
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Đáp án C
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lý Bí năm 544 đã đưa tới sự ra đời của nhà nước Vạn Xuân

khởi nghĩa thắng lợi
544:Lý Bí lên ngôi hoàng đế
đặt tên nước là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức
Đóng đô ở cửa sông Tô Lịch(Hà Nội)
Lập triều đình 2 ban
Ban văn:Tinh Thiều
Ban Võ:Phạm Tu
ý nghĩa:sự ra đời của nước Vạn Xuân thể hiện dân tộc ta vẫn giữ vẫn tiếng nói của tổ tiên, sánh bằng với các nước khác.
Sau khi đánh bại quân Lương, năm 544 Lý Bí lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đế)
Đặt tên nước là Vạn Xuân , dựng kinh đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), đặt niên hiệu là Thiên Đức
- Thành lập triều đình với hai ban Văn và võ.
Ý nghĩa : Với sự ra đời của nhà nước Vạn Xuân Sau 50 năm đấu tranh liên tục, một quốc gia độc lập tự chủ ra đời, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta

Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi dưới thời nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương, sau khi thoát khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa. Tháng 2 năm 544, sau khi đánh bại quân nhà Lương (Trung Quốc), Lý Bí xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên thành, tại làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội.
Việc thành lập nhà nước Vạn Xuân có ý nghĩa:
- Lật đổ ách thống trị của nhà Lương, ra đời nhà nước độc lập đầu tiên là Vạn Xuân sau hơn 500 năm đấu tranh của dân tộc ta.
- Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, đánh dấu bước trưởng thành trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
- Việc Lý Bí lên ngôi hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân đã thể hiện ý chí tự cường, tự chủ của dân tộc ta, làm thất bại âm mưu biến nước ta thành một đơn vị hành chính cùa Trung Quốc.
- Sự tồn tại của nhà nước Vạn Xuân trong hơn nửa thế kỉ là sự cổ vũ to lớn đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở các thế kỉ sau đó.


- Mùa Xuân 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đế), đặt tên nước là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, dựng kinh đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội).
- Triều đình gồm hai ban văn, võ. Triệu Túc giúp vua cai quản mọi việc. Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban v

cuộc khởi nghĩa thắng lợi đã lật đổ ách thống trị của nhà Lương đưa đến sự ra đời của nhà nước độc lập đầu tiên là Vạn Xuân sau hơn 500 năm đấu trnh của dân tộc ta

Tham Khảo
Câu 1 : Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong thời kỳ độc lập ngắn ngủi, thoát khỏi chính quyền phương Bắc.
Câu 2 : Lý Nam Đế đặt tên nước với ý nghĩa mong cho xã tắc thanh bình, dân tộc độc lập, thịnh vượng và truyền đến muôn đời sau

Năm 502, ở phương Bắc nhà Lương đã lên thay nhà Tề. Từ đó, nước ta liên tục bị ngập chìm dưới ách đô hộ bạo tàn của nhà Lương. Đi đôi với chính sách bóc lột, tô thuế nặng nề, đám quan lại đô hộ nhà Lương còn áp dụng chính sách phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã, ngay cả những dòng quý tộc Việt tham gia chính quyền cai trị ở Giao Châu trước đó cũng bị coi là lợi Hàn Môn, không được cất nhắc trọng dụng. Nỗi óan hận ngày càng sâu sắc của các bộ tộc Việt với chính quyền đô hộ đã trở thành nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa Lí Bí vào mùa xuân năm 542.
Hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về nơi sinh ra nhân vật này trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta vào thế kỷ thứ VI (Xem Doanh nhân Thái Bình, Sở Văn hòa Thông tin Thái Bình và Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, xuất bản , 2002, tr 21)
Tuy vậy, Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử cũ cho biết: Vua họ Lý, tên Bí người Thái Bình phủ Long Hưng (thuộc địa phận Thái Bình ngày nay). Cuốn thần tích lưu trữ tại đình Tử Các (xã Thái Hòa huyện Thái Thụy), nơi thờ Lý Nam Đế (ở đây gọi là Lý Bôn), còn nói rõ thêm”…Thời nhà Lương ở hương Thái Bình có gia đình họ Lý, chồng là Lý Công Trước vợ là Lương Thị Hằng nối nghề làm nghề công đức. Vợ chồng Lý Công Đức cùng vun công đức ấy, phàm bất kỳ công việc nào cũng không bỏ qua,, phàm việc công đức nhỏ nhất cũng đều dốc lòng… Đạo trời báo ứng, ngày 15 tháng Giêng năm Quý Mùi (503), sinh ra vua. Khi sinh có nhiều điều lạ , sản đường ánh sáng chói lòa, cả vùng hương thơm ngào ngạt.
