Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

đây là những j mk tìm đc
NGHỊ LUẬN VỀ LÒNG KHIÊM TỐN TRONG CUỘC SỐNG HIỆN NAY
MỤC LỤC NỘI DUNG1. Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về lòng khiêm tốn2. Bài văn nghị luận bàn về lòng khiêm tốn của học sinh giỏi môn văn3. Những bài văn đạt điểm cao4. Bài văn nghị luận về lòng khiêm tốn lớp 95. Nghị luận 200 chữ về lòng khiêm tốnNghị luận về lòng khiêm tốn, dàn ý chi tiết cùng những bài văn mẫu hay nhất được Doctailieu tổng hợp có trong nội dung bài viết dưới đây
Cùng tham khảo nhé!
Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mực trong việc đánh giá bản thân mình, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người khác. Khiêm tốn không chỉ là một đức tính tốt mà nó còn là nghệ thuật sống, là nền tảng vững chắc giúp mỗi người chúng ta tạo lập sự nghiệp.
Đề bài: Trình bày suy nghĩ về lòng khiêm tốn trong xã hội hiện nay.
Để hoàn thành bài văn nghị luận về đức tính khiêm tốn, các em hãy tham khảo qua các bước dưới đây
1. Phân tích đề
– Yêu cầu: Suy nghĩ của em về tính khiêm tốn trong xã hội ngày nay
– Dạng đề: Nghị luận về một hiện tượng đời sống
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những sự việc, con người quan sát được trong thực tế đời sống.
– Thao tác lập luận : giải thích, phân tích, bình luận.
2. Hệ thống luận điểm nghị luận về lòng khiêm tốn
– Luận điểm 1: Giải thích khái niệm khiêm tốn là gì?
– Luận điểm 2: Thực trạng, biểu hiện của lòng khiêm tốn.
– Luận điểm 3: Vai trò của lòng khiêm tốn.
– Luận điểm 4: Mở rộng vấn đề nghị luận.
3. Dàn bài nghị luận về lòng khiêm tốn
Mở bài
Nêu luận đề: lòng khiêm tốn
Thân bài
a. Giải thích
- Là một đức tính tốt mà con người cần phải trau dồi, rèn luyện
- Khiêm tốn là nhã nhặn, có thái độ đúng mực trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn , tự kiêu , tự cho mình là hơn người
- Thường đi kèm với sự tự tin, lòng tự trọng
b. Phân tích mặt đúng , chỉ ra tác dụng, ý nghĩa
- Biểu hiện của đức tính khiêm tốn :
+ Trong phát ngôn: luôn dung từ giản dị, dễ hiểu, không nói nhiều về mình, không khoe khoang
+ Trong thái độ đối xử: không quá tự tin vào bản thân, luôn “ kính trên nhường dưới”, không dùng từ làm tổn thương người khác; nhẹ nhàng, biết lắng nghe nếu được góp ý
- Tác dụng ý nghĩa :
+ Giúp con người dễ đạt đến sự thành công, có được sư tin tưởng của mọi người
+ Luôn nhận được sự giúp đỡ chân thành của mọi người, được mọi người quý mến, tôn trọng
c. Phân tích mặt tiêu cực
- Ngược lại với khiêm tốn là sự tự cao, tự đại, luôn khoe khoang, thích nói nhiều về bản thân
- Tác hại: dễ bị mọi người xa lánh
d. Bài học nhận thức và hành động
- Học lối sống khiêm tốn để dễ hòa đồng với xã hội, với mọi người
- Thắng không kiêu, bại không nản
Kết bài
- Khằng định giá trị của đức tính khiêm tốn trong việc hình thành nhân cách con ngừoi
- Cảm nghĩ chung
Các em có thể tham khảo thêm dàn ý chi tiết nghị luận về lòng khiêm tốn mà chúng tôi đã biên soạn dưới đây để có thêm hướng xây dựng bài viết của mình được hoàn chỉnh hơn nhé.
4. Sơ đồ tư duy nghị luận về lòng khiêm tốn
Đã biết bao nhiêu năm trôi qua, từ ngàn xưa cho đến thời hiện đại thì đối với nhân dân Việt Nam, đạo đức luôn là những chuẩn mực mà ai cũng phải chấp hành, tuân theo, thực hiện đúng theo những chuẩn mực đó. Khi công nghệ khoa học hiện đại phát triển thì việc học đạo đức, tuân theo những chuẩn mực xã hội càng cần thiết hơn rất nhiều lần. Nó được xem là thước đo chuẩn mực để đánh giá một con người. Đạo đức được thể hiện ở nhiều đức tính khác nhau, như lòng biết ơn, lòng khoan dung, lòng yêu nước… Trong đó, lòng khiêm tốn là một trong những đức tính mà con người chúng ta từ bao ngàn năm đến nay cần phải có.
