K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

13 tháng 3 2017

Hồi trống cổ Thành là tên do người biên soạn đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa hổi 28, có hai câu thơ làm tiêu đề:
Chém Sái Dương anh em hoà giải,
Hồi Cổ Thành tôi chứa đoàn viễn.
Chữ hồi trong câu thơ này có nghĩa là trở vể, chứ không phải là hồi trống như trong tôn đoạn trích.
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiểu nhân vật, nhưng sinh động nhất, gảy ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Tào Tháo, Khổng
Minh, Quan Công và Trương Phi.
Đoạn trích Hổi trống Cổ Thành rất giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không binh phẩm. Linh hồn đoạn trích kết tụ trong hồi trống của Trương Phi. Đó lã hồi trống ra quân, cũng là hổi trống thu quân, hổi trống thách thức- giải oan vả đoàn tụ. Nội dung đoạn trích toát lèn hai ý: Tính cách nóng ó Vũng tuyệt vời trung nghĩa của Trương Phi vá ý nghĩa sâu xa của hói trống cổ Thành.
Lúc mới dựng nghiệp, nhà Thục còn yếu. trong khi đó quân Tào rất mạnh ; vi thế nên quân Thục thua liên tiếp. LƯU Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Quan Cống, Trương Phi bàn mưu kế chống lại Tào Tháo. Bị bại lộ, Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi kéo hai mươi vạn quản đánh Lưu Bị. Ba anh em LƯU, Quan, Trương thua trận, mỗi người chạy một ngả. Lưu Bị chạy sang Nhữ Nam ở nhờ Viên Thiệu, Quan Công bị khốn ở Thổ Sơn, Trương Phi tá túc ở cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công theo lòi Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân sang ở nhờ Tào Tháo. Tạm háng Tảo Tháo nhưng Quan Công ra điều kiện rằng nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ đi tìm ngay.
Biết tin Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công đưa hai chị dâu di tìm. Tào Tháo vì muốn lưu giữ Quan Công để sử dụng sau này nên không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không sai tướng đuổi bắt. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công qua ải nên ông phải mở đường máu mà đi. Quan Công đã phải chém sáu tướng Tào để vượt qua năm cửa ải: Qua ải ĐỒng Lĩnh chém Khổng Tú. Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thẩn. Qua Nghi Thuỷ giết Biện Hỷ. vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực. Đến bờ Hoàng Hà giết Tân Kỷ.
Đoạn trích kể về cuộc “đụng độ” đặc biệt do sự hiểu lầm giữa hai anh em kết nghĩa là Quan Công và Trương Phi ở cổ Thành.
Trên đường sang Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến cổ Thành, Quan Công hỏi thăm được biết Trương Phi đang ở đấy nên xiết bao vui mừng. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công ăn ở hai lòng nên đã lầm tưởng là Quan Công lửa minh để bắt nộp cho Tào Tháo; vì thế giận dữ không thèm tiếp, lớn tiếng sỉ mắng và doạ đánh. Ngẫu nhiên, lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân ầm ầm kéo đến khiến Trương Phi càng khẳng định thêm nghi ngờ của mình là đúng. Thanh minh không được, Quan Công hứa sẽ chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi ra điều kiện sau ba hổi trống, Quan Công phải chém rơi đẩu tướng Tào thì mới tin. Nhưng Trương Phi vừa đánh dứt một hổi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi tạm nguôi giận nhưng chỉ sau khi nghe tên lính hầu của Sái Dì cũng bi Quan Công bắt kể đầu đuôi mọi chuyện thi chàng mới tin, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Quan Công vào được CỔ Thành, “cửa ải thứ sáu” và cũng là cửa ải thử thách ghê gớm nhất đối VỚI lòng trung nghĩa.
Trương Phi là con người thẳng như làn tên bắn, sáng như tấm gương soi, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo. Đối với Trương Phi, đen trắng phải rõ ràng; với kẻ thù thì chỉ có thể nói chuyện bằng gươm giáo. Tính cách Trương Phi vốn dĩ nóng nảy; bộc trực và đơn giản, song để xác định Quan Công trung thành hay phản bội, Trương Phi lại không đơn giản chút nào. Khi nghe tin Quan Công đến, Trương Phi giận dữ mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.
Càu hỏi của Quan Công: Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào , y?càng làm cho Trương Phi bừng bừng nổi giận. Ý của Quan Công là muổn nhắc lại việc ba anh em kết nghĩa vườn đào để uốn nắn thái độ quá khích của Trương Phi, không ngờ lại như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Trương Phi thêm
phẫn nộ. Theo Trương Phi, Quan Công đã ở chung với Tào Tháo một thời gian, lại nhận tước vị Tào Tháo phong cho là phản bội. Đã phản bội mà còn dám động đến chuyện anh em kết nghĩa vườn đào thì lại càng đáng căm thù và phỉ nhổ. Quan Công phản bội thì phải xử đúng nhu lời thề trước đây: Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cũng giết. Những lời thanh minh giúp cho Quan Công của hai chị dâu và Tôn Càn không làm dịu bớt cơn thịnh nộ của Trương Phi.

- Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chó hấp tấp mà làm càn bày giờ. Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!
Mi phu nhân cũng nói:
- Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.
Phi nói:
- Hai chị bị lùa dối đấy. Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ ?
Quan Công nói:
- Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng quá!
Tôn Càn nói:
- Vân Trường đến đày là cốt để tìm tướng quân.
Trương Phi mắng:
- Mày cũng nói lảo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta dó!
Tôn Càn bênh vực Quan Công không được mà Cam phu nhân, Mi phu
nhân thanh minh hộ cũng vô hiệu. Với Trương Phi, dẫu có “trăm nghe” cũng không bằng “một thấy". Trước vấn để trọng đại, Trương Phi đã hết sức cẩn trọng. Quan Công thanh minh: Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quản mã chứ? Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói: Không phải quân mã là gì kia ? Sự hiểu lầm đã lên tới điểm đỉnh vi một chi tiết ngẫu nhiên: Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy đuổi Quan Công đang tới gần. Để xoá bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ có cách là chém đầu Sái Dương Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phả chém rơi đầu tướng của Tào Tháo. Dứt lời, Trương Phi lập tức đánh trống, Bao nhiêu uất ức, căm giận của Trương Phi như dồn cả vào cánh tay thúc trống.
Chỉ sau một hổi, đầu Sái Dương đã làn dưới đất. Tưởng thế là mọi việc đã rõ và câu chuyện nhanh chóng đi đến kết thúc, song thực tế lại diễn ra không đơn giản. Mãi đến khi nghe một tên lính bị bắt kể-về lí do Sái Dương đến cổ Thành là để truy đuổi và trị tội Quan Công vì đã giết cháu ngoại hắn ; rồi Trương Phi còn hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, bấy giở Phi mới tin anh là thực. Tác giả vẫn chưa dể Trương Phi vội biểu lộ rõ thái độ ngay lúc ấy mà cho tới lúc đã vào CỔ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những việc Quan Công đã trải qua thì Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường.
Nóng nảy, thô lỗ và tinh tế, biết điều là hai nét tính cách đối lập song ở đoạn trích này, chúng tại xuất hiện trong cùng một nhân vật Trương Phi. Trương Phi đã từng dùng mưu mẹo tinh vi để bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo và bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không hề làm hao tổn một binh sĩ. Thô trung hữu tế (trong cái thô có cái tinh tế) là biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và tinh tế ở đây đểu là biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phị, trong tinh huống ở cổ Thành, việc hạ thủ Quan Công có lẽ còn dễ hơn, đơn giản hơn là kiểm nghiệm lòng trung thành của Quan Công. Cái khéo léo của tác giả là đã tạo ra những tình huống để cho cả hai nét trái ngược trong tính cách Trương Phi cùng bộc lộ vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn.
Trong đoạn trích Hồi trống cổ Thành, Quan Công tỏ ra rất độ lượng và từ tốn, thể hiện qua các chi tiết nổi bật như: ngạc nhiên và hốt hoảng trước cách xử sự của Trương Phi, thái độ nhún minh thanh minh trước người em nóng nảy, cầu cứu hai chị dâu, chấp nhận điều kiện khắc nghiệt để minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là nỗi oan đặc biệt: làm công việc vì chủ tướng nhưng lại trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ vá lòng dũng cảm, phi thường.
Để đến được CỔ Thành, Quan Công đã phải vượt qua bao. thử thách (năm cửa ải). Những kẻ cản dường trong hành trình gay go này là các tướng địch. Còn tại Cổ Thành, oái oăm thay, kẻ cản đường quyết liệt lại là anh em kết nghĩa ! Với tài nghệ xuất sắc chém rơi đầu Sái Dương trong nháy mắt, vấn đế trung thành hay phản bội của Quan Công đã được làm sáng tỏ.
Điếu thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong quan hệ đối sánh với Trương Phi. Người đời khen quan Công “tuyệt nghĩa". Nhưng chữ “nghĩa" cũng có hai mặt trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa là lòng trung thành với vua, với lí tưởng phò nhà Hán. về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín nghĩa là
lòng tin trong quan hệ giữa bạn bè, anh em, Quan Công cúng rất coi trọng Đoạn trích có hai nhân vật, nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền để tính cách của Trương Phi nổi bật.
Cái tồn Hồi trống cổ Thành rất hay vì trước hết, nó gợi lên không khí chiến trận, ở đây không chi có mâu thuẫn chù yếu giữa Trương Phi và Quan Công mà còn là mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy đó chỉ là mâu thuẫn thứ yếu song nó cũng không kém phần căng thẳng và điểu đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chủ yếu thêm quyết liệt.
Ba hổi trống là điều kiện, hơn thế, là vị quan toà nghiêm khắc có quyển phán xét Quan Công trung thành hay phản bội. Điều kiện ba hồi trống Trương Phi đặt ra là vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chém được đẩu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo

đã từng công khai biểu thị thái độ không phục Quan Công, giờ lại mang quyết tâm trả thù rất cao cho cháu, đó cũng là thách thức to lớn với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã làm tăng sức mạnh và tài nghệ của Quan Cống, cho nên Quan Công đã làm được một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chém rơi đầu Sái Dương trong nháy mắt.
Bởi vậy, Hổi trống cổ Thành dù mang đậm không khí trận mạc song rất khác tiếng trống trận thông thường. Nó đã trở thành một biểu tượng cho lòng trung nghĩa, tinh thần dũng cảm và thái độ công minh chính trực.
Có thể coi Cổ Thành là cửa ải thử sáu nhưng đó là cửa ải tinh thần, cửa ải khảo nghiệm lòng trung nghĩa. Với tải nghệ của Quan Công, vượt qua nằm cửa ải kia còn dễ hơn nhiều. Trong cái thế “tinh ngay lí gian" thì việc biện bạch, giải quyết thông suốt những mắc mớ trong tư tưởng, tinh cảm của một người nóng nảy như Trương Phi quả là cực khó.
Sự hiểu lầm của Trương Phi đối với Quan Công có lí do cụ thể và đã được tháo gỡ. Song điều đáng quý là trôn nén của sự cố hiểu lầm ấy, tác giả đã triển khai một xung đột có tính chất nguyên tắc: đó là không thể nào dung hoà giữa ý chí bất khuất và sự đầu hàng, giữa lòng trung thành và sự phản bội.
Đoạn trích Hôi trống cổ Thành'có kết cấu hoàn chinh như một vở kịch đầy kịch tính. Đây là một đặc điểm trong nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết cổ điển mà mỗi chương hồi thường là một câu chuyện có mở đầu vả kết thúc. Phần trình bày giới thiệu nhân vật, sự việc, hoàn cảnh. Phần mở mối ở đây là từ sự hiểu lầm dẫn đến mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Phần phát triển là sự xuất hiện đột ngột của Sái Dương, đánh dấu điểm đỉnh mâu thuẫn. Việc Quan Công chém rơi đầu Sái Dương là điểm mở nút khiến cho mầu thuẫn được giải quyết. Sau khi tác giả giới thiệu nhân vật và sự việc thi mở ra mâu thuẫn, rổi mâu thuẫn được đẩy lên đinh điểm và được giải quyết bằng một hành động quyết liệt.
Chi qua một đoạn trích ngắn là Hồi trống cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được tác giả khắc hoạ nổi bật vẻ đạp sáng ngời về lòng tin nghĩa, sự trung thực và chân thành của tinh anh em. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc diễn nghĩa đã để lại rất nhiều bài học về đạo lí, về lối sống, lối ứng xử của người quân tử phương Đông, lấy quy chuẩn luân lí nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho giáo làm mực thước.

6 tháng 8 2017

Chọn đáp án: D

18 tháng 3 2021

1 câu hỏi hay và khó

Nghị luận văn học là dạng văn bản dùng để bày tỏ sự cảm thụ tác phẩm văn học theo suy nghĩ của cá nhân, là những lý lẽ để đánh giá, phân tích, bàn bạc về vấn đề thuộc lĩnh vực văn học để khám phá thế giới nội.

 

Thuyết minh văn học là nêu nguồn gốc/ hoàn cảnh sấng tác, đặc điểm cấu tạo ( có bao nhiêu phần, đoạn, chương,...), công dụng, giá trị mà tác ohaamr vhok đó đem lại

29 tháng 5 2020

bạn phải tự làm đi thì mới giỏi được

- Đọc trước đoạn trích Hồi trống Cổ Thành; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả La Quán Trung, tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa- Đọc nội dung giới thiệu sau đây để hiểu bối cảnh đoạn trích:Tam quốc diễn nghĩa là bộ tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử dài 120 hồi. Tác phẩm chủ yếu kể lại quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của ba tập đoàn phong kiến Tào, Ngụy, Lưu, Thục và Tôn...
Đọc tiếp

- Đọc trước đoạn trích Hồi trống Cổ Thành; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả La Quán Trung, tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa

- Đọc nội dung giới thiệu sau đây để hiểu bối cảnh đoạn trích:

Tam quốc diễn nghĩa là bộ tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử dài 120 hồi. Tác phẩm chủ yếu kể lại quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của ba tập đoàn phong kiến Tào, Ngụy, Lưu, Thục và Tôn Ngô trong gần 100 năm (184-280) của nước Trung Hoa thời cổ.

Ở phần đầu bộ tiểu thuyết, ba nhân vật Lưu Bị, Quan Vân Trường (Quan Công) và Trương Phi, những người lập nên nhà Lưu Thục sau này, gặp nhau, kết nghĩa anh em ở vườn đào, thề cùng nhau sống chết để khôi phục nhà Hán. Ở thời kì đầu loạn lạc, ba anh em gặp rất nhiều khó khăn, mỗi người một ngả. Lưu bị phải theo Viên Thiệu, Quan Công bất đắc dĩ theo Tào Tháo, còn Phương Phi lưu lạc ở Cổ Thành. Đoạn trích sau đây kể lại chuyện quan công sau khi biết Lưu Bị đang ở bên phía Viên Thiệu đã đem hai chị dâu chạy khỏi doanh trại của Tào Tháo, trên đường đi biết tin Trương Phi đã lấy được Cổ Thành nên tìm về đoàn tụ.

1
HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
20 tháng 12 2023

Tác giả La Quán Trung

1. Tiểu sử

- La Quán Trung (1330 – 1400), tên La Bản, hiệu Hồ Hải tản nhân.

- Người vùng Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn Tây cũ.

- La Quán Trung sinh ra trong một gia đình quý tộc, tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước nhưng đúng khi nhà Nguyên đang suy tàn. Chí lớn không thành, ông bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân.

- Tính tình: cô độc, lẻ loi, thích một mình ngao du đây đó.

- Người có chí lớn, ôm mộng “mưu đồ sự nghiệp bá vương” nhưng không thành.

2. Sự nghiệp văn học

a. Phong cách nghệ thuật

- La Quán Trung nổi tiếng có tài văn chương, giỏi từ khúc, câu đối và kịch nhưng thể hiện rõ nhất ở tiểu thuyết.

- Ông chuyên sưu tầm và biên soạn dã sử.

b. Tác phẩm chính

- Những tác phẩm nổi bật : “Tam quốc diễn nghĩa”, “Tùy Đường lưỡng triều chí truyện”, “Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa”, “Bình yêu truyện”,…

→ Là người đầu tiên có đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử Minh – Thanh. 

18 tháng 3 2021

1. Khi nghe tin Quan Công đến.

Hành động vội vàng, nóng vội:

- Thái độ: chẳng nói chẳng rằng

- Hành động: Mặc áo giáp dẫn nghìn quân lên ải Bắc

2. Khi gặp Quan Công

- Thái độ: mắt trợn tròn, râu hùm vểnh ngược.

- Hành động: hò hét như sấm, múa sà mâu tới đâm Quan Công.

- Cách xưng hô: Mày – tao, nó, thằng, không coi Quan Công là người bề trên.

 

- Nguyên nhân: vì nghi ngờ Quan Công phản bội

→ Là một người nóng nảy nhưng đó là biểu hiện của sự cương trực, kiên quyết.

- Buộc tội Quan Công: Sử dụng những lập luận sắc bén, hợp tình hợp lí

+ Bỏ anh → Bất nghĩa

+ Hàng Tào → Bất trung

+ Được phong hầu tước → Tham lam

+ Đến đây đánh lừa; đâu có tốt bụng; đến để bắt ta → Bất nhân

→ Là người ngay thẳng, yêu ghét rõ ràng, trắng đen rạch ròi.

