Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay đoạn trích Chị em Thúy Kiều?? Hai cái này nó khác nhau mà!
Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.
Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.
Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.
Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.
Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.
Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn:
Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.
Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm.
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.
Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.
Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.
Cảm nhận về Thúy KiềuNghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.
Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.
Tham khảo:
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Nguyễn Du nhà thơ thiên tài của dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc.
– Giới thiệu tác phẩm: Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ viết về cuộc đời của Thúy Kiều – người con gái tài hoa bạc mệnh.
II. Thân bài
– Thúy Kiều người con gái có vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân khiến “mây thua nước tóc”, “liễu hờn kém xanh”
=> Vẻ đẹp khiến nhiên nhiên cũng phải ganh tị
– Thúy Kiều vừa có sắc vừa có tài năng cầm, kì, thi, họa
– Số phận chung của người phụ nữ xưa phải chịu những tủi cực, khó khăn, sự bất công của xã hội. Cuộc đời của họ như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, như thân bèo trôi nổi vô định không biết trôi dạt về đâu
– Những đức tính cao đẹp của Thúy Kiều đại diện cho người phụ nữ xưa dưới chế độ phong kiến
+ Chữ hiếu: Thúy Kiều thật đáng thương khi rơi vào hoàn cảnh gia đình tan tác, nàng đã phải hy sinh chính hạnh phúc của mình để cứu lấy gia đình, cứu lấy cha -> Đặt chữ hiếu lên hàng đầu, gạt bỏ tình yêu với Kim Trọng -> Nàng bán thân mình để chuộc cha
=> Hành động chứng minh được lòng hiếu thảo, đức hy sinh – đức tính cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội khi bị đẩy đến bước đường cùng.
+ Chữ nghĩa: Đối với tình yêu thì Thúy Kiều là một người chung thủy, son sắc. Nàng luôn khao khát một tình yêu đẹp, một tình yêu đúng nghĩa. Nhưng trải qua những mối tình khác nhau càng khiến Kiều thêm thấm thía:
Mối tình với Kim Trọng: vì chữ hiếu mà không được trọn vẹn
Mối tình với Thúc Sinh: Kiều nếm trải thân phận “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” => tình cảnh điển hình của phụ nữ xã hội phong kiến.
Mối tình với Từ Hải: một mối tình trọn vẹn nhưng ngắn ngủi, người đã giúp Kiều giải oan
III. Kết luận
– Nhân vật Kiều là nhân vật điển hình cho hình tượng người phụ nữ xưa -> Ca ngợi phẩm giá của người phụ nữ
– Tố cáo, lên án xã hội phong kiến thối nát.
Em tham khảo:
Vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều đã được Nguyễn Du khắc họa rõ nét qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều. Trước hết, tác giả đưa ra giới thiệu cùng nhận định về hai chị em qua ước lệ mai, tuyết để khẳng định vẻ đẹp chung ở họ cũng như vẻ đẹp riêng qua cụm từ "mỗi người một vẻ". Hai người thiếu nữ xinh đẹp được Nguyễn Du vô cùng yêu thương. Về nhan sắc, Vân được nói đến với sự sang trọng, phúc hậu. Đặc tả vẻ đẹp của Vân, nhà thơ chú ý đến gương mặt tròn đầy, nụ cười cùng giọng nói đoan trang, mái tóc mềm mượt, làn da trắng. Tất cả cái đẹp ở Vân đều là kết tinh của thiên nhiên đất trời nên nàng được những hoa, tuyết yêu quý và sẵn sàng đứng sau cái đẹp của nàng với sự ngưỡng vọng. Bút pháp ước lệ đã giúp nhà thơ vẽ lên bức tranh người con gái xinh đẹp độ xuân thì làm xuyến xao cả thiên nhiên và lòng người. Ấy vậy mà nhan sắc ấy vẫn chưa sánh bằng nàng Kiều. Miêu tả tường tận cái đẹp của Vân, nhà thơ dùng thủ pháp đòn bẩy để tôn lên tài sắc ở Kiều. Với những từ như "càng, hơn" ta thấy được cái ưu ái tột cùng mà tác giả nói về Kiều. Đặc biệt, chân dung Kiều chỉ được gợi qua đôi mắt, lông mày nhưng đã đủ khiến ta hiểu về cái đẹp này. Trong thế đối sánh với thiên nhiên, thay vì hài hòa thì Kiều bị đố kí, ghen ghét và hờn giận. Bởi lẽ vẻ đẹp của nàng đã vượt quá quy chuẩn thông thường lại cộng thêm tài năng cầm kì thi họa thì người con gái ấy mấy ai sáng bằng. Ngòi bút ước lệ cùng thành ngữ "nghiêng nước nghiêng thành" giúp ta hiểu được nét đẹp toàn diện ở Kiều. Nhưng bức tranh hai người thiếu nữ đẹp không nhằm ngợi ca hay nói về sự yêu quý khôn cùng của tác giả, đó là bức tranh số phận của hai người con gái. Một bên là những ềm đềm, hạnh phúc vì hài hòa với tự nhiên, còn một bên là những muôn phần đắng cay mà những vần thơ tiếp của nhà thơ sẽ cho ta thấy điều đó.