Trước tiên, để hiểu rõ khiêm tốn thật chất là như thế nào thì chúng ta cần đi giải nghĩa khiêm tốn có nghĩa là gì?. Khiêm tốn là trước nhất là sự khiêm nhường, sau là sự không tự đề cao bản thân mình. Người sống khiêm tốn luôn biết ý thức, có thái độ đúng đắn và không tự đánh giá cao bản thân mình. Họ còn là những người không khoe khoang, không tự đề cao, hay kiêu căng, tự phụ. Những người có đức tính khiêm tốn luôn luôn không ngừng học hỏi, trau dồi kĩ năng, kiến thức qua những lời khen, lời ca ngợi. Họ xem đó là những động lực để tiếp tục phát triển, định vị bản thân mình, hoàn thiện mình và ngày càng ngày càng tốt hơn nữa. Khiêm tốn đối lập với tự cao, những người khiêm tốn luôn cho thấy thái độ nhún nhường, hòa nhã khi ứng xử với mọi người, đồng thời không tự thấy thỏa mãn với những gì mình đạt được mà luôn luôn cố gắng và phấn đấu để tốt hơn.
Biểu hiện cho lòng khiêm tốn thì có rất nhiều, nhất là phải kể đến Bác Hồ – Người lãnh tụ cao cả, Người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam; và Nhà Bác học vĩ đại cống hiến cả cuộc đời của mình cho những sự nghiên cứu khoa học – Einstein.
Albert Einstein đã từng nói: “Tôi chỉ là một người bình thường như bao người khác thôi, cũng sống và làm công việc mình yêu thích, sao lại gọi tôi là người nổi tiếng?“. Sự đóng góp của ông là to lớn đối với nền khoa học nhân loại lúc bấy giờ. Và nó còn được lưu truyền đến mãi ngày sau, những thế hệ trẻ tương lai sau này.
“Như đỉnh non cao tự giấu hình
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh”
Đó là câu thơ mà Tố Hữu đã viết về lòng khiên tốn của Bác Hồ. Đức tính khiêm tốn của Bác luôn thể hiện một cách rõ nét. Bởi ai gặp Bác cũng đều có cảm nhận chung như vậy. Từ hành động, cử chỉ cho đến lời nói, nụ cười, đều thể hiện sự chân chất, chất phác, giản dị, bình thường nhưng vô cùng đánh kính, đáng quý trọng.
Những tấm gương về lòng khiêm tốn không thể bỏ qua hình tượng về chủ tịch của chúng ta. Từ một người bình thường đến là Chủ tịch của một đất nước, Bác luôn sống giản dị, bình dân, và luôn sống khiêm tốn, hòa nhã với mọi người. Chính vì lẽ đó mà ai cũng yêu quý Bác. Từ người già đến trẻ nhỏ, người tiền tuyến hay người hậu phương, người miền Nam, Trung hay Bắc, từ con trai cho đến con gái, ai ai Bác cũng đều đối xử công bằng như nhau, và luôn đối xử một cách khiêm tốn, biết chừng mực mà đối đãi, giúp mọi người cảm thấy dễ chịu khi làm việc, khi tiếp xúc với Bác.
Người công nhân hay người nông dân hay cả người giúp việc, Bác vẫn luôn giữ cho mình sự khiêm tốn, để chăm sóc mọi người được chu đáo, tận tình hơn. Bác dành những ngôi từ xưng hô như “cô”, “chú” đối với những người giúp việc để tạo sự thân mật, không có khoảng cách “tôi – tớ”, có như vậy, mọi người sẽ cố gắng dốc hết lòng để phục vụ Bác, hỗ trợ Bác trên con đường giải phóng Tổ quốc. Còn khi tiếp xúc với các vị nhân sĩ, trí thức, lúc tiếp chuyện Bác luôn có những từ mở đầu để thưa gửi để bắt đầu cuộc trò chuyện, Bác luôn giữ đúng mực, đúng lễ độ, đúng vai trò của mình, tạo thành một tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
“Miền Nam còn chưa được giải phóng, khi nào thống nhất đất nước xin Quốc hội ủy quyền cho đồng bào miền Nam được thay mặt Quốc hội trao tặng thì tôi xin nhận” đó là câu từ chối hết sức khiêm tốn khi Quốc hội đề nghị trao tặng Bác Huân chương Sao vàng – Huân chương cao quý nhất của Nhà nước.
