Lượm là chú bé liên lạc nhanh nhẹn và hồn nhiên nhất mà tôi từng gặp. Đến bây giờ, khi nghĩ đến Lượm lòng tôi như có tia nắng ấm áp chiếu qua.
Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược, tôi được cử ra Huế để cùng đồng bào đánh giặc. Ở nơi đây, tôi đã gặp được cậu bé. Ấn tượng ban đầu của tôi, đó là cậu là một cậu bé nhanh nhẹn, vóc dáng nhỏ nhắn. Khi biết tin chúng tôi đang cần người đưa thư liên lạc Lượm đã rất hăng hái xung phong làm nhiệm vụ. Tất cả những công việc được giao cậu đều hoàn thành xuất sắc.
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cậu bé nhỏ xinh khoác trên mình bộ đồ đội viên sờn rách. Chân lấm đầy đất bẩn vì phải chạy từ nơi này qua nơi khác. Trên đầu lúc nào cũng đội một chiếc mũ ca nô. Cậu hay đội chiếc mũ ấy lệch sang một bên trông thật ngộ nghĩnh. Đeo trên vai là chiếc xắc xinh xinh dùng để đựng thư từ khẩn cấp. Cậu quý chiếc xắc ấy lắm, dù đi đâu cũng giữ khư khư lấy nó kể cả lúc ngồi nghỉ ngơi.
Ngày ngày băng qua mặt trận đầy đạn bom, khói lửa nên làn da của Lượm càng ngăm đen hơn. Cậu bé có đôi mắt to tròn, đen láy. Từ đôi mắt ấy có thể thấy cậu rất lanh lợi, thông minh. Lượm rất hay cười lắm, tôi chưa bao giờ thấy cậu chán nản buồn rầu vì chuyện gì. Mỗi khi cậu bé cười đôi mắt cứ híp lại, hai má ửng đỏ lên như trái bồ quân. Vầng trán thật cao, mái tóc tơ vàng hoe vì bị cháy nắng.
Làm nhiệm vụ đối với Lượm chính là một niềm vui. Khi kể cho tôi về công việc ở đồn Mang Cá, chú bé kể với cả niềm háo hức, thích thú. Lượm làm việc gì cũng rất nhanh nhẹn, chỉ cần được giao nhiệm vụ là cậu thực hiện ngay. Dù sao Lượm cũng vẫn là một cậu bé, khi đi liên lạc cậu vẫn còn hồn nhiên lắm. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp Lượm vừa đi vừa nhảy chân sáo, miệng thì huýt vang tiếng sáo vui nhộn. Ca nô nhấp nhô trên đồng, trông chú bé ấy như một con chim chính đáng yêu đang nhảy trên con đường vàng.
Đôi chân Lượm thoăn thoắt vượt qua những trận mưa bom đạn của địch. Dù nguy hiểm đến đâu khuôn mặt cậu bé ấy vẫn giữ được vẻ kiên cường, gan dạ. Chú bé lúc nào cũng thoăn thoắt đôi tay xếp lại những lá thư khẩn để gửi cho đồng đội. Thế rồi, tàn ác thay, chú bé đã ngã xuống dưới trận bom đạn của địch. Giữa cánh đồng lúa chín vàng, hương lúa thơm ngào ngạt, Lượm nằm đó như đang say trong một giấc ngủ dài sau một ngày rong chơi. Nụ cười vẫn nở trên môi Lượm, đôi tay vẫn nắm chặt lấy bông lúa.
Lượm đã đi rồi nhưng tiếng huýt sáo vui tươi vẫn còn văng vẳng đâu đây. Dù Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của chú còn sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
Người thứ hai hi sinh ở Trường Sa tháng 4-1975 là hạ sĩ Ngô Văn Quyền, 20 tuổi, chiến sĩ đặc công của trung đoàn đặc công hải quân 126.
Mấy chục năm nay, ông Đào Mạnh Hồng (69 tuổi, hiện sống ở TP Hải Phòng) không dám tìm gặp thân nhân liệt sĩ Quyền.
"Khi đưa con người ta từ Bắc vào Nam chiến đấu thì mình đưa đi, nhưng khi con người ta hi sinh thì mình không biết. Đến chỗ chôn ở đâu mình cũng không biết. Về gặp gia đình cậu ấy, tôi biết ăn nói thế nào...", người cựu binh thở dài.