3. Khi Sái Dương xuất hiện.

- Suy nghĩ: Nghĩ Quan Công đem quân đến bắt mình

- Hành động: Múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.

- Yêu cầu: Đánh ba hồi trống để Quan Công chém chết tướng giặc thể hiện lòng thành, thẳng tay đánh trống để thách thức Quan Công.

→ Thái độ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát của con người ngay thẳng

→ Việc Sái Dương xuất hiện đẩy mâu thuẫn giữa hai nhân vật Trương Phi - Quan Công lên đến đỉnh điểm

→ Sái Dương là nút thắt để Quan Công giải mối hàm oan, Quan Công nhờ đó mà giải được nỗi oan cho mình, Trương Phi cũng thể hiện được khí chất khảng khái của người anh hùng.

 

4. Khi Quan Công giết được Sái Dương

- Thái độ, hành động: rỏ nước mắt, thụp lạy Quan Công

→ Thái độ bao dung, phục thiện đúng lúc.

→ Trương Phi là con người giàu tình cảm, nóng nảy, thô lỗ nhưng khôn ngoan và biết trọng lẽ phải.

18 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

La Quán Trung ( 1330-1400), tên thật là La Bản, hiệu Hồ Hải  tản nhân, người Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn Tây cũ. Bản tính cô độc, lẻ loi, thường thích một mình ngao du đây đó. Khi nhà Minh được thành lập, ông chuyên tâm sưu tầm và biên soạn dã sử. Ông là người đầu tiên đóng góp xuất sắc cho sự hình thành và phát triển của trường phái tiểu thuyết lịch sử thời Minh Thanh ở Trung Hoa

Tác phẩm chính : Tam quốc diễn nghĩa, Tùy Đường lưỡng triều chí truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Bình yêu truyện,..........

2. Tác phẩm

Tam quốc diễn nghĩa thuộc loại tiểu thuyết chương hồi, ra đời vào thời Minh ( 1368-1644), gồm 120 hồi, kể về cục diện " cát cứ phân tranh" trong thời gian gần 100 năm của nước Trung Quốc thời Tam quốc - với ba tập đoàn phong kiến Ngụy, Thục, Ngô ( thế kỷ II và III). Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, các sự kiện được trần thuật theo trình tự thời gian, tính cách các nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành động và ngôn ngữ đối thoại.

Đoạn trích  Hồi trổng Cổ thành thuốc hồi 28, kể lại sự kiện anh em Quan Công, Trương Phu hội ngộ. La Quán Trung thể hiện nổi bật tính cách bộc trực, ngay thẳng của Trương Phi, đồng thời ca ngợi tình nghĩa "Vườn đào" cao đẹp của anh em Lưu Bị, Văn Trường, Trương Phi

II. Trả lời câu hỏi

1. Tại sao Trương Phi nổi giận định đâm chết Quan công?

 Trương Phi là người cương trực, tính tình nóng nảy ( Dân gian có câu: “Nóng như Trương Phi”). Đang lúc giận, câu nói của Quan Vũ: "Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào ru?" khiến Trương Phi bừng bừng nổi giận. Quan Vũ muốn nhắc lại việc kết nghĩa vườn đào để Trương Phi bớt giận, không ngờ điều đó như đổ thêm dầu vào lửa, càng làm Trương Phi phẫn nộ bởi vì trong suy nghĩ của Trương Phi, Quan Vũ theo Tào phản bội anh em, đã phản bội còn rêu rao "nghĩa vườn đào" là hoàn toàn không xứng, là đáng phỉ nhổ, đáng giết.

Trương Phi, với tính cách một võ tướng dũng mãnh, một đấng trượng phu, luôn là người cương trực, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo, đen trắng rõ ràng. Nhưng quan trọng hơn cả, Trương là người trọng nghĩa khí, quí tình anh em. Cho nên, hành động tấn công người anh em kết nghĩa vườn đào chẳng phải chỉ do hiểu nhầm đơn thuần, cũng không chỉ biểu hiện cá tính nóng nảy, mà còn bộc lộ một phẩm chất rất đáng quí của Trương Phi: đó là phẩm chất của đấng trượng phu, quân tử, hào hiệp, coi tình nghĩa là trên hết, căm ghét tận xương tuỷ thứ hạng người bất nghĩa, bất trung...

2. Vì sao đoạn trích lại có nhan đề là "Hồi trống Cổ thành”?

 Trong nguyên tác, hồi 28 có tiêu đề:

                            “Chém Sái Dương, anh em hoà giải                                                                                                                                      Hồi Cổ thành, tôi chúa đoàn viên”.