Có một câu hỏi rất hay được đặt ra ở đức tính này, đó là: Tại sao cần phải có lòng khiêm tốn trong cuộc sống rộng lớn, vũ trụ bao la này? Chúng ta – những con người nhỏ bé – những hạt cát nhỏ nhoi và vô cùng vô cùng bình thường trên cõi đời này, hãy ví chúng ta như những hạt cát trên sa mạc rộng lớn chúng ta sẽ biết được bản thân mình nhỏ bé đến nhường nào.
Chúng ta chỉ là những con người hết sức bình thường, đều là những con người như nhau cả mà thôi, với một người bình thường, không bị dị tật thì chúng ta đều như nhau, đều cùng phát triển, và những năng lực cũng đều là như nhau, nhưng chỉ khác nhau ở chỗ những tài năng ấy, những năng lực ấy khi nào được bộc lộ, hay nó cứ mãi ngủ sâu, ngủ quên mà bản thân ta cũng quên kêu gọi.
Chính vì lẽ đó chúng ta không có bất cứ lý do gì mà có thể kiêu ngạo, có thể tự đề cao, tự đánh giá cao bản thân mình một cách quá mức. Ngày xưa, ông cha ta đã có câu nói rất hay để răn dạy con cháu: “núi cao còn có núi cao hơn, người tài còn có người tài hơn”, qua đó ông cha ta muốn răn dạy ta hãy sống thật khiêm tốn, bởi lẽ chúng ta không phải là duy nhất, không nên tự đề cao mình.
Trong cuộc sống hiện tại, khi công nghệ càng ngày càng phát triển, nhiều công ty kèm theo nhiều chức vụ ra đời, chính vì lẽ đó mà con người luôn đề cao danh tiếng, luôn xem trọng nó quá mức. Những đẳng cấp, những quyền lợi, thôi thúc chúng ta phải chiếm lấy, có bằng mọi giá để có được nó, bằng cách này hay cách khác, bằng sự nỗ lực của bản thân hay bằng sự nỗ lực của người khác mà chúng ta đi “cướp”.
Nếu chúng ta không có lòng khiêm tốn, sự khiêm nhường thì chỉ với một lời khen nhỏ thôi sẽ biến chúng ta thành những người kiêu căng, ngạo mạn, từ đó sẽ xuất hiện những bản tính xấu xa dẫn tới việc tranh giành, bêu xấu để đạt lợi ích, gây sự thù oán, chia rẽ giữa người với nhau, điều đó chẳng có gì hay ho tí nào.
“Một khiêm tốn bằng bốn tự kiêu”, câu nói ấy quả thật rất đúng đắn, và càng đúng đắn trong thời đại ngày nay, câu nói ấy dùng để chỉ những kẻ giả vờ khiêm tốn nhằm chuộc lợi, nâng cao giá t...

- Nhan đề của bài văn có tác dụng nêu lên vấn đề giải thích: Lòng khiêm tốn.
- Những câu ở dạng định nghĩa:
+ Lòng khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật.
+ Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người.
+ Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi.
+ ... con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người.
Cách giải thích:
+ Để giải thích về "lòng khiêm tốn", tác giả đã nêu ra những nhận định mang tính định nghĩa về lòng khiêm tốn, liệt kê các biểu hiện của lòng khiêm tốn, so sánh giữa người khiêm tốn và kẻ không khiêm tốn. Đây cũng chính là các cách giải thích.
+ Chỉ ra cái lợi của khiêm tốn - cái hại của không khiêm tốn, nguyên nhân của thói không khiêm tốn chính là nội dung giải thích.
Vậy giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ,... cần được giải thích, qua đó nâng cao nhận thức, bồi dưỡng trí tuệ, tình cảm cho con người. Để giải thích một vấn đề nào đó, người ta thường sử dụng cách nêu định nghĩa, liệt kê những biểu hiện, so sánh với các hiện tượng cùng loại khác, chỉ ra cái lợi, cái hại, nguyên nhân, hậu quả, cách phát huy hoặc ngăn ngừa,... Không nên dùng những cái khó hiểu hoặc không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu, cần hiểu.

1.Trong văn chương, một trong hai nguồn cảm hứng chủ đạo chảy xuyên suốt bao thế kỉ nay đó là cảm hứng yêu nước. Tình yêu quê hương đất nước như dã thấm vào máu thịt con người Việt, trở thành một phần tích cách rất đặc trưng và đáng tự hào. Hiểu và trân trọng điều này, Bác viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” nhằm khơi gợi nên tình yêu nước ẩn sâu trong trái tim mỗi người.
Lời đầu tiên, Bác khẳng định nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước và nêu ra một quý luật rất xứng đáng: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Bác so sánh tinh thần yêu nước nước vô hình ấy trở thành một thứ mạnh mẽ hữu hình đó là làn sóng mà mỗi khi làn sóng mạnh mẽ ấy nổi lên thì sẽ trở thành một lực lượng vượt qua mọi khó khăn, đánh bại những kẻ gây hại cho tổ quốc. Điều này chứng tỏ, Bác muốn khẳng định một điều rằng tinh thần yêu nước của nhân dân ta chính là vũ khí mạnh mẽ nhất có thể giúp nhân dân, đất nước vượt qua tất cả những gian khổ, thử thách mà dùng tất cả nhiệt huyết của mình để đánh đuổi quân bán nước và cướp nước, bảo vệ độc lập chủ quyền tổ quốc.
Bác đã khẳng định nhân dân Việt Nam ai cũng mang trong mình một lòng nồn nàn yêu nước và điều ấy đã trở thành một truyền thống, theo đó là những dẫn chứng vô cùng thuyết phục trong lịch sử và cả trong ngày nay. Đầu tiên là ở trong lịch sử, Người chỉ ra “những trang lịch sử vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,...”, đó là những “cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta”. Tuy nước ta là một nước nhỏ, mỗi lần có đại quân phương Bác xang xâm lược, ta đều yếu thế hơn mọi mặt nhưng lần nào ta cũng khiến cho thực dân phương Bắc phải tủi hổ rút lui bởi tinh thần yêu nước đã thôi thúc nhân dân nổi dậy, đoàn kết chiến đấu vì non sông tổ quốc.
Và “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước”, tinh thần yêu nước của đồng bào ta ngày nay không hề nhỏ. Những câu văn tiếp theo, Người liệt kê tất cả những đối tượng trong cuộc sống, từ cụ già đến em nhỏ, từ con trai đến con gái, từ Nam ra Bắc,… ai cũng có tình yêu nước và thể hiện tình yêu nước ấy bằng những hành động riêng rất đáng quý, đáng ngợi ca qua việc hăng hái đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bở cõi. Bác nói: “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”.
Ở đoạn văn cuối cùng, Bác khẳng định và định nghĩa lại một lần về tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Bác so sánh: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Bác đã khẳng định một điều rằng ai cũng có một tình cảm với quê hương đất nước chỉ là nó nằm dưới nhiều hình thức khác nhau, khi có chiến tranh nó trỗi dậy mãnh liệt, dễ nhận ra nhưng thời bình nó luôn ở sâu trong tim mỗi người, không phải lúc nào cũng bộc lộ nhưng lúc nào cũng tồn tại. Vì thế mỗi chúng ta đều phải có bổn phận “ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
Và trong thời đại ngày nay thanh niên phải luôn nhớ bộc lộ tình yêu nước của mình bằng việc rèn luyện, tu dưỡng cả tài năng lẫn đạo đức để góp phần xây dựng và đưa mảnh đất hình chữ S vươn tầm ra thế giới, sánh vai với các cường quốc năm châu.
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. Đó là câu nói in tạc vào lòng người nhất và tạo ra biết bao con sóng trong tâm khảm mỗi người, từ đó mà nhân dân mọi thời đại đều ý thức được trách nhiệm và bổn phận của bản thân trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.Karl Marx từng nói rằng: “ khiêm tốn bao nhiêu cũng chưa đủ, tự kiêu một chút cũng là nhiều” Qua câu nói ấy, chúng ta cũng hiểu được phần nào ý nghĩa và tầm quan trọng của lòng khiêm tốn trong cuộc sống. Ai cũng hiểu rằng khiêm tốn là đức tính tốt của con người, khiêm tốn còn là không tự mãn, khoe khoang năng lực của bản thân, thể hiện bản thân quá đà trướng đám đông. Hơn thế nữa, sự khiêm tốn là nhìn nhận , đánh giá năng lực của mình đúng mực. Có đôi lúc người ta hiểu về lòng khiêm tốn như vậy, nhưng thực chất , ít ai hiểu một cách sâu sắc về nó. Chúng ta cùng đặt câu hỏi vì sