Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1. Tục ngữ và Thành ngữ:
- Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm,
một luân lý, có khi là một sự phê phán.
- Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều người
đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn
Về hình thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh.
Còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh.
Có thể nói một cách hình ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là anh, từ đơn độc là em.
Vì thành ngữ qua thời gian đã được tập hợp thành cụm. VD: "Áo rách, quần manh",
"Ăn trắng, mặc trơn", "Ăn trên, ngồi trốc", "Dốt đặc cán mai", "Cá bể, chim ngàn" "Bụng đói, cật rét"....
đều là thành ngữ. Còn "Chó cắn áo rách", "Bệnh quỷ thuốc tiên", "Người chửa, cửa mả"...
đều là tục ngữ.
Hầu hết những câu thành ngữ, tục ngữ đầu do nhân dân sáng tác, nhưng cũng có những câu
rút ra từ các thi phẩm phổ biến, hoặc rút từ ca dao, dân ca ra. Có người nói tục ngữ là ngạn ngữ
(nghĩa là lời nói đã lưu hành từ xưa) (Chữ ngạn có nghĩa là lời nói của người xưa).
Như vậy, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở những kinh nghiệm về sinh hoạt, sản xuất... Nó là những
câu đúc kết những nhận xét đã được nhiều người thừa nhận, để hướng dẫn con người ta trong sự
nhìn nhận mọi khía cạnh của cuộc đời. Tục ngữ là những câu thông tục, thiên về diễn ý, đúc kết một
số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lý và công lý để nhận xét về con người và xã hội,
hay dựa theo trí thức để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ :
"Chồng yêu, xỏ chân lỗ mũi", thì "xỏ chân lỗ mũi" là thành ngữ.
2. Ca dao và dân ca:
- Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta
tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta
thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và
dân ca không rõ.
Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài
ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm.
Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác
và có thể xây dựng thành các điệu ca dao.
Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định,
nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng.
Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn
cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương,
còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào,
thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi
"Đồng đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"
Hay:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga.
Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được..
Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện
cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh.
Cũng như tục ngữ, ca dao - dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể,
được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả
những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ - ca dao - dân ca) :
tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh,
tính truyền miệng, tính tập thể ....thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất
B. Thời kỳ xuất hiện:
So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như "Dô ta", như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.
Xét nội dung những câu "Năm cha, ba mẹ", hay "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông", "Con dại, cái mang", "con mống, sống mang".. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ...
Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.
C. Nội dung và hình thức của tục ngữ - ca dao - dân ca:
1. Nội dung của tục ngữ:
Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả.
Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.
VD:
Quá mù ra mưa
Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Cái sảy nảy cái ung
Cõng rắn cắn gà nhà
...
2. Hình thức của tục ngữ:
Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn
Làm phúc phải tội
Gà què ăn quẩn cối xay
Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
...
Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối
No nên bụt, đói nên ma
Bút sa, gà chết
Có tật giật mình
Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ
May tay hơn hay thuốc
Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con
Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm
Hoặc thể lục bát
Cá tươi thì xem lấy mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai
Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người...nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.
3. Nội dung của ca dao:
Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào...thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.
Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.
Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình...
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương
Tuyệt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ...
Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội.
Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.
4. Hình thức nghệ thuật của ca dao:
Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú.
Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao.
Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc.
Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu
Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:
Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn[/cente]
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền
Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú: Là trình bày, diễn tả...
Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...
Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:
Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em
Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa
....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
[center]Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành
MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH
1. Hát giặm
Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu....xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm.
Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến.
Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời:
vd:
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại
hay:
Thấy những lời kêu trách
Nghe những lời kêu trách
Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài.
Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt.
Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi
VD:
Trai:
Tiết thanh nhàn thong thả
Muốn thăm hỏi vài câu
Cuốc thánh thót kêu sầu
Gió phảng phất mùa sâu
Nhớ trong sách đã lâu:
Chuyện "Tư mã phượng cầu"
Thương thì mũi tìm trâu
Trâu đâu tìm chạc mũi
Gái:
Trời mở rộng phong quang
Giã ơn trời mở rộng phong quang
Em đánh tiếng đua sang
Đêm tàn canh vò võ
Tay em cầm con bấc đỏ
Mong bỏ đĩa dầu đầy
Mời bạn ở lại đây
Đôi ta giở lời rày
Tình đó với nghĩa đây
Trai:
Giống như đọi nác đầy
Bưng nhẩn nhẩn trên tay
Không khuy sơ một hột
Gió nỏ triềng một hột
Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lứa đôi
Ngãi đã quyết thề bồi
Nhất ngôn nói hẳn lời
Đừng bốn chốn ba nơi
Đừng trăn gió chào mời
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăn nhiều đèn rạng rỡ
Gái:
Em đã có chồng rồi
Em đã có lứa rồi
Vung úp đã vừa nồi
Đũa ghép đã thành đôi
Bạn đừng có ỡm ờ với tôi!
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại
Trai:
Têm một quả trầu không
Bỏ vô hộp con rồng
Đi băng nội băng đồng
Qua năm bảy khúc sông
Qua chín mười đỗi đồng
Nghe tin em đã có chồng
Anh quăng lắc vô bụi
Bạn gạt tùa vô bụi.
Anh thương em một tháng hai kỳ
Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày
Năm rộn mà chầy
Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ)
Xuân qua rồi hè /đến
Thu đã muộn, đông rồi
Nhớ bạn cũ chưa nguôi,
Sang lập xuân vũ thuỷ
Đêm em nằm em nghĩ
Nghĩ kinh trập, xuân phân,
Lòng tưởng sự ái ân
Sang thanh minh, cốc vũ
Đêm dêm nằm nỏ ngủ
Nhớ bạn mãi thường thường
Tiết lập hạ nhớ thương
Bước sang tuần tiểu mãn
Trông ra ngoài chán chán
Tiết mang hiện lại gần
Người đập đất, gánh phân
Để mùa màng gặt hái
Anh thương em mãi mãi
Sang hạ chí tiết hè
Em nghe tiếng sầu ve
Em buồn trong gia sự
Bạn buồn trong gia sự
***
Tiết tiểu thử, đại thử
Trời nắng sốt lắm thay!
Ra ngồi tựa cột cây
Anh với em than thở
Bạn với mình than thở
***
Tiết lập thu, xử thử
Ai diều sáo mặc ai
Vàng lác đác giếng tây
Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ)
Nhớ mãi người bạn cộ
***
Vừa đến tiết bạch lộ
Bầy chim trắng bay sang
Cây heo hắt lá vàng
Sang thu phân hàn lộ.
***
Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy)
Tiết sương giáng lại kề
Trông bạn cũ ta về
Sang lập đông giá rét
Tiết tiểu tuyết, đại tuyết
Trời giá rét lắm thay
Sang đông chí cấy cày
Dạ bồi hồi nhớ bạn
Tiết tiểu hàn chưa dạn
Đã bước sang đại hàn
Dạ tưởng nhớ người ngoan
Vừa năm cùng tháng tận
Vừa cuối mùa cuối tận.
***
Phận lại ngồi trách phận
Phận nỏ giám trách phận
Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp
6. Hát ví Nghệ Tĩnh:
Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn.... Trong những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả.
1. Hát phường vải:
Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng.
Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn.
Giai đoạn 1:
Hát dạo
Bấy lâu thức nhắp mơ màng
Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng
*
Bấy lâu nghe hết tiếng nàng
Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng
Nghe tin anh cũng vội mừng
Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang
*
Bấy lâu anh mức chi nhà
Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu
*
Đồn rằng cá uốn thân vây
Đồn em hay hát, hát hay anh tìm
*
Chốn này vui vẻ, tưng bừng
Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi
*
Đêm khuya trời tạnh sương im
Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần.
*
Dừng xa, khoan kéo, ơi phường!
Hình như có khách viễn phương tới nhà
*
Đi qua nghe tiếng em reo,
Nghe xa em kéo, muốn đeo em về.
*
Đi ngang trước cửa nàng Kiều,
Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu
*
Đi ngang thấy búp hoa đa`o
Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai
*
Đồn đây là chốn Đao` Nguyên
Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi
*
Lạ lùng anh mới tới đây,
Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng
*
Đến đây vàng cũng như son
Ai ai thời cũng như con một nhà
Hát mừng, hát chào
Khi nháy mắt, khi nhện sa
Khi chuột rích trong nhà
Khi khách kêu ngoài ngõ
Tay em đưa go đủng đỉnh
Tay em chìa khoá động đào
Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen
*
Mừng rằng bạn đến chơi nhà
Cam lòng thục nữ gọi là trao tay
Hát hỏi
Em có chồng rồi, em nói rằng chưa
Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh
*
Em chưa có chồng, em mới đến đây
Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà
Giai đoạn 2:
Hát đố và hát đối
Anh về chẻ lạt bó tro
Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng.