Lý Bí sớm là người có tiếng văn võ song toàn. Ông từng lĩnh chức Giám quản châu đốc ở (Hà Tĩnh nay), nhưng do câm giận sự miệt thị, bạo ngược của quan lại nhà Lương liền bỏ quan trở về quê hương liên kết vời lớp hào kiệt, triêu tập hiền tài chờ ngày khởi nghĩa. Năm 542, cuộc khởi nghiã Lý Bí bùng nổ. Nhân dân, người hào kiệt nhiều nơi đã đồng lòng hưởng ứng. Trong số đó có nhiều bậc hiền tài nổi tiếng như Tính Thiều, Phạm Tu. Lý Phục Man và cả hai cha con trưởng thủ lĩnh vùng Chu Diên là Triệu Túc và Triệu Quang Phục. Cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng và chỉ trong vòng 3 tháng đã giành được thắng lợi. Quân Lương tiếp tục thất bại. Thứ sử Tiêu Tư phải cho người mang vàng bạc, của cải đút lót cho Lý Bí rồi chạy chốn về nước.
Sau những diễn biến bất ngờ, nhà Lương kịp trấn tĩnh và điều binh dồn đánh vòa Giao Châu cả từ hai vung Nam Bắc. Lợi dụng thời cơ quân Cham – Pa cũng vượt giải Trường Sơn chiếm đánh biên phía nam Châu Giao. Dựa vào sức mạnh toàn dân, Lý Bí thủ lĩnh của cuộc nổi dậy đã chủ động tổ chức các trận đánh và lần lượt đánh tan hai thế lực xâm lược, giành lại lãnh thổ cơ bản như từ thời dựng nước đầu tiên.
Đầu năm 544, Lý Bí tự xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Niên Đức, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở miền của sông Tô Lịch, dựng điện Vạn Thọ và cắt đặt triều đình, bá quan văn võ, Triệu Túc được phong là Thái Phó, Tính Thiều được cử đứng đầu quan văn, Phạm Tu đứng đầu hàng tướng võ, Lý Phục Man được giao cầm đầu tướng võ chuyên lo giữ biên ải.
Sau 500 năm, kể từ khi khởi nghĩa hai Bà Trưng, một lần nữa cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành thắng lợi với một ý nghĩa hết sức to lớn. Sự thành lập của nhà nước Vạn Xuân đã khẳng định nền độc lập tự chủ của đất nước ta và phủ nhận quyền đo hộ tàn bạo của thế lực phong kiến khổng lồ phương Bắc.
Tuy nhiên, trước những tham vọng của kẻ xâm lược. Nhà nước Vạn Xuân non trẻ củng chỉ tồn tại 5 năm (544 – 548) cho đến khi Lý Nam Đế qua đời. Trong những năm tháng này, vị vua họ Lý đã liên tục củng cố, xây dựng và phòng tuyến Chu Diên, Tô Lịch, Gia Ninh và nhiều lần trực tiếp cầm quân chặn đánh quân thù.
Với thế đất trọng yến và phần nào có thể xuất phát từ mối quan hệ đặc biệt với thủ lĩnh họ lý. Thái Bình khi ấy đã sớm được chú trọng lựa chọn xây dựng, củng cố hình thành những căn cứ liên hoàn tạo ra một tuyến phòng thủ hết sức lợi hại. Cả phòng tuyến được bố trí nương tựa vào nhau trải dài theo dọc theo hai triền sông Tiểu Hoàng Giang (sông Trà Lý), kể từ đầu nguồn cho đến tận miền đất rộng quanh vùng cửa biển. Toàn bộ hệ thống đồn lũy này vẫn còn lưu dấu khá đậm nét qua nhiều nguồn thư tịch, đặc biệt là các nguồn ngọc phả, thần tích, truyền tuyết… Xung quanh các di tích cổ thời Lý Nam Đế và các danh tướng của ông trên đất Thái Bình nay.