45 năm trước, đánh đảo Song Tử Tây, ông Đào Mạnh Hồng là phân đội trưởng phân đội 1 (đại đội 1 - trung đoàn đặc công hải quân 126) và thân thiết nhất với hạ sĩ Quyền. Chiến trận Song Tử Tây kéo dài 30 phút nhưng 15 phút đầu rất ác liệt.
"Quyền trong tổ chiến đấu đầu tiên cùng tôi. Cậu ấy là người che đạn cho tôi. Đáng lẽ viên đạn đó găm vào tôi... Tôi đang lao về phía trước thì Quyền đi sau phát hiện đối phương trong giao thông hào giơ súng nhô ra, cậu ấy lao lên đỡ đạn cho tôi...", người cựu chiến binh rớm nước mắt khi nhớ lại khoảnh khắc không thể quên ấy.
Tiểu đội trưởng Ngô Văn Quyền bị một viên đạn găm vào bụng vẫn cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu. "Mấy phút sau quay lại, tôi hỏi thì Quyền bảo em không sao. Thấy Quyền bị thương, tôi để cậu ấy nằm nghỉ, còn mọi người thu dọn chiến trường", ông Hồng kể tiếp.
45 năm đã trôi qua, người cựu chiến binh giải phóng đảo nhớ mãi đêm trước khi chia tay người em, người đồng đội thân thiết về đất liền.
"Tôi và Quyền trải võng ra trong hầm vòm, nằm cạnh nhau tâm sự. Quyền nói sau này chiến tranh kết thúc, anh em mình giao lưu thường xuyên chứ các đồng đội kia ở xa quá chắc ít gặp. Tôi bảo đời quân ngũ mình chỉ có một thời điểm nhất định thôi. Sau này trên quãng đường còn lại, anh em mình thế nào cũng gặp nhau", ông Hồng kể.
Ngày hôm sau, hạ sĩ Quyền theo tàu chở hàng binh về Đà Nẵng. Lúc này anh đau đến nỗi không đi được. Ông Hồng phải bế ra xuồng để đưa lên tàu.
"Lúc đó tôi ôm Quyền khóc - ông Hồng xúc động nhớ lại giây phút chia tay mà không ngờ là lần gặp nhau cuối cùng. Tôi bảo em cứ an tâm điều trị, anh em mình sẽ gặp lại nhau khi cùng tiến vào Sài Gòn. Nó còn cười bảo: các anh cứ yên tâm ở lại. Em khỏe là theo đơn vị chiến đấu ngay".
Một tháng sau khi về Sài Gòn, ông Hồng mới biết hạ sĩ Ngô Văn Quyền đã hi sinh. "Không ai nghĩ Quyền sẽ hi sinh. Nhưng nó lại hi sinh...", người cựu binh bần thần nói.
"Chúng tôi nghe đồng đội anh Quyền kể chỉ còn 35 hải lý nữa vào đến Đà Nẵng thì tàu bị chết máy. Nếu suôn sẻ thì ba ngày về đến đất liền, nhưng tàu chết máy mất sáu ngày mới vào đến bờ.
Dọc đường anh tôi cứ gọi tên bố mẹ, các em, rồi anh hát những bài hát quê hương Hải Phòng. Trên đường chuyển đến Bệnh viện Đà Nẵng, máu chảy nhiều quá, anh hi sinh khi chưa kịp vào bệnh viện...", ông Ngô Văn Đại, em trai liệt sĩ Quyền, xúc động kể.
Bà Ngô Thị Huế, 62 tuổi, em gái liệt sĩ Quyền, rưng rưng hồi tưởng người anh đã khuất: "Anh Quyền hiền lành, học giỏi lắm. Từ lớp 1 đến lớp 7 năm nào cũng đứng đầu lớp. Anh đi học về là ra đồng chăn trâu, 13 - 14h mới về.
Nhà chỉ có bát cơm nguội phần anh. Sau này anh đi làm thuê trên Lào Cai, mỗi lần về là tắm rửa cho các em. Làm thuê mấy năm, có lệnh nhập ngũ là anh đi". Và rồi anh Quyền của bà đã đi mãi không về...
Các câu hỏi dưới đây có thể giống với câu hỏi trên
Bảng xếp hạng
Tất cảToánVật lýHóa họcSinh họcNgữ vănTiếng anhLịch sửĐịa lýTin họcCông nghệGiáo dục công dânÂm nhạcMỹ thuậtTiếng anh thí điểmLịch sử và Địa lýThể dụcKhoa họcTự nhiên và xã hộiĐạo đứcThủ côngQuốc phòng an ninhTiếng việtKhoa học tự nhiên
Lượm là chú bé liên lạc nhanh nhẹn và hồn nhiên nhất mà tôi từng gặp. Đến bây giờ, khi nghĩ đến Lượm lòng tôi như có tia nắng ấm áp chiếu qua.
Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược, tôi được cử ra Huế để cùng đồng bào đánh giặc. Ở nơi đây, tôi đã gặp được cậu bé. Ấn tượng ban đầu của tôi, đó là cậu là một cậu bé nhanh nhẹn, vóc dáng nhỏ nhắn. Khi biết tin chúng tôi đang cần người đưa thư liên lạc Lượm đã rất hăng hái xung phong làm nhiệm vụ. Tất cả những công việc được giao cậu đều hoàn thành xuất sắc.
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cậu bé nhỏ xinh khoác trên mình bộ đồ đội viên sờn rách. Chân lấm đầy đất bẩn vì phải chạy từ nơi này qua nơi khác. Trên đầu lúc nào cũng đội một chiếc mũ ca nô. Cậu hay đội chiếc mũ ấy lệch sang một bên trông thật ngộ nghĩnh. Đeo trên vai là chiếc xắc xinh xinh dùng để đựng thư từ khẩn cấp. Cậu quý chiếc xắc ấy lắm, dù đi đâu cũng giữ khư khư lấy nó kể cả lúc ngồi nghỉ ngơi.
Ngày ngày băng qua mặt trận đầy đạn bom, khói lửa nên làn da của Lượm càng ngăm đen hơn. Cậu bé có đôi mắt to tròn, đen láy. Từ đôi mắt ấy có thể thấy cậu rất lanh lợi, thông minh. Lượm rất hay cười lắm, tôi chưa bao giờ thấy cậu chán nản buồn rầu vì chuyện gì. Mỗi khi cậu bé cười đôi mắt cứ híp lại, hai má ửng đỏ lên như trái bồ quân. Vầng trán thật cao, mái tóc tơ vàng hoe vì bị cháy nắng.
Làm nhiệm vụ đối với Lượm chính là một niềm vui. Khi kể cho tôi về công việc ở đồn Mang Cá, chú bé kể với cả niềm háo hức, thích thú. Lượm làm việc gì cũng rất nhanh nhẹn, chỉ cần được giao nhiệm vụ là cậu thực hiện ngay. Dù sao Lượm cũng vẫn là một cậu bé, khi đi liên lạc cậu vẫn còn hồn nhiên lắm. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp Lượm vừa đi vừa nhảy chân sáo, miệng thì huýt vang tiếng sáo vui nhộn. Ca nô nhấp nhô trên đồng, trông chú bé ấy như một con chim chính đáng yêu đang nhảy trên con đường vàng.
Đôi chân Lượm thoăn thoắt vượt qua những trận mưa bom đạn của địch. Dù nguy hiểm đến đâu khuôn mặt cậu bé ấy vẫn giữ được vẻ kiên cường, gan dạ. Chú bé lúc nào cũng thoăn thoắt đôi tay xếp lại những lá thư khẩn để gửi cho đồng đội. Thế rồi, tàn ác thay, chú bé đã ngã xuống dưới trận bom đạn của địch. Giữa cánh đồng lúa chín vàng, hương lúa thơm ngào ngạt, Lượm nằm đó như đang say trong một giấc ngủ dài sau một ngày rong chơi. Nụ cười vẫn nở trên môi Lượm, đôi tay vẫn nắm chặt lấy bông lúa.
Lượm đã đi rồi nhưng tiếng huýt sáo vui tươi vẫn còn văng vẳng đâu đây. Dù Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của chú còn sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
Người thứ hai hi sinh ở Trường Sa tháng 4-1975 là hạ sĩ Ngô Văn Quyền, 20 tuổi, chiến sĩ đặc công của trung đoàn đặc công hải quân 126.
Mấy chục năm nay, ông Đào Mạnh Hồng (69 tuổi, hiện sống ở TP Hải Phòng) không dám tìm gặp thân nhân liệt sĩ Quyền.