Em về đục núi lòn qua,
Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng
*
Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc,
Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây
Hai ta tình nặng nghĩa dày,
Đối ra đáp được, lúc này tính sao?
*
- Đến đây hỏi khác tương phùng
Chim chi một cánh bay cùng nước non?
-Tương phùng nhắn với tương tri,
Lá buồm một cánh bay đi khắp trời
*
- Lá gì không nhánh, không ngành?
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?
- Lá thư không nhánh, không ngành,
Lá thư chỉ có tay mình trao tay.
*
- Nghe tin anh hoc có tài
Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng?
- Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra
Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày!
*
- Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng
Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi?
- Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong
Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa?
*
Nghe anh bôn tẩu bấy lâu
Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh?
- Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu
Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi
Cầu danh, cầu lợi, cầu tài
Cầu cho đây đó làm hai giao hoà
*
Nhớ em nhất nhật một ngày
Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông
- Chờ em nửa tháng ni rồi
Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng
*
- Nghe tin anh giỏi, anh tài
Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng?
- Thiên thai là của nàng Kiều
Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra
1. Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
2. Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
3. Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu
P/S: Nói chung thì những câu ca dao, tục ngữ có phép so sánh về người phụ nữ thường bắt đầu bằng cụm từ Thân em. Bạn có thể tìm thêm một số câu khác nhé.
Đồn rằng Chợ Nội vui thay
Bên đông có miếu bên tây có chùa
Giữa chợ có miếu thờ vua
Đôi bên nước chảy đò đưa em về
Chợ Nội làng Trưa Nộĩã Đông Xuân, Huyện Đông Hưng, Thái Bình (Câu số 19890 )
Ai ơi giữ phép nước ta
Ai ơi thương lấy dân nhà một tông,
Có hậu dưỡng mới phú phong
Kẻ cày người cấy, sống trong thái bình
Kẻ, nho lo việc học hành
Mai sau chiếm bảng, nức danh trên trờI
Kẻ buôn thì được lắm lời
Tàng vương chi thị tứ thời bán mua
Kẻ công ai cũng tranh đua
Làm nghề chạm vẽ: phượng rùa, long, ly
Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề
Nhờ trời đều được, gặp khi thái hòa
Toàn dân vang khúc đạo ca .
Phạm Tuân quê ở Thái Bình
Quê hương đói khổ dứt tình bỏ đi
Sao không xin gạo, xin mì
Bay lên vũ trụ làm gì hỡi Tuân?
Đồn rằng Chợ Nội vui thay
Bên đông có miếu bên tây có chùa
Giữa chợ có miếu thờ vua
Đôi bên nước chảy đò đưa em về
Chợ Nội làng Trưa Nộĩã Đông Xuân, Huyện Đông Hưng, Thái Bình (Câu số 19890 )
Ai ơi giữ phép nước ta
Ai ơi thương lấy dân nhà một tông,
Có hậu dưỡng mới phú phong
Kẻ cày người cấy, sống trong thái bình
Kẻ, nho lo việc học hành
Mai sau chiếm bảng, nức danh trên trờI
Kẻ buôn thì được lắm lời
Tàng vương chi thị tứ thời bán mua
Kẻ công ai cũng tranh đua
Làm nghề chạm vẽ: phượng rùa, long, ly
Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề
Nhờ trời đều được, gặp khi thái hòa
Toàn dân vang khúc dao ca
Giống :
- Đều là những thể loại văn học dân gian.
Khác :
- Ca dao là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
- Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội).
Giống :
Ca dao tục ngữ đều là những câu nói do người đời lưu truyền lại ,tán tụng trong nhân gian .Là bài học,lời dạy ,kinh nghiệm sống ,kinh nghiệm tìm hiểu cachiện tượng thiên nhiên thời tiếtkhi hậu mùa màng
Khác :
Ca dao thì có vần có điệu ,rườm rà hơn ,trữ tình hơn
Tục nmgữ thì không nhất thiết phải có vần có điệu mà tục ngữ ngắn gọn,xúc tích và không có tính rườm rà hay mang tính chất kể nể như ca dao .