Vị trí căn cứ lớn của Lý Bí đầu tiên phải kể đến cả một vùng đất rộng lớn nhiều gò đống, nhiều đầm lầy xen kẽ nằm liền kề cả hai bờ sông Tiểu Hoàng Giang. Đây là nơi hạ lưu sông Hồng chia tạo ra một con sông lớn chảy ngang đất Thái Bình rồi đổ ra cửa biển Trà Lý nay. Xưa, cửa sông này từng có nhiều tên gọi như: Lỗ Giang, Phạm Lỗ, Vường Thượng Hộ,…Khi mang tên của Vường, đoạn sông này đã được sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn mô tả như sau:
“Ngã ba Vường nước sâu đến 15 trượng, so với các mức sông khác là sâu hơn cả”. Trong dân gian từ lâu cũng truyền tục câu; “Trăm năm của bể phải nể của Vường”. Do 1895, do đất lở cát bồi, của sông này được bồi nắn thay đổi vị trí lên đến thượng lưu sông Hồng chừng 1 km. Đời sau có đặt trạm tuần liểm nên của Vường còn quen gọi là của Tuần Vường. Mực sâu nước xiết thế đất hiểm trở, vì vậy cả một vùng xung quang của Vường đã được Lý Bí chọn là nơi đặt căn cứ, xây dựng quân doanh ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa.
Trong đó, tại bờ bắc của Vường, Lý Bí cho xây dựng hai khu đồn lũy chính :Một ở Cổ Trai (nay thuộc xã Hồng Minh huyện Hưng Hà), một nửa nay thuộc Hậu Tái (xã Bạch Đằng huyện Đông Hưng). Khi điểm lại phần “Đồn lũy cũ và các đời trước”, Cuốn tiên Hưng phủ chí cho biết: “Lý Nam Đế dấy quân chống cự quân đô hộ nhà Lương, lập doanh trại ở xã Cổ Nhai thôn Vĩnh Diêm, tổng Diên Hà lại lập đồn khác ở là Biệt Đồn ở xã Hậu Thái để thanh viện”. Đất Cổ Trai, (Kẻ Giai), tương truyền là nơi ông nội Lý Nam Đế tên là Lý Tán từng phiêu bạt về ngự cư, khai hoang lập ấp; sau được dân lập miếu thờ gọi là miền Long Hưng địa. Hậu Thái năm trong vùng có tên là Thần Hậu vốn là điền địa Thái Ấp của Hoàng hậu Đỗ Thị Khương được Lý Năm Đế ban cho. Sau bà tặng lại cho dân để thu hoạch hoa lợi lo việc cung tế về sau.
Đối ngạn với các đồn lũy trên là một căn cứ khác của nghĩa quân mà trung tâm là Trang An Để (nay thuộc xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa huyện Vũ Thư). Đây là quê hương của hoàng hậu Đỗ Thị Khương, miền đất nhiều tiềm năng “Địa lợi, nhân hòa”. Cuốn thần tích Tiền Lý triều phả lục viết năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), được các đời sau sao giữ tại miếu Hai Thôn (nằm ở thôn Hữu Lộc giữa hai xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa, Vũ Thư) công ghi lại một bài thơ đầy ngưỡng vọng của Lý Bí khi lần đầu tiên đến miền đất này như sau:
Thành thị lâu dài giai bảo ngọc
Giang sơn hoa thảo thống đan thanh
Dư khí trưng thành tuy tiểu mạch
Mạc cư chân khả kiến chung thành
Thành thị lâu đài đều như ngọc
Núi sông hoa cỏ một màu xanh
Mạch nhỏ như trành chung thành khí
Quyết cho dựng lũ tập trung thành
Yêu cảnh, mến người, Lý Bí không chỉ quyết định đắp lũy, dựng đồn doanh tuyển chọn trai tráng mà còn xin kết duyên với ái nữ của hòa trưởng Đỗ Công Cẩn là Đỗ Thị Khương – một thục nữ nổi tiếng tài sắc vẹn toàn ở trang An Để. Tương truyền, sau miếu Hai Thôn sau được chọn xây cất là nằm đúng trên phần đất đặt tự phủ tư dinh của Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương ở trung tâm khu đồn doanh An Để xưa
(Theo tài liệu điền dã: Tại các xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa,, Đồng Thanh, ,Hồng Lý của huyện Vũ Thư còn rất nhiều dấu tích, địa doanh liên quan đến Lý Bí lập đồn doanh, kho lương như;Cồn Lưu Bình xứ, cồn Trung Xuất xứ, khu làm kho, Chùa Tiền Đồng, Miếu Đồng Vua, bến Rồng,… Hầu hết các xã này đều có miếu thờ Lý Nam Đế và linh nhân Lý là Đỗ thị Khương. Tại đình An Điện (xã Xuân Hòa) thờ Lý Nam Đế còn bức hoàng phi có 4 chữ “Vạn Xuân chính điện”).