Em tham khảo nhé:
Trong gia đình nhà họ Vương có hai cô con gái đến tuổi cập kê, cô nào cũng xinh đẹp bội phần. Thúy Vân là em gái, có vẻ đẹp thật phúc hậu: khuôn mặt đầy đặn như vầng trăng đêm rằm, lông mày nở nang cân đối như đôi râu ngài, lời nói đoan trang, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc ngà, mái tóc dầy mượt mà như làn mây, nước da trắng ngần như tuyết. Vẻ đẹp của nàng đầy khả ái, phúc hậu, khiến thiên nhiên cảm mến và nhường nhịn cho nàng. So với em gái, Thúy Kiều về cả tài cả sắc có lẽ đều là phần hơn. Nàng có đôi mắt diễm lệ, long lanh, trong trẻo như làn nước mùa thu. Đôi lông mày thanh tú, yểu điệu như dáng núi mùi xuân. Ở nàng toát lên vẻ đẹp đầy quyến rũ và sắc sảo, rực rỡ và đầy cuốn hút, vượt ra khỏi mọi khuôn mẫu của thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên cũng đố kị, tức tối mà "hờn", mà "ghen" với nàng. Về tài năng, Kiều đều thông thạo. Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ “pha nghề ca hát đủ mùi”, tài đàn “ăn đứt”, âm luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh”- chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc tài và tình. Đó quả là người con gái tuyệt sắc giai nhân và có tài năng thiên bẩm đáng trân trọng.
Em tham khảo nhé !
Nền văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X-XIX được đánh dấu bằng nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc, mà tiêu biểu nhất phải kể đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nhắc đến Truyện Kiều người ta không chỉ đơn giản nhớ đến một tác phẩm vang danh một thời, mà Truyện Kiều được xem là kiệt tác văn học được xếp vào hàng kinh điển của cả nền văn học Việt Nam, chứ không của riêng thời đại nào. Truyện Kiều đã quá đỗi quen thuộc và đi vào đời sống của nhân dân ta một cách tự nhiên nhất, từ đó hình thành nên những nét sinh hoạt văn hóa thú vị và đặc sắc ví như bói Kiều, ngâm Kiều, tranh Kiều, rồi vịnh Kiều,... Phải nói hiếm có tác phẩm văn học Việt Nam nào lại được truyền bá rộng rãi và thậm chí được dịch sang hơn hai mươi thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Truyện Kiều. Dẫu nhiều câu nhiều chữ, nhưng tựu chung lại giá trị của tác phẩm nằm ở hai điểm lớn đó là cảm hứng hiện thực và tư tưởng nhân đạo xuyên suốt trong cả tác phẩm. Đọc Truyện Kiều người ta thường dễ dàng nhận ra Nguyễn Du có một biệt tài tả người, tả cảnh rất hay, rất độc đáo ấy là ở bút pháp ước lệ tượng trưng, trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa nên hai thiếu nữ tài sắc vẹn toàn với những hình ảnh tượng trưng, so sánh rất tinh tế, rất tài hoa.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần mở đầu của tác phẩm, khi mà lúc này đây chị em Thúy Kiều vẫn đang sống cuộc sống êm ấm, nhung lụa. Phần mở đầu chủ yếu giới thiệu gia cảnh và thành viên trong gia đình Thúy Kiều, trong đó trọng tâm là miêu tả nhan sắc của hai chị em Vân, Kiều. Toàn bộ đoạn trích khắc họa một cách cụ thể rõ nét và sinh động và độc đáo chân dung của chị em Thúy Kiều, qua đó Nguyễn Du bộc lộ cảm hứng nhân văn rất sâu sắc của mình. Ông ca ngợi vẻ đẹp tài năng và nhan sắc của con người, đồng thời dự cảm về số phận tài hoa nhưng bạc mệnh của Thúy Kiều, cũng như cuộc sống có phần êm đềm, tĩnh lặng của Thúy Vân. Nghệ thuật chủ yếu trong cách miêu tả vẻ đẹp nhân vật là bút pháp miêu tả cổ điển, hết sức ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để nói lên vẻ đẹp và tài năng của con người. Ngôn ngữ trau chuốt, chọn lọc, lời thơ lục bát có vần có nhịp rất trôi chảy và hàm súc.
Bốn dòng thơ đầu của đoạn trích là những khái quát chung nhất về hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều.
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Vân và Kiều là hai người con gái lớn của Vương ông, Nguyễn Du dùng "tố nga" vốn có nghĩa là loài thiên nga xinh đẹp, điều đó nhằm phiếm chỉ vẻ đẹp thanh cao và duyên dáng của hai chị em Kiều. Tiếp đó Nguyễn Du lại lấy hình dáng cây mai làm "cốt cách", bởi mai từ xưa đến nay vẫn được xếp vào hàng "tứ quân tử", với vẻ đẹp thanh cao, ngay thẳng, sức sống mãnh liệt và kiên cường. "Tuyết tinh thần", tức là tâm hồn luôn luôn trong sáng, trắng đẹp tựa như những hạt tuyết mùa đông, điều đó cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến vẻ đẹp của hai cô gái kiêu sa, lòng không vướng nổi một hạt bụi trần. Kết lại, Nguyễn Du chốt rằng "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười", hai cô gái ấy có những nét tính cách cao đẹp giống nhau, nhưng luận về tài năng và nhan sắc thì không hề giống nhau, ai cũng có những vẻ đẹp rất riêng, không dám so rằng ai hơn ai, đó là cách mà Nguyễn Du nhấn mạnh và cá thể hóa từng nhân vật để làm tiền đề cho đoạn sau.
Đến 14 câu thơ tiếp, mỗi một độc giả hoàn toàn nhận ra rằng Nguyễn Du chủ yếu tập trung vào nhân vật người chị là Thúy Kiều với 12 câu thơ đặc tả Kiều và với chỉ bốn câu thơ để nói về người em là Vân. Trước tiên nói về những câu thơ tả Thúy Vân.
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da"
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ cổ điển, chủ yếu là gợi nhiều hơn tả, vẽ nên dáng hình Thúy Vân với những nét đẹp rất độc đáo, có thể nói là khuôn vàng thước ngọc cho người con gái này. Nàng Vân với dáng vẻ "trang trọng" quý phái và cao sang, khuôn mặt thì tròn đầy phúc hậu như vầng trăng, nét mày ngài "nở nang", nàng cũng có khuôn miệng duyên dáng, tiếng nói, tiếng cười như "ngọc thốt", hết sức đoan trang nền nã. Thúy Vân cũng được ưu ái cho làn tóc mượt mà đến mây cũng không dám tranh, làn da trắng đến tuyết cũng phải nhường. Có thể nói vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp rất hài hòa và lý tưởng, không nằm ngoài khuôn thước thẩm mỹ truyền thống trong xã hội cũ, điều đó đã định sẵn cũng như báo trước về một cuộc đời an nhàn và bình yên của nàng Vân trong Truyện Kiều, khác biệt hẳn so với chị mình.
Nói về nhan sắc và tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã dùng một số lượng câu thơ gấp 3 lần so với khi tả Vân, thế nhưng vẻ đẹp của Kiều lại không được chỉ ra một cách cụ thể từ khuôn mặt, tóc tai, mày ngài, giọng nói, màu da giống như Vân mà Nguyễn Du thiên về hướng gợi bằng những hình ảnh thiên nhiên đặc sắc đem đến những ấn tượng chung và để độc giả tự suy ra vẻ đẹp khác biệt của nàng Kiều.
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai."