1. Những hình ảnh trên gợi cho em liên tưởng đến những bài ca dao đã học ( hoặc đã biết ) là:
- Bài 1 :
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng ?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
- Bài 2 :
Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
- Bài 3 :
Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đàng xa
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo !
2. Theo em , những bài ca dao đó thể hiện nội dung:
- Bài 1 : châm biếm những hạng người lười nhác, thích hưởng thụ, nghiện ngập trong xã hội.
- Bài 2 : cảnh tỉnh những người cả tin, mê muội vào những điều nhảm nhí, mất tiền một cách vô ích; phê phán tệ nạn mê tín dị đoan, những thầy bói lừa bịp, dốt nát.
- Bài 3 :
Đọc đi đọc lại mấy câu ca dao trên, rồi suy ngẫm ta thấy cổ nhân rất thâm thúy và hài hước. Với chỉ bốn câu ngắn ngủi, nhưng một hoạt cảnh đã được dựng lên: Góc sân, cây cau và con mèo đang trèo cây để tìm bắt chuột.
Ở quê, để tránh sự lụt lội hằng năm và để cho an toàn, những con chuột tinh khôn đã làm tổ trên tận ngọn cây cau cao vút. Điều này khiến cho mèo không phải thích viếng lúc nào cũng được. Trèo cao luôn là chuyện nhọc nhằn. Nhưng mèo đã trèo và đã đến. Than ôi, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì, vì sự trùng hợp tình cờ giữa sự viếng thăm và vắng mặt.
Sự "hỏi thăm chú chuột" của mèo là tiếng gầm gừ và động tác cào cấu hù dọa để làm lộ mặt đối phương. Tiếc thay, kẻ mạnh lần này đã bị thất bại trong kế hoạch săn mồi. Chúng ta hãy hình dung vẻ mặt ngơ ngác, tiếc nuối và hụt hẫng của con mèo sau khi vất vả trèo cao nhưng không tìm thấy mục tiêu. Sự vắng mặt của chuột cũng là vì kế sinh nhai mà thôi: Chú chuột đi chợ đàng xa/ Mua mắm, mua muối... Nhưng xét cho cùng thì chuột cũng sẽ bị vồ dưới nanh vuốt của mèo. Bởi từ xa xưa nó luôn là con vật để "giỗ cha con mèo".
Bạn ơi cho mình hỏi!
-Chỗ Bài 2 là Ảnh thầy bói, nhưng sao ở đây bạn trả lời mình nghĩ(ý kiến riêng) nó không đúng như trong ảnh?
Ngày đi,đảng gọi Việt Nam Ngày
về thì đảng chuyển sang Việt Kiều
Hôm qua: phản động trăm chiều, Hôm nay: thành khúc ruột yêu ngàn trùng
- Ăn cây nào
- Ăn cỗ đi trước,
- Ăn cơm có canh
- Ăn cơm không rau
- Ăn cơm mới
- Ăn cơm nhà
- Ăn đầu sóng
- Ăn không lo
- Ăn kĩ no lâu
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
- Ăn khoai
- Ăn ốc
- Ăn theo thuở
- Ăn vóc
- Ăn chắc
- Ăn không nên đọi, nói không nên lời
- thanks mình bằng cách giải hộ mình toán ở nick mình nha
Ca Dao Kiên Giang
Mất mẹ cha thiệt là khó kiếm Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi
Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
Bậu để chế cho ai tóc mai rầm rậm Bậu để chế cho chồng hiếu hạnh bậu đâu?
Chim đa đa đậu nhánh đa đa Chồng gần không lấy để lấy chồng xa Một mai cha yếu mẹ già Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dâng?
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Chồng giận vợ phải bớt lời Cơm sôi bớt lửa chẳng rơi hột nào
Chim khôn lựa nhánh lựa cành Gái khôn lựa chốn trai lành gởi thân
Gió đẩy gió đưa giọt mưa uốn éo Anh đem em về dạy khéo dạy khôn
Lên xe nhường chỗ bạn ngồi Nhường nơi bạn dựa nhường lời bạn thưa
Chim tham ăn sa vào vòng lưới Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu Ai ơi nên phải nghĩ sâu
Hỏi vợ phải cưới liền tay Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
Dĩa bàn than con tôm càng dựng đứng Dĩa bằng sứ để để đựng tôm he Đạo vợ chồng em nói anh nghe Biểu anh đừng cờ bạc rượu chè hư thân
Vợ chồng là nghĩa suốt đời Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn
Chưa giàu chớ học làm sang Leo thang nhiều nấc tuột thang có ngày
Ruộng ai thì nấy đắm bờ Duyên ai nấy đặng đừng chờ uổng công
Sông dài cá lội biệt tăm Phải duyên chồng vợ mấy năm cũng chờ
Tiếng đồn cha mẹ anh hiền Cắn cơm không bể cắn tiền bể tươi
Má ơi con má hư rồi Má đừng trang điểm phấn dồi uổng công
Con gái nhà giàu như tàu chuối hột Cửa đóng then cài có một đứa con
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại Tiếc cái bông lài cậm bãi ***** trâu
Trống treo ai dám đánh thùng Bậu không ai dám giở mùng chun vô?
|
Mất mẹ cha thiệt là khó kiếm
Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
Bậu để chế cho ai tóc mai rầm rậm
Bậu để chế cho chồng hiếu hạnh bậu đâu?
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy để lấy chồng xa
Một mai cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dâng?
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng
Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Chồng giận vợ phải bớt lời
Cơm sôi bớt lửa chẳng rơi hột nào
Chim khôn lựa nhánh lựa cành
Gái khôn lựa chốn trai lành gởi thân
Gió đẩy gió đưa giọt mưa uốn éo
Anh đem em về dạy khéo dạy khôn
Lên xe nhường chỗ bạn ngồi
Nhường nơi bạn dựa nhường lời bạn thưa
Chim tham ăn sa vào vòng lưới
Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu
Ai ơi nên phải nghĩ sâu
Hỏi vợ phải cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
Dĩa bàn than con tôm càng dựng đứng
Dĩa bằng sứ để để đựng tôm he
Đạo vợ chồng em nói anh nghe
Biểu anh đừng cờ bạc rượu chè hư thân
Vợ chồng là nghĩa suốt đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn
Chưa giàu chớ học làm sang
Leo thang nhiều nấc tuột thang có ngày
Ruộng ai thì nấy đắm bờ
Duyên ai nấy đặng đừng chờ uổng công
Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ mấy năm cũng chờ
7. Mỉa mai, châm biếm, khôi hài, chê bai
Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không bể cắn tiền bể tươi
Má ơi con má hư rồi
Má đừng trang điểm phấn dồi uổng công
Con gái nhà giàu như tàu chuối hột
Cửa đóng then cài có một đứa con
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại
Tiếc cái bông lài cậm bãi ***** trâu
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám giở mùng chun vô?
Đêm khuya gà gáy ó o
Vợ tôi thức giấc nó mò đi đâu
Muốn người ta người ta không muốn
Xách cái quần đi xuống đi lên
Còn duyên anh cưới bằng heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi
Mèo cụt đuôi là mút đuôi kèo
Mãn lo cha khó, mẹ nghèo hết duyên
Ví dầu dượng cháu người dưng
Cháu cho dượng lấy dượng cưng suốt đời
Uổng công xúc tép nuôi cò
Cò ăn cò lớn cò dò lên cây
Nghĩa nhân mỏng vánh tựa cánh chuồn chuồn
Khi vui nó đậu khi buồn nó bay!