Trong đền còn lưu giữ một bức trang thờ bằng gỗ vẽ bằng sơn ta phủ rộng 2 m2 có niên đại cách đây trường 100 năm. Nội dung bức tranh miêu tả cảnh Lý Nam Đế cùng hoàng hậu ngồi oai nghiêm trên ngôi cao trước sự rước đón chầu hầu của hai hàng quan văn võ với đầy đủ nghi vệ võng lộng, ngựa xe.
Từ An Để xuôi theo dòng Tiểu Hoàng Giang (sông Trà Lý) chừng 10 km là đến trang Bài Cát (nay thuộc xã Đông Dương, Đông Thọ, Đông Hòa) cũng từng nổi tiếng là khúc sông hiểm trở, vực sâu, vực xoáy. Dân gian từng truyền tụng: “Sóng của Trà, ma của Hộ”
Cửa Hộ hay Cát Hộ là tên sau này của trang Bài Cát. Tại đây, Lý Bí cũng cho xây dựng một hệ thống phòng thủ rất quy quy thường gọi là “Khu Cửa Đồn”, gồm 9 đồn: Ba La, Đồng Thệ, Trung Thương, Hinh Bồng, Cầu my, Đồn Trai, tả Đồn Chàng, hữu Đồn Chàng, Miếu Cát trong đó đồn Cầu My (nay thuộc xã Đông Hòa thành phố Thái Bình), là chột tiền tiêu luôn sẵn sãng “Ứng trực tuần phòng”. Cầu Nhân, Cầu Nghĩa xã Đông Hòa đang làm địa điểm Chiêu Anh quán để tuyển chọn nghĩa quân và tiếp đón các bậc hiền tài, anh kiệt về tụm nghĩa. Lê Kiệt một hào kiệt ở Nghĩa Châu (Thanh Hóa) từng bỏ làm quan về theo Lý Bí đã được cử trấn giữ khu Cửu Đồn. Ông đem theo cả 4 người con là: Lê Điện, Lê Á, Lê Vương Vị, Lê Mậu Hoàn cùng dốc sức củng cố đồn lũy, luyện tập quân sĩ, xây dựng khho lương. Theo bản thần phả “Lý triều ngũ vị Đại vương” ở miếu Chàng (thôn Phương Đài xã Đông Dương huyện Đông Hưng), dân trong vùng đã đồng lòng làm lễ lớn nguyệt bái tạ xin tòng quân giết giặc, chẳng mấy chốc nghĩa binh đã lên tới 3.000 người. Để bảo vệ phía sau Cửu Đồn, Lý Bí còn ủy thác cho Triệu Bá (con trai tướng quân Triệu Quang Phục) đem quân đắp lũy lập một đồn trại khác kề cận gọi là Đồn Thó (Nay thuộc thôn Thống Thỏ, xã Đông Mỹ huyện Đôngn Hưng).
Cùng hai điểm phòng thủ trên, cách tràn Bài Cát - Cát Hộ khoảng hơn 20 km về phía đông là một căn cứ lớn nữa của Lý...
Năm 502, ở phương Bắc nhà Lương đã lên thay nhà Tề. Từ đó, nước ta liên tục bị ngập chìm dưới ách đô hộ bạo tàn của nhà Lương. Đi đôi với chính sách bóc lột, tô thuế nặng nề, đám quan lại đô hộ nhà Lương còn áp dụng chính sách phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã, ngay cả những dòng quý tộc Việt tham gia chính quyền cai trị ở Giao Châu trước đó cũng bị coi là lợi Hàn Môn, không được cất nhắc trọng dụng.
Cập nhật, 19/06/2013
Năm 502, ở phương Bắc nhà Lương đã lên thay nhà Tề. Từ đó, nước ta liên tục bị ngập chìm dưới ách đô hộ bạo tàn của nhà Lương. Đi đôi với chính sách bóc lột, tô thuế nặng nề, đám quan lại đô hộ nhà Lương còn áp dụng chính sách phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã, ngay cả những dòng quý tộc Việt tham gia chính quyền cai trị ở Giao Châu trước đó cũng bị coi là lợi Hàn Môn, không được cất nhắc trọng dụng. Nỗi óan hận ngày càng sâu sắc của các bộ tộc Việt với chính quyền đô hộ đã trở thành nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa Lí Bí vào mùa xuân năm 542.
Hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về nơi sinh ra nhân vật này trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta vào thế kỷ thứ VI (Xem Doanh nhân Thái Bình, Sở Văn hòa Thông tin Thái Bình và Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, xuất bản , 2002, tr 21)
Tuy vậy, Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử cũ cho biết: Vua họ Lý, tên Bí người Thái Bình phủ Long Hưng (thuộc địa phận Thái Bình ngày nay). Cuốn thần tích lưu trữ tại đình Tử Các (xã Thái Hòa huyện Thái Thụy), nơi thờ Lý Nam Đế (ở đây gọi là Lý Bôn), còn nói rõ thêm”…Thời nhà Lương ở hương Thái Bình có gia đình họ Lý, chồng là Lý Công Trước vợ là Lương Thị Hằng nối nghề làm nghề công đức. Vợ chồng Lý Công Đức cùng vun công đức ấy, phàm bất kỳ công việc nào cũng không bỏ qua,, phàm việc công đức nhỏ nhất cũng đều dốc lòng… Đạo trời báo ứng, ngày 15 tháng Giêng năm Quý Mùi (503), sinh ra vua. Khi sinh có nhiều điều lạ , sản đường ánh sáng chói lòa, cả vùng hương thơm ngào ngạt.
Lý Bí sớm là người có tiếng văn võ song toàn. Ông từng lĩnh chức Giám quản châu đốc ở (Hà Tĩnh nay), nhưng do câm giận sự miệt thị, bạo ngược của quan lại nhà Lương liền bỏ quan trở về quê hương liên kết vời lớp hào kiệt, triêu tập hiền tài chờ ngày khởi nghĩa. Năm 542, cuộc khởi nghiã Lý Bí bùng nổ. Nhân dân, người hào kiệt nhiều nơi đã đồng lòng hưởng ứng. Trong số đó có nhiều bậc hiền tài nổi tiếng như Tính Thiều, Phạm Tu. Lý Phục Man và cả hai cha con trưởng thủ lĩnh vùng Chu Diên là Triệu Túc và Triệu Quang Phục. Cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng và chỉ trong vòng 3 tháng đã giành được thắng lợi. Quân Lương tiếp tục thất bại. Thứ sử Tiêu Tư phải cho người mang vàng bạc, của cải đút lót cho Lý Bí rồi chạy chốn về nước.
Sau những diễn biến bất ngờ, nhà Lương kịp trấn tĩnh và điều binh dồn đánh vòa Giao Châu cả từ hai vung Nam Bắc. Lợi dụng thời cơ quân Cham – Pa cũng vượt giải Trường Sơn chiếm đánh biên phía nam Châu Giao. Dựa vào sức mạnh toàn dân, Lý Bí thủ lĩnh của cuộc nổi dậy đã chủ động tổ chức các trận đánh và lần lượt đánh tan hai thế lực xâm lược, giành lại lãnh thổ cơ bản như từ thời dựng nước đầu tiên.
Đầu năm 544, Lý Bí tự xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Niên Đức, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở miền của sông Tô Lịch, dựng điện Vạn Thọ và cắt đặt triều đình, bá quan văn võ, Triệu Túc được phong là Thái Phó, Tính Thiều được cử đứng đầu quan văn, Phạm Tu đứng đầu hàng tướng võ, Lý Phục Man được giao cầm đầu tướng võ chuyên lo giữ biên ải.
Sau 500 năm, kể từ khi khởi nghĩa hai Bà Trưng, một lần nữa cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành thắng lợi với một ý nghĩa hết sức to lớn. Sự thành lập của nhà nước Vạn Xuân đã khẳng định nền độc lập tự chủ của đất nước ta và phủ nhận quyền đo hộ tàn bạo của thế lực phong kiến khổng lồ phương Bắc.
