hương vị khác nhau, mỗi nơi lại cố gắng mang hương vị đặc trưng của địa phương vào chiếc bánh. Điển hình như Bến Tre còn có bánh tét không nhân, bánh chỉ có gạo nếp trộn cũng đậu và nước cốt dừa ăn rất lạ. Trước khi gói bánh cần có khâu chuẩn bị nguyên liệu: rửa sạch lá dong, ngâm gạo, vo rửa gạo và đậu xanh thật kỹ, thái và ướp thịt hoặc chuẩn bị các loại nhân. Nguyên liệu phải hoàn toàn tự nhiên và tươi ngon nhất, màu xanh của gạo có được nhờ trộn với nước lá rau ngót hoặc lá dứa, gạo nếp thơm dẻo có độ xốp nhất định. Một chiếc bánh tét được xem là gói khéo nhất khi bánh tròn đều, lạt buộc chắc tay và khi cắt ra nhân bánh có hình tam giác.

Quá trình luộc bánh rất quan trọng, nó quyết định đến độ thơm ngon, dẻo đẹp và bắt mắt của chiếc bánh. Bánh sau khi gói xong được dựng thẳng đứng vào trong nồi, đổ ngập nước và luộc sôi trong 6 đến 8 tiếng tùy vào số lượng và kích thước của bánh. Lúc vớt bánh ra người ta thường đem bánh rửa trong nước lạnh để bánh sạch sẽ không bị mốc, nước lạnh giúp bánh cứng chắc và giữ dáng hơn. Khi thưởng thức bánh tét, cách ngon nhất là dùng lạt để cắt, một tay cầm bánh, một tay cầm đầu dây lạt, một đầu dùng răng cắn rồi nhẹ nhàng kéo để cắt ra một khoanh bánh tét. Ăn đến đâu sẽ lột vỏ và cắt bánh đến đó, như vậy sẽ giữ được bánh lâu hơn và bảo quản tốt hơn. Bánh tét có nhiều cách ăn cùng các món ăn khác, thông thường đối với bánh tét mặn sẽ được ăn kèm với các loại dưa hành, dưa kiệu, dưa củ quả còn các loại bánh tét ngọt sẽ được ăn với hoa quả như chuối.

Là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết của người dân Nam bộ, bánh tét mang ý nghĩa nhân sinh cao cả, tượng trưng cho hình ảnh người mẹ bao bọc con cái, lớp vỏ bánh bao quanh lớp nhân bên trong giống như sự đùm bọc, bảo vệ nhau, yêu thương nhau giữa mọi người. Bánh tét làm từ những nguyên liệu xuất phát từ quá trình lao động của con người vì thế nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho đất trời, mùa màng, chăn nuôi, sức lao động của con người. Sự có mặt của bánh tét trong ngày Tết mang đến sự ấm cúng, sum vầy, không khí ấm áp hạnh phúc trong mọi gia đình.

Bánh tét là một món ăn nhưng hơn cả ý nghĩa của một món ăn, nó mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, nó thể hiện được bản sắc văn hóa, đời sống tình cảm cũng như lối sống của người dân Nam Bộ. Từ những khoanh bánh tét trên mâm cơm ngày Tết người ta gợi ra những câu chuyện, trao nhau những tình cảm và răn dạy nhau nhiều điều trong cuộc sống.