Chuối non dú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm suốt đêm
Khóc rồi bị mẹ đánh thêm
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mầy
Có chồng mà lại mấy trai
Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu
Nước ròng bỏ bãi xà cừ
Mặt em có thẹo anh trừ đôi bông
Nước mắm ngon dầm con cá đối
Nói chị Hai mầy chiều tối tao qua
Một mình lo bảy lo ba
Lo cau trổ muộn lo già hết duyên
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Thương em chẳng biết để đâu
Để trong cái hủ lâu lâu dở dòm
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Hay đâu giếng cạn tiếc hoài sợi dây
May không chút nữa em lầm
Khoai lang xắt lát tưởng sâm bên Tàu
Anh đừng rơi nước mắt ớt
Anh đừng rớt nước mắt gừng
Đôi ta chẳng đặng thì đừng
Nhân duyên ông Trời định nửa chừng thôi nhau
Tóc quăn chải lược đồi mồi
Chải đứng chải ngồi quăn vẫn còn quăn
Má ơi con má chính chuyên
Chính chuyên với má nó liền với trai
Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi lấy vợ cho sóng thần nhận ghe
Giận chồng khăn gói ra đi
Chồng theo năn nỉ tù ti trở về
Bước lên tấm ván cong vòng
Kêu anh cũng ngặt kêu chồng khó nghe
Má ơi con má chính chuyên
Ghe bầu đi cưới một thiên mắm mòi
Không tin mở hộp ra coi
Rau răm ở dưới mắm mòi ở trên
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Cá cắn đứt nhợ vin râu ngồi chờ
Con ếch ngồi dựa bụi đưng
Ếch kêu cái uệch biểu ưng cho rồi
Bởi anh tham trống bỏ kèn
Ham chuông bỏ mõ, ham đèn phụ trăng
Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu mà chửa cho người lẳng lơ
Nhà bà giàu thịt thà đầu mâm đầy thớt
Phận tôi nghèo trớt quớt con cu
Một mai bóng xế trăng lu
Thịt thà bà hết con cu tôi còn
Hàm Ninh là Hàm Ninh ke
Có ba chén chè đóng cửa lại ăn
Cửa Bổn là Cửa Bổn còi
Có ba con đột mà coi như vàng
8. Biểu lộ cảm xúc hoặc giải bày tâm sự:
A. Lòng hiếu
Mỗi năm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Mẹ già ở túp liều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con
Ngồi buồn nhớ mẹ thuở xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương
Chẳng lo thân bậu thân qua
Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao
Con thơ tay ẫm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu bạc như bông
Chiều chiều vịt lội bờ ao
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Một tiếng anh than hai hàng lệ nhỏ
Có một mẹ già biết bỏ ai nuôi
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần
Thùng thùng cắc cắc
Chim đậu không bắt
Để bắt chim bay
Gặp em ở chốn lầu tây
Hai hàng lụy nhỏ
Có một mẹ già bết ngỏ cùng ai
B. Sự chính chuyên, tiết hạnh, chung thủy
Con chim đỏ mỏ xanh lông
Đỏ mồng xanh kiếng
Nó kêu nhiều tiếng lạ lùng
Kêu sao, kêu lại quân tử nghe cùng
Phải lương duyên thì quân tử đẹp
Phải tao phùng thì quân tử thương
Ghe bầu trở mũi về đông
Trở lái lên đồng
Con gái theo chồng ***** ai nuôi
Mẹ tôi có họ hàng nuôi
Tôi theo chú lái cho xui một bề
Rời chân bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn
Giống ghe Gia Định xuống vườn thăm em
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Anh đi nằm bãi Hòn Khơi một mình
Ngó ra Hòn Chảo sóng bổ lao xao
Thấy thuyền anh chạy như dao cắt lòng
Một ngày năm bảy trận dông
Anh đi nằm bãi sao không thấy về
Đêm nằm vắt tóc qua mình
Thề cho báng mạng kẻo tình anh nghi
Đốt than nướng cá trê vàng
Xách chai mua rượu cho chàng nhậu chơi
- Ai đi đâu đấy hởi ai?
- Tôi đi mua rượu cho chồng tôi say
- Chồng say thật khổ lắm thay
- Khổ thì tôi chịu hơn ai không chồng
Con quốc lẻ đôi còn ngồi than khóc
Huống chi hai đứa mình phân tóc rẽ tơ
Nhà Ngang, Kè Một, Cây Bàng
Ngược xuôi theo dấu chân chàng chàng ơi
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng đi thú đồn xa
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng đi thú Hà Tiên
Trai nào khôn bằng trai Long Mỹ
Gái nào mũ mĩ bằng gái Hà Tiên
Làm dâu ba bốn năm trường
Mẹ chồng không thương đánh thác tại ngã ba đường
Hồn thư em sống dậy gá nghĩa can thường với anh
Làm sao hóa đặng chim xanh
Bay ra Phú Quốc thăm anh đở buồn
Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Tình chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
C. Nam nữ trêu ghẹo hoặc tỏ tình
Một mai trống lũng khó hàn
Dây dùn khó dứt, bạn lang khó tìm
Ruột đau quặn thắt chín từng
Anh với em như quế với gừng
Dù không nhân ngãi xin đừng bỏ nhau
Dĩa bàn thang con tôm càng dựng đứng
Bởi anh nghèo chẳng xứng suôi gia
Cây đa trước miểu ai biểu cây đa tàn
Bao nhiêu lá rụng thương nàng (chàng) bấy nhiêu
Cây quằn vị bởi trái sai
Em xa nha vì bởi ông mai ít lời
Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh
Bánh nào trắng bằng bánh bò bông
Thương em từ thuở má hồng
Bây giờ em lớn lấy chồng bỏ anh
Gái:
Anh về đề áo lại đây
Để khuya em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng
Trai:
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả áo anh về đi học kẻo trưa
Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chưa lấy chồng còn đợi chờ ai?