Tuy nhiên, trước những tham vọng của kẻ xâm lược. Nhà nước Vạn Xuân non trẻ củng chỉ tồn tại 5 năm (544 – 548) cho đến khi Lý Nam Đế qua đời. Trong những năm tháng này, vị vua họ Lý đã liên tục củng cố, xây dựng và phòng tuyến Chu Diên, Tô Lịch, Gia Ninh và nhiều lần trực tiếp cầm quân chặn đánh quân thù.
Với thế đất trọng yến và phần nào có thể xuất phát từ mối quan hệ đặc biệt với thủ lĩnh họ lý. Thái Bình khi ấy đã sớm được chú trọng lựa chọn xây dựng, củng cố hình thành những căn cứ liên hoàn tạo ra một tuyến phòng thủ hết sức lợi hại. Cả phòng tuyến được bố trí nương tựa vào nhau trải dài theo dọc theo hai triền sông Tiểu Hoàng Giang (sông Trà Lý), kể từ đầu nguồn cho đến tận miền đất rộng quanh vùng cửa biển. Toàn bộ hệ thống đồn lũy này vẫn còn lưu dấu khá đậm nét qua nhiều nguồn thư tịch, đặc biệt là các nguồn ngọc phả, thần tích, truyền tuyết… Xung quanh các di tích cổ thời Lý Nam Đế và các danh tướng của ông trên đất Thái Bình nay.
Vị trí căn cứ lớn của Lý Bí đầu tiên phải kể đến cả một vùng đất rộng lớn nhiều gò đống, nhiều đầm lầy xen kẽ nằm liền kề cả hai bờ sông Tiểu Hoàng Giang. Đây là nơi hạ lưu sông Hồng chia tạo ra một con sông lớn chảy ngang đất Thái Bình rồi đổ ra cửa biển Trà Lý nay. Xưa, cửa sông này từng có nhiều tên gọi như: Lỗ Giang, Phạm Lỗ, Vường Thượng Hộ,…Khi mang tên của Vường, đoạn sông này đã được sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn mô tả như sau:
“Ngã ba Vường nước sâu đến 15 trượng, so với các mức sông khác là sâu hơn cả”. Trong dân gian từ lâu cũng truyền tục câu; “Trăm năm của bể phải nể của Vường”. Do 1895, do đất lở cát bồi, của sông này được bồi nắn thay đổi vị trí lên đến thượng lưu sông Hồng chừng 1 km. Đời sau có đặt trạm tuần liểm nên của Vường còn quen gọi là của Tuần Vường. Mực sâu nước xiết thế đất hiểm trở, vì vậy cả một vùng xung quang của Vường đã được Lý Bí chọn là nơi đặt căn cứ, xây dựng quân doanh ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa.
Trong đó, tại bờ bắc của Vường, Lý Bí cho xây dựng hai khu đồn lũy chính :Một ở Cổ Trai (nay thuộc xã Hồng Minh huyện Hưng Hà), một nửa nay thuộc Hậu Tái (xã Bạch Đằng huyện Đông Hưng). Khi điểm lại phần “Đồn lũy cũ và các đời trước”, Cuốn tiên Hưng phủ chí cho biết: “Lý Nam Đế dấy quân chống cự quân đô hộ nhà Lương, lập doanh trại ở xã Cổ Nhai thôn Vĩnh Diêm, tổng Diên Hà lại lập đồn khác ở là Biệt Đồn ở xã Hậu Thái để thanh viện”. Đất Cổ Trai, (Kẻ Giai), tương truyền là nơi ông nội Lý Nam Đế tên là Lý Tán từng phiêu bạt về ngự cư, khai hoang lập ấp; sau được dân lập miếu thờ gọi là miền Long Hưng địa. Hậu Thái năm trong vùng có tên là Thần Hậu vốn là điền địa Thái Ấp của Hoàng hậu Đỗ Thị Khương được Lý Năm Đế ban cho. Sau bà tặng lại cho dân để thu hoạch hoa lợi lo việc cung tế về sau.
