Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chúng ta đều biết nước có thể hoà tan một phần ôxy trong không khí. Nói chung nước ở các ao hồ sông ngòi có thể tự cung cấp ôxy đủ để cá thở.
Khi nước mới đóng băng, lượng oxy hoà tan còn nhiều, cá dồn xuống đáy hồ sống ở tầng nước ấm áp, lúc này chúng hoạt động rất ít, quá trình thay đổi tế bào diễn ra chậm hẳn lại. Nhưng lớp băng mỗi ngày một dày, ôxy trong không khí rất khó hoà tan vào nước. Mặt khác, hàm lượng oxy trong nước giảm dần do bị các loài tiêu thụ và do quá trình phân huỷ các chất hữu cơ ở đáy hồ. Đồng thời, hàm lượng carbonic trong nước tăng dần, nếu vượt quá giới hạn sẽ khiến cá không sống được.
Hiện tượng thiếu oxy xuất hiện trước tiên ở tầng nước sâu, và lan dần lên các tầng trên. Do khó thở ở tầng đáy hồ, cá phải ngoi lên cao. Nhưng lượng oxy ngày càng giảm khiến cá hô hấp rất khó khăn, bởi vậy chúng thường tập trung ở xung quanh những lỗ thủng của lớp băng để thở, thậm chí có con còn nhảy lên miệng hố.
Một nguyên nhân khác của hiện tượng này là vì cá rất thích ánh sáng. Tầng nước sâu ở dưới lớp băng thường tối mờ, trong khi ở dưới những lỗ thủng thường có nhiều ánh sáng mặt trời chiếu xuống.
Để bổ sung ôxy cho hồ nuôi cá, ở các nước hàn đới, về mùa rét người ta phải đục thủng nhiều lỗ ở lớp băng trên hồ, nhờ thế đàn cá sẽ an toàn sống đến mùa xuân.
Nhờ phương pháp độc đáo là phân tích cơ thể lai, Menđen đã tìm ra quy luật di truyền các cặp tính trạng.
Menđen đã tiến hành thí nghiệm và suy luận như sau:
P: Cây hoa đỏ (thuần chủng) x Cây hoa trắng (thuần chủng)
F1: 100% cây hoa đỏ. Cho các cây F1 tự thụ phấn để tạo F2
F2: 705 cây hoa đỏ: 224 cây hoa trắng
Menđen nhận thấy tỉ lệ phân li ở F2 xấp xỉ 3: 1 nhưng ông không biết giải thích tại sao. Để tìm câu trả lời, Menđen cho từng cây F2 tự thụ phấn và phân tích sự phân li ở đời con của từng cây. Tất cả các cây F2 hoa trắng tự thụ phấn đều cho F3 toàn cây hoa trắng; 2/3 số cây F2 hoa đỏ tự thụ phấn cho ra đời con có cả cây hoa đỏ lẫn cây cho hoa màu trắng theo tỉ lệ xấp xỉ 3: 1 (giống như cây hoa đỏ F1); 1/3 số cây hoa đỏ F2 tự thụ phấn cho ra toàn cây hoa đỏ.
Menđen nhận thấy rằng sau tỉ lệ 3 hoa đỏ: 1 hoa trắng ở đời F2 là tỉ lệ 1: 2: 1.
→ Trong tế bào của cơ thể, mỗi cặp nhân tố di truyền quy định một tính trạng và trong mỗi giao tử lại chỉ có một nhân tố di truyền.
Bước 1
Tạo các dòng thuần chủng về từng tính trạng bằng cách cho cây tự thụ phấn qua nhiều thế hệ.
Bước 2
Lai các dòng thuần chủng khác biệt nhau bởi một hoặc nhiều tính trạng rồi phân tích kết quả lai qua các đời:
- F1: 100% cây hoa đỏ.
- F2: 3/4 cây hoa đỏ và 1/4 cây hoa trắng.
- F3: 1/3 số cây hoa đỏ F2 cho toàn cây F3 hoa đỏ.
2/3 số cây hoa đỏ F2 cho F3 với tỉ lệ 3 hoa đỏ:1 hoa trắng.
100% cây hoa trắng cho F3 toàn cây hoa trắng.
Hoa trắng
Pt/c:
X
Hoa đỏ
F2:
3/4 Hoa đỏ
1/4 Hoa trắng
Hoa đỏ
X
Hoa đỏ
F1 x F1:
F2 x F2
100% Hoa trắng
Hoa trắng
1 Trắng t/c
=>F2:
F3
Hoa đỏ
100%Hoa đỏ
3/4Đỏ : 1/4Trắng
2 Đỏ không t/c
1 Đỏ t/c
2/3
1/3
Thí nghiệm và cách suy luận khoa học của Menđen có thể tóm tắt nh sau
F1: 100% Hoa đỏ
:
Menđen nhận ra rằng: Sau tỉ lệ 3 hoa đỏ: 1 hoa trắng là tỉ lệ 1: 2 : 1
(1 hoa đỏ thuần chủng : 2hoa đỏ không thuần chủng : 1 hoa trắng thuần chủng)
đáp án bảng tóm tắt
phương pháp nghiên cứu di truyền học của Menđen
Ngoài tính trạng về mầu sắc hoa, Menđen còn nghiên cứu ở nhiều tính trạng khác:
Bước 3
Sử dụng toán xác suất để phân tích kết quả lai,
sau đó đưa ra giả thuyết giải thích kết quả.
Bước 4
Tiến hành thí nghiệm chứng minh cho giả thuyết của mình
Các gen quy định cơ quan thoái hoá không bị CLTN đào thải vì những cơ quan này thường không gây hại tới cơ thể sinh vật. Những gen này chỉ có thể bị loại khỏi quần thể bởi các yếu tố ngẫu nhiên, có thể là vì thời gian tiến hoá còn chưa đủ dài để các yếu tố ngẫu nhiên loại bỏ các gen này.
Gen lặn trên NST thường thì khó phát hiện hơn so với gen lặn trên NST X ở người là vì gen lặn trên NST thường chỉ được biểu hiện ra kiểu hình khi có cả hai alen lặn, còn gen lặn trên NST X chỉ cần một alen lặn cũng đã biểu hiện ra kiểu hình ở nam giới.
- Các gen quy định cơ quan thoái hóa không bị CLTN đào thải vì những cơ quan này thường không gây hại gì cho cơ thể sinh vật.
- Những gen này chỉ có thể bị loại khỏi quần thể bởi các yếu tố ngẫu nhiên vì thế có thể thời gian tiến hóa còn chưa đủ dài để các yếu tố ngẫu nhiên loại bỏ các gen này.
Lời giải:
Các gen quy định cơ quan thoái hoá không bị CLTN đào thải vì những cơ quan này thường không gây hại gì cơ thể sinh vật. Những gen này chỉ có thể bị loại khỏi đủ dài để nhập các yếu tố ngẫu nhiên loại bỏ các gen này.
Khi chuyển gen mã hóa hoocmon isulin của người vào vi khuẩn E. Coli thì vk E.Coli lại tổng hợp được hoocmon isulin của người vì:
Mã di truyền có tính phổ biến (tất cả các loài đều dùng chung 1 bộ mã di truyền)
Mây di chuyển là do có luống khí đẩy (thổi) .
Do các luồng không khí chuyển động, tạo thành gió đẩy những đám mây nên mây mới có thể di chuyển( mây bay).