Ô rô ba lá ô rô
Ông Thần không vật mấy cô chưa chồng
Phượng hoàng đậu nhánh sa kê
Ông Thần không vật mấy thằng dê cho rồi
- Cô kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?
- Nhà tôi ở dưới đám dâu
Ở bên đám đậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông
Chim se sẻ nó đẻ cột đình
Bà ngoại đẻ má, má đẻ mình em ơi
Gió đưa buồn ngủ lên bờ
Mùng ai có rộng cho ngủ nhờ một đêm
Chim chìa vôi bay ngang đám thuốc
Cá bảy trầu lội tuốt mương cau
Đâu anh đối thử cho mau
Em đây chịu khó đứng hầu lắng nghe
Tôi đi ngang nhà má
Tay tôi xá chân tôi quỳ
Bởi thương con má xá gì thân con?
Tôi đi ngang nhà má
Tôi vác cục đá
Tôi chọi má lổ đầu
Tía ra, tía hỏi
Tôi nói: tôi đá cầu tôi chơi
Khổ qua xanh, khổ qua trắng
Mất nắng khổ qua đèo
Em có thương anh thì làm giấy giao kèo
Lăn tay chỉ điểm mới phải con mèo của anh
Liệu bề đát đặng thì đươn
Đừng gầy rồi bỏ thế thường cười chê
Liệu bề thương được thì thương
Đừng giao gánh nặng giữa đường cho em
Ghe lui khỏi bến còn dằm
Người thương đâu vắng chỗ nằm còn đây
Chim Quyên xuống đất kiếm mồi
Thấy anh lao khổ đứng ngồi không yên
Trời mưa ướt lá trầu xanh
Ướt em em chịu, ướt an hem buồn
Trời mưa ướt lá trầu vàng
Ướt anh anh chịu ướt nàng anh thương
Mưa lâm dâm ướt dầm lá hẹ
Cảm thương nàng có mẹ không cha
Ngó lên trời thấy mây đen vần vũ
Ngó xuống đất thấy đủ mặt bá quan
Ngó về Nam Vang thấy bốn chữ vàng
Ngó qua Nam Đàng thấy hàng chữ đỏ
Ngó xuống Cà Mau thấy sóng bủa lao xao
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Gió đưa trăng thì trăng đưa gió
Trăng lặn đi rồi, gió biết đưa ai
Củi khô dễ nấu chồng xấu dễ xài
Ham chi bóng sắc nó đọa đày tấm thân
Gái:
Con cá đối nằm trong cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối được dẫu nghèo cũng ưng
Trai:
Chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lan
Đây anh đối được, e nàng không ưng
Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bậu, ngặt đò không đưa
Quả năm ngăn trong lòng sơn đỏ
Mấy lời to nhỏ bậu không đành
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Chiếc tàu Tây liệt máy mới đành xa nhau!
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Con sông xanh cạn nước anh mới đành xa em
Gái:
Mặc tình ai dễ ép ai
Muốn ăn trứng nhạn Hang Mai phải lòn
Trai:
Hang Mai anh cũng muốn lòn
Sợ e trứng nhạn chỉ còn vỏ không
Thò tay mà bứt cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ?
Tay ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ca, tay cấy mà lòng nhớ ai!