Chữ "hồi” trong nhan đề đoạn trích (do người biên soạn đặt) có nghĩa là hồi trống (danh từ). Đây là hồi trống do Trương Phi gióng lên như một chi tiết có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo. Đây trước hết cũng là hồi trống trận như tất cả những hồi trống trận thông thường khác, nhưng có điều là người đánh trống không phải thuộc quân bên này hay quân bên kia, và hơn nữa, mục đích của hồi trống cũng không phải chỉ có thúc giục kẻ giao chiến. Có thể thấy, hồi trống như trút hết tất cả tâm trạng đang đầy mâu thuẫn, sự xúc động, căng thẳng đến tột cùng của Trương võ tướng, từ sau ngày anh em thất trận, bặt vô âm tín, cho đến nỗi oán hận vì nghe tin thất thiệt về Quan Công, những hi vọng được gặp lại nhau, và những thất vọng vì hiểu nhầm về nhau..., tất cả những tâm trạng ấy như đã được dồn nén để bây giờ vang lên, bùng nổ ra trong hồi trống Cổ Thành. Cho nên, ta như nghe thấy trong hồi trống ấy có cả tiếng khóc, tiếng cười, tiếng gầm thét vì giận dữ của Trương Phi. Nó như một khúc ca, ca ngợi tấm lòng thượng nghĩa, tình huynh đệ bất diệt giữa những người anh em kết nghĩa vườn đào. Chính vì vậy, đặt tên cho đoạn trích là Hồi trống Cổ thành là rất phù hợp với nội dung đoạn trích.

3. Có ý kiến cho rằng "nóng như Trương Phi” còn là nóng lòng muốn biết sự thực, nóng lòng xác định phải trái, đúng sai, chứ không phải chỉ là nóng nảy do cá tính gàn dở. Anh (chị) có đồng ý không? Vì sao?

Trương Phi có tính cách nóng nảy. Sự nóng nảy ấy, ngoài ý nghĩa cá tính riêng, còn có nhiều ý nghĩa khái quát khác:

- Mạnh mẽ, quyết liệt... (Tính cách một võ tướng).

- Cương trực, đường hoàng, hồn nhiên, trung thực... (Tính cách của một đấng trượng phu).

- Giàu tình cảm, trọng nghĩa khí...(Trượng phu)...

Theo ý nghĩa đó thì “nóng như Trương Phi” theo cách nói tiếng Việt mà được hiểu là “cá tính nóng nảy gàn dở” hay “nóng lòng muốn biết sự thật” đều không đúng.

Cần hiểu thành ngữ này theo nghĩa khái quát nhất: chỉ những hành vi và thái độ quá nóng nảy (nhưng không gàn dở và cũng không chỉ trong ý nghĩ).

4. Tại sao nói: nếu không có chi tiết Trương Phi thẳng tay giục trống thì đoạn văn sẽ tẻ nhạt, mất hết ý vị Tam quốc?

 Nếu không có chi tiết Trương Phi thẳng tay giục trống thì đoạn văn sẽ tẻ nhạt, rơi vào cuộc đoàn viên tầm thường, trong đó tính cách của các bậc anh hùng không được bộc lộ, tình nghĩa huynh đệ thuỷ chung, cao đẹp không được ngợi ca..

23 tháng 12 2017

Nhan đề có nghĩa:

- “Hồi trống Cổ Thành” trở thành biểu tượng nghệ thuật:

- Ca ngợi tinh thần trung nghĩa của Trương Phi.

- Xem trọng tình nghĩa anh em của Lưu, Quan, Trương

- Hồi trống thách thức, minh oan, và để nối kết sự đoàn tụ

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
20 tháng 12 2023

Với em, bài học sâu sắc nhất sau khi học văn bản Hồi trống Cổ Thành đó chính là tình cảm huynh đệ cảm động, những con người sẵn sàng hi sinh mạng sống vì nhau nhưng không chấp nhận sự bội tín, phản bội. Đồng thời ta nhận ra giá trị của lòng tin và chữ tín của mỗi người đối với các mối quan hệ xung quanh là vô cùng quan trọng. Tác giả khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp sáng ngời về lòng tin nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc diễn nghĩa đã để lại rất nhiều bài học về đạo lí, về lối sống, lối ứng xử của người quân tử phương Đông, lấy quy chuẩn luân lí nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho giáo làm mực thước.