Đối ngạn với các đồn lũy trên là một căn cứ khác của nghĩa quân mà trung tâm là Trang An Để (nay thuộc xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa huyện Vũ Thư). Đây là quê hương của hoàng hậu Đỗ Thị Khương, miền đất nhiều tiềm năng “Địa lợi, nhân hòa”. Cuốn thần tích Tiền Lý triều phả lục viết năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), được các đời sau sao giữ tại miếu Hai Thôn (nằm ở thôn Hữu Lộc giữa hai xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa, Vũ Thư) công ghi lại một bài thơ đầy ngưỡng vọng của Lý Bí khi lần đầu tiên đến miền đất này như sau:
Thành thị lâu dài giai bảo ngọc
Giang sơn hoa thảo thống đan thanh
Dư khí trưng thành tuy tiểu mạch
Mạc cư chân khả kiến chung thành
Tạm dịch:
Thành thị lâu đài đều như ngọc
Núi sông hoa cỏ một màu xanh
Mạch nhỏ như trành chung thành khí
Quyết cho dựng lũ tập trung thành
Yêu cảnh, mến người, Lý Bí không chỉ quyết định đắp lũy, dựng đồn doanh tuyển chọn trai tráng mà còn xin kết duyên với ái nữ của hòa trưởng Đỗ Công Cẩn là Đỗ Thị Khương – một thục nữ nổi tiếng tài sắc vẹn toàn ở trang An Để. Tương truyền, sau miếu Hai Thôn sau được chọn xây cất là nằm đúng trên phần đất đặt tự phủ tư dinh của Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương ở trung tâm khu đồn doanh An Để xưa
(Theo tài liệu điền dã: Tại các xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa,, Đồng Thanh, ,Hồng Lý của huyện Vũ Thư còn rất nhiều dấu tích, địa doanh liên quan đến Lý Bí lập đồn doanh, kho lương như;Cồn Lưu Bình xứ, cồn Trung Xuất xứ, khu làm kho, Chùa Tiền Đồng, Miếu Đồng Vua, bến Rồng,… Hầu hết các xã này đều có miếu thờ Lý Nam Đế và linh nhân Lý là Đỗ thị Khương. Tại đình An Điện (xã Xuân Hòa) thờ Lý Nam Đế còn bức hoàng phi có 4 chữ “Vạn Xuân chính điện”).
Trong đền còn lưu giữ một bức trang thờ bằng gỗ vẽ bằng sơn ta phủ rộng 2 m2 có niên đại cách đây trường 100 năm. Nội dung bức tranh miêu tả cảnh Lý Nam Đế cùng hoàng hậu ngồi oai nghiêm trên ngôi cao trước sự rước đón chầu hầu của hai hàng quan văn võ với đầy đủ nghi vệ võng lộng, ngựa xe.
Từ An Để xuôi theo dòng Tiểu Hoàng Giang (sông Trà Lý) chừng 10 km là đến trang Bài Cát (nay thuộc xã Đông Dương, Đông Thọ, Đông Hòa) cũng từng nổi tiếng là khúc sông hiểm trở, vực sâu, vực xoáy. Dân gian từng truyền tụng: “Sóng của Trà, ma của Hộ”
Cửa Hộ hay Cát Hộ là tên sau này của trang Bài Cát. Tại đây, Lý Bí cũng cho xây dựng một hệ thống phòng thủ rất quy quy thường gọi là “Khu Cửa Đồn”, gồm 9 đồn: Ba La, Đồng Thệ, Trung Thương, Hinh Bồng, Cầu my, Đồn Trai, tả Đồn Chàng, hữu Đồn Chàng, Miếu Cát trong đó đồn Cầu My (nay thuộc xã Đông Hòa thành phố Thái Bình), là chột tiền tiêu luôn sẵn sãng “Ứng trực tuần phòng”. Cầu Nhân, Cầu Nghĩa xã Đông Hòa đang làm địa điểm Chiêu Anh quán để tuyển chọn nghĩa quân và tiếp đón các bậc hiền tài, anh kiệt về tụm nghĩa. Lê Kiệt một hào kiệt ở Nghĩa Châu (Thanh Hóa) từng bỏ làm quan về theo Lý Bí đã được cử trấn giữ khu Cửu Đồn. Ông đem theo cả 4 người con là: Lê Điện, Lê Á, Lê Vương Vị, Lê Mậu Hoàn cùng dốc sức củng cố đồn lũy, luyện tập quân sĩ, xây dựng khho lương. Theo bản thần phả “Lý triều ngũ vị Đại vương” ở miếu Chàng (thôn Phương Đài xã Đông Dương huyện Đông Hưng...
Nhà nước Vạn Xuân ra đời sau cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Lý Bí năm 544
Bạn có thể viết câu trả lời dài ra một tí đưc ko? Cái này ai chả biết rồi.
Sumimasein