Đèn hết dầu đèn tắt
Hoa rửa nhụy hết thơm
Em biểu anh đừng lên xuống sớm hôm
Thế gian đàm tiếu người ta chê cười
Tay cắt tay sao nở, ruột cắt ruột sao đành
Lời thề hai mái đầu xanh
Bậu lỡ thời như chiếu trải qua
Chiếu trải qua người ta còn cuốn
Bậu lỡ thời như rượu uống say
Rượu uống say người ta còn sặc
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như cánh chim bay
Cánh chim bay người ta còn quạt
Bậu lỡ thời như lạt gói nem
Lạt gói nem ngưởi ta còn sợ
Bậu lỡ thời như nợ kéo lôi
Nợ kéo lôi người ta còn trả
Bậu lỡ thời như trả nấu ăn
Trả nấu ăn người ta con rửa
Bậu lỡ thời như lửa cháy lan
Lửa cháy lan người ta còn tưới
Bậu lỡ thời như lưới dầm mưa
Lưới dầm mưa người ta còn giặt
Bậu lỡ thời như áo vá vai
Áo vá vai người ta còn nhuộm
Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang
Ruộng bỏ hoang người ta còn cấy
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông người ta còn vớt
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây người ta còn hái
Bậu lỡ thời như nhái lột da
Nhái lột da người ta còn xáo
Bậu lỡ thời như như áo vá vai
Áo vá vai ngươi ta còn mặc
Bậu lỡ thời ai muốn làm chi
Đèn treo cột đáy, nước chảy đèn rung
Anh thương em thắm thiết vô cùng
Cớ sao em bội bạc, lạnh lùng với anh?
Dĩa nghiêng múc nước sao đầy
Lòng thương người nghĩa, cha mẹ rầy cũng thương
Đêm khuya thắp dĩa dầu đầy
Dĩa dầu khô cạn, nước mắt đầy chưa vơi
Nước trong thấy đá, con cá lội thấy hình
Thương em, anh phải liều mình bước vô
Bình bồng khó lắm anh ơi!
Thân em như chiếc thuyền trôi giữa vời
Đứng xa kêu bới anh Mười
Thương không anh nói thiệt, đừng cười đẩy đưa
Hai cô đứng lại cho đồng
Để tôi đứng giữa làm chồng hai cô
Chồng đi thì có chồng nhà
Hơi đâu mà đợi chồng xa nó về
Chừng gần ngoài Huế cũng gần
Chừng xa, cách một tấm trần cũng xa
Đừng chê em xấu, em đen
Nước kia dù đục lóng phèn cũng trong
Em về anh mượn lại khăn
Gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên
Hồi nào mặt mũi tèm lem
Bây giờ hò hẹn phải dầm mình đi
Liều mình lặn xuống ao sâu
Đặng đo miệng cá uốn câu cho vừa
Gá duyên đừng quá kén lừa
Cụm mây kia đen đặc ngọn gió lùa cũng tan
Tính em ở thẳng như dây đờn
Mặc lòng anh chọn, đâu hơn anh kiếm tìm
Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Thương em bất luận chồng con mấy đời
Cây khô để lại lá vàng
Chồng đi để lại muôn ngàn nhớ thương
Cầu cao, ván yếu, bước rung
Anh thương em thi thương đại, ngại ngùng thì đừng thương
Ngó lên chữ ă, ngó xuống chữ ư
Anh thương em thủng thẳng em ừ
Anh đừng thương vội, mẫu từ em hay
Dây tơ hồng không trồng mà mọc…
Thấy em chưa chồng, anh chọc anh chơi
Anh với em thề trước miếu ông
Sống nằm một chiếu, chết chung một mồ
. Ca Dao là những bài ca ngắn có vần, điệu để nói lên quan niệm về Vũ trụ, Thiên nhiên, Cuộc sống, Con người, và Xã hội
2. Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian". Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.
Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ...
Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Giống :
Ca dao tục ngữ đều là những câu nói do người đời lưu truyền lại ,tán tụng trong nhân gian .Là bài học,lời dạy ,kinh nghiệm sống ,kinh nghiệm tìm hiểu cachiện tượng thiên nhiên thời tiếtkhi hậu mùa màng
Khác :
+Ca dao thì có vần có điệu ,rườm rà hơn ,trữ tình hơn
+Tục nmgữ thì không nhất thiết phải có vần có điệu mà tục ngữ ngắn gọn,xúc tích và không có tính rườm rà hay mang tính chất kể nể như ca dao .