"Khi đưa con người ta từ Bắc vào Nam chiến đấu thì mình đưa đi, nhưng khi con người ta hi sinh thì mình không biết. Đến chỗ chôn ở đâu mình cũng không biết. Về gặp gia đình cậu ấy, tôi biết ăn nói thế nào...", người cựu binh thở dài.
45 năm trước, đánh đảo Song Tử Tây, ông Đào Mạnh Hồng là phân đội trưởng phân đội 1 (đại đội 1 - trung đoàn đặc công hải quân 126) và thân thiết nhất với hạ sĩ Quyền. Chiến trận Song Tử Tây kéo dài 30 phút nhưng 15 phút đầu rất ác liệt.
"Quyền trong tổ chiến đấu đầu tiên cùng tôi. Cậu ấy là người che đạn cho tôi. Đáng lẽ viên đạn đó găm vào tôi... Tôi đang lao về phía trước thì Quyền đi sau phát hiện đối phương trong giao thông hào giơ súng nhô ra, cậu ấy lao lên đỡ đạn cho tôi...", người cựu chiến binh rớm nước mắt khi nhớ lại khoảnh khắc không thể quên ấy.
Tiểu đội trưởng Ngô Văn Quyền bị một viên đạn găm vào bụng vẫn cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu. "Mấy phút sau quay lại, tôi hỏi thì Quyền bảo em không sao. Thấy Quyền bị thương, tôi để cậu ấy nằm nghỉ, còn mọi người thu dọn chiến trường", ông Hồng kể tiếp.
45 năm đã trôi qua, người cựu chiến binh giải phóng đảo nhớ mãi đêm trước khi chia tay người em, người đồng đội thân thiết về đất liền.
"Tôi và Quyền trải võng ra trong hầm vòm, nằm cạnh nhau tâm sự. Quyền nói sau này chiến tranh kết thúc, anh em mình giao lưu thường xuyên chứ các đồng đội kia ở xa quá chắc ít gặp. Tôi bảo đời quân ngũ mình chỉ có một thời điểm nhất định thôi. Sau này trên quãng đường còn lại, anh em mình thế nào cũng gặp nhau", ông Hồng kể.
Ngày hôm sau, hạ sĩ Quyền theo tàu chở hàng binh về Đà Nẵng. Lúc này anh đau đến nỗi không đi được. Ông Hồng phải bế ra xuồng để đưa lên tàu.
"Lúc đó tôi ôm Quyền khóc - ông Hồng xúc động nhớ lại giây phút chia tay mà không ngờ là lần gặp nhau cuối cùng. Tôi bảo em cứ an tâm điều trị, anh em mình sẽ gặp lại nhau khi cùng tiến vào Sài Gòn. Nó còn cười bảo: các anh cứ yên tâm ở lại. Em khỏe là theo đơn vị chiến đấu ngay".
Một tháng sau khi về Sài Gòn, ông Hồng mới biết hạ sĩ Ngô Văn Quyền đã hi sinh. "Không ai nghĩ Quyền sẽ hi sinh. Nhưng nó lại hi sinh...", người cựu binh bần thần nói.
"Chúng tôi nghe đồng đội anh Quyền kể chỉ còn 35 hải lý nữa vào đến Đà Nẵng thì tàu bị chết máy. Nếu suôn sẻ thì ba ngày về đến đất liền, nhưng tàu chết máy mất sáu ngày mới vào đến bờ.
Dọc đường anh tôi cứ gọi tên bố mẹ, các em, rồi anh hát những bài hát quê hương Hải Phòng. Trên đường chuyển đến Bệnh viện Đà Nẵng, máu chảy nhiều quá, anh hi sinh khi chưa kịp vào bệnh viện...", ông Ngô Văn Đại, em trai liệt sĩ Quyền, xúc động kể.
Bà Ngô Thị Huế, 62 tuổi, em gái liệt sĩ Quyền, rưng rưng hồi tưởng người anh đã khuất: "Anh Quyền hiền lành, học giỏi lắm. Từ lớp 1 đến lớp 7 năm nào cũng đứng đầu lớp. Anh đi học về là ra đồng chăn trâu, 13 - 14h mới về.
Nhà chỉ có bát cơm nguội phần anh. Sau này anh đi làm thuê trên Lào Cai, mỗi lần về là tắm rửa cho các em. Làm thuê mấy năm, có lệnh nhập ngũ là anh đi". Và rồi anh Quyền của bà đã đi mãi không về...