Có nhiều thắc mắc rằng vì sao Kiều là nhân vật chính nhưng lại được xếp tả sau, thì đến đây người ta mới vỡ lẽ ra rằng hóa ra tả Thúy Vân, để từ đó mà suy ra cái nhan sắc của Thúy Kiều. Nguyễn Du viết "Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn", đó là ý ngầm so sánh với Thúy Vân, nàng Vân có đẹp nhưng so ra Kiều lại vẫn hơn ở chỗ "sắc sảo, mặn mà". Như vậy phần miêu tả nhan sắc của Vân chính là bệ phóng làm nền cho phần tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Vân càng đẹp bao nhiêu thì càng khẳng định được cái nhan sắc rực rỡ của nàng Kiều bấy nhiêu. Phải nói "sắc sảo mặn mà" đều là những từ khái quát một cách ngắn gọn về cả tâm hồn lẫn hình thể của nàng Kiều, nàng sắc sảo về trí tuệ, nàng mặn mà về tâm hồn, nhan sắc. Cách tả của Nguyễn Du đặc sắc là ở chỗ ấy. "Làn thu thủy nét xuân sơn", là miêu tả đôi mắt của người con gái đẹp và trong như nước mùa thu, còn "nét xuân sơn" chính là đôi mày cong tựa như núi mùa xuân, cách đặc tả đôi mắt của người thiếu nữ khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến một trang tuyệt thế giai nhân mà chỉ cần một ánh mắt thôi, thì đã đủ làm người người say đắm. Đồng thời người ta vẫn ví đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, người có đôi mắt mà sóng mắt lại trong như nước mùa thu thì hẳn tâm hồn nàng phải trong trẻo và đẹp đẽ đến nhường nào. Câu "Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh", phần để chỉ đôi môi đỏ, cùng làn tóc xanh của Kiều, mà nó quá đỗi rực rỡ xinh đẹp khiến thiên nhiên cũng phải hờn, phải ghen. Nghiên cứu kỹ câu thơ dường như ta đã nhận ra một dự báo về tương lai đầy gian nan và trắc trở của nàng Kiều. "Một hai nghiêng nước nghiêng thành" cũng là câu thơ để chỉ vẻ đẹp đến độ kinh diễm của Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy có thể khiến cho nước mất nhà tan, vốn vẫn thường gọi là hồng nhan họa thủy. Như vậy Nguyễn Du không tả một cách cụ thể vẻ đẹp của Thúy Kiều mà lại chỉ ra sự ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên, cùng với lòng say mê ngưỡng mộ của cả thành trì, đất nước để tôn lên cái vẻ đẹp động lòng người của nàng Kiều. Câu thành ngữ cổ "nghiêng nước nghiêng thành" đã được tác giả sử dụng một cách sáng tạo để miêu tả vẻ đẹp tuyệt thế thiên tiên của nàng Kiều. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ là vẻ đẹp rực rỡ bề ngoài mà còn thể hiện ở những vẻ đẹp có chiều sâu khác đó chính là vẻ đẹp tài năng, trí tuệ của nàng.
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân."
Nguyễn Du viết "Sắc đành đòi một tài đành họa hai", như vậy Kiều ngoài cái vẻ đẹp kinh động lòng người, thì còn có một thân tài nghệ. Nàng sinh ra đã được trời phú một dung mạo tuyệt mỹ, lại thêm bản tính vốn thông minh, học đâu biết đấy, thế nên cầm kỳ thi họa chẳng có thứ nào mà nàng không tinh thông, đặc biệt là trong cầm kỹ, nàng đã rèn riêng cho mình một thân hồ cầm tuyệt kỹ, phải nói khó có ai sánh bằng. Có thể nói Thúy Kiều đã đạt đến mức lý tưởng trong quan niệm truyền thống, tài sắc đều là bậc nhất, trăm năm mới có một người. Thúy Kiều ngoài khả năng đánh đàn, nàng còn biết cả sáng tác nhạc, thế nhưng những bản nhạc của nàng lúc nào cũng ai oán, như buồn, như thương cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, điều đó đã phần nào nói nên tâm hồn đa sầu đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một số kiếp trái ngang của Thúy Kiều.
"Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."
Sau khi miêu tả về nhan sắc và tài năng hai chị em Thúy Kiều, thì Nguyễn Du đã có những dòng thơ để nhận xét chung về cuộc sống cũng như tình trạng hiện tại của hai mỹ nhân nhà họ Vương. Có thể nhận ra rằng Kiều và Vân là con gái của viên ngoại thế nên hai nàng có cuộc sống khá sung túc, đủ đầy, quần là áo lụa, không phải lo nghĩ. "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" là đề cập đế tuổi tác của hai nàng đã sắp đến tuổi gả chồng, xuân sắc phơi phới, đặc biệt với nhan sắc và tài năng như thế nhưng hai nàng lại có một nề nếp gia phong nghiêm cẩn "Êm đềm trướng rủ màn che", quanh quẩn chốn khuê phòng. Hai nàng cũng chưa từng một lần màng đến chuyện yêu đương nam nữ dù biết bao thanh niên tài tuấn đang dòm ngó, thế nên mới có câu "Tường đông ong bướm đi về mặc ai".
Qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều đặc tả hai người con gái tài sắc mười phân vẹn mười, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, từ vẻ đẹp nhan sắc đến vẻ đẹp tâm hồn, tài năng, đó chính là biểu hiện cực kỳ sâu sắc trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du. Việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả nhân vật rất phù hợp với tư tưởng ca ngợi, ngưỡng mộ đề cao giá trị của con người trong tác phẩm, lấy vẻ đẹp của con người làm lý tưởng cho mọi vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn. Đồng thời qua đoạn trích Nguyễn Du cũng đã hé lộ những dự cảm đầy xót thương về cuộc đời bi ai, bạc mệnh của nàng Kiều, cũng như của người phụ nữ trong xã hội phong kiến hủ lậu.
Tham khảo:
Trải qua bao năm tháng “Truyền Kiều” của Nguyễn Du vẫn lưu dấu trong tâm khảm bạn đọc không chỉ bởi ngôn ngữ trong sáng, các biện pháp tu từ điêu luyện mà còn bởi tác phẩm có những câu thơ hay nhất, đẹp nhất, tiêu biểu cho bút pháp tả người của tác giả:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
(Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”)
Bốn câu thơ 28 chữ mà giống như 28 viên ngọc bằng ngôn ngữ toả sáng lấp lánh trong cả trang thơ. Vừa chiêm ngưỡng dáng hình mảnh dẻ thanh tao và tâm hồn trắng trong như tuyết của hai người con gái đầu lòng nhà ông bà Vương viên ngoại, người đọc chợt sững sờ trước bức chân dung giai nhân được hé lộ bằng những đường nét đầu tiên:
Vân xem trang trọng khác vời
Dòng thơ giới thiệu khái quát đủ để người đọc cảm nhận vẻ đẹp cao sang, quí phái của Thuý Vân, để rồi liền sau đó, như một nhà nhiếp ảnh tài ba, Nguyễn Du hướng ống kính của mình vào từng đường nét cụ thể trên gương mặt của người con gái:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân, từng đường nét dường như đều là một kì công của tạo hoá,gương mặt tròn đầy, tươi sáng dịu hiền như ánh trăng, đôi mày dài thanh thoát, miệng cười tươi thắm như hoa, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc đen, mềm, óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết… Tả về nàng, Nguyễn Du phải tìm đến hoa, lá, ngọc, vàng, mây, tuyết-những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời mới lột tả hết vẻ yêu kiều của người con gái ấy.
Vẫn là bút pháp ước lệ với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn lúc tả Kiều. Cụ thể trong thủ pháp liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, làn da, mái tóc… Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng: “đoan trang”,“nở nang”, “đầy đặn”. Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quí phái của người thiếu nữ. Điều kì diệu ở đoạn thơ này là Nguyễn Du đã miêu tả chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của nàng hoà hợp, êm đềm với xung quanh, được thiên nhiên yêu thương,nhường nhịn: “mây thua”; “tuyết nhường” nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ, êm ấm và một tương lai tươi sáng đón chờ.
Đoạn thơ khép lại sau khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh một nàng Thuý Vân sắc nước hương trời bằng ngôn ngữ thơ tinh luyện, những nét vẽ có thần, hàm xúc, gợi cảm, các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình.Hàm ẩn đằng sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quí mến trân trọng,ngợi ca con người mà đặc biệt là người phụ nữ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Đọc đoạn thơ, tìm hiểu kĩ về đoạn thơ, càng kính phục Nguyễn Du em càng trân trọng sự tinh tế trong ngôn ngữ Tiếng Việt. Bất giác em mong muốn được thay vài chữ trong câu thơ lúc sinh thời của đại thi hào dân tộc để diễn tả những suy nghĩ của mình:
“Nhiều trăm năm lẻ về sau nữa
Thiên hạ mãi còn nhớ Tố Như”
Tác giả Nguyễn Du có cuộc đời gắn với giai đoạn lịch sử cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là thời đại đầy biến động với nhiều đặc điểm nổi bật- Có lẽ chính vì vậy mà tác giả có thể viết lên được một tác phẩm đặc sắc - Đó chính là “Truyện Kiều, mang đầy đủ những nét đặc sắc trong việc miêu tả về cuộc sống đau khổ, gian nan của nhân vật chính là Thuý Kiều, đồng thời cũng thể hiện được sự tàn bạo, độc ác của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đầu của tác phẩm có tên là: “Gặp gỡ và đính ước”, Chủ yếu trong đoạn trích này tác giả muốn tả tài sắc của chị em Kiều.
Tác giả không bắt đầu bằng cách tả ngay vẻ đẹp riêng biệt của chị em Kiều mà ông tả chung về hai chị em trước để bước đầu hướng người đọc vào những nét đặc sắc của cả hai chị em Kiều:
" Đầu lòng hai ả tố nga
Thuỷ Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười"
Tác giả đã sử đụng những hình ảnh ước lệ đặc sắc để nói về vẻ đẹp tâm hồn cũng như vẻ đẹp bên ngoài của chị em Kiều. Sau khi nói chung về hai chị em, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của Vân trước. Tác giả tả vẻ bề ngoài trang trọng khác người của Vân là một vẻ đẹp của những con người quí phái- Sau đó, Nguyễn Du tả về đôi mắt, giọng nói, giọng cười của Vân, dường như, trước mắt chúng ta hiện lên hình ảnh dáng vẻ của một cô gái có sắc đẹp rất cụ thể, vẻ đẹp tuyệt vời của trời ban, vẻ đẹp hoà hợp với thiên nhiên mà ít ai có được. Đây chính là vẻ đẹp rất đoan trang, phúc hậu, êm đềm và dường như tác giả muốn gửi gắm qua vẻ đẹp êm đềm ấy chính là sự dự báo tương lai của Vân cũng êm đềm, hạnh phúc như vậy. Nhưng điều khiến cho người đọc cảm thấy thật sự đặc sắc lại chính là cách miêu tả Thuý Kiều của tác giả. Nếu như tác giả tả Vân thông qua đôi mắt, tiếng cười và lời nói thì Kiều đã được tác giả vẽ lên bằng vẻ đẹp của đôi mắt, đây chính là biện pháp đặc tả được tác giả sử dụng nhằm hướng người đọc tới vẻ đẹp đắm say, ngây ngất lòng người của Kiều. Đôi mắt trong như nước hồ thu để gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong trẻo, trong sáng tựa như nước mùa thu cũng giống như tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của Kiều. Không chỉ có vậy mà Kiều còn có vẻ đẹp của mùa xuân:
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn"
Vẻ đẹp đó khiến cho thiên nhiên phải “hờn”, phải "ghen". Điều đó chứng tỏ sắc đẹp của Kiều không hoà hợp với thiên nhiên, đây chính là sự dự báo trước về một cuộc sống éo le, trắc trở của Kiều sau này. Tác giả đã miêu tả sắc đẹp của Kiều trên nền là sắc đẹp của Vân khiến cho chúng ta càng cảm nhận rõ ràng hơn vẻ sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Kiều. Nhưng Kiều không chỉ có sắc đẹp tuyệt trần mà tài năng cũng không kém gì sắc đẹp, cầm, kì, thi, hoạ đều tuyệt vời. Tiếng đàn của Kiều không những ăn đứt Hồ Cầm một chương mà nó còn khiến người nghe cảm thấy não nhân. Và thông qua tiếng đàn của Kiều ta có thể nhận thấy Kiều là một cô gái rất nhân ái, đa sầu, đa cảm nên mới có thể gửi được lòng mình theo tiếng đàn. Thông qua hình ảnh:
"Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai"
Ta còn có thể cảm nhận thêm, Kiều còn là một cô gái có phẩm hạnh cao đẹp đã đến tuổi lấy chồng nhưng luôn biết giữ gìn khuôn phép. Nhìn lại tất cả, ta có thể nhận thấy một vẻ đẹp toàn mĩ, vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân, kết hợp tài tình giữa cả sắc và tài nhưng dường như lại dự báo một tương lai đầy bất trắc, “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Trong đoạn trích này, tác giả đã sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc để miêu tả. Nghệ thuật ước lệ quen thuộc trong văn học cổ để đưa chúng ta vào thế giới với những điều đặc sắc. Không chỉ có vậy, tác giả còn sử dụng biện pháp miêu tả mang tính hình tượng tự cảm nhận theo cách riêng của mình hoặc chọn tả các chi tiết đặc sắc cũng như tấm lòng ngưỡng mộ đối với con người cũng là một biện pháp nghệ thuật khá tiêu biểu được tác giả sử dụng trong đoạn trích.
Với ngòi bút miêu tả tinh tế, đặc sắc và chân thực, Nguyễn Du đã vẽ nên trước mắt chúng ta chân dung tuyệt vời của hai chị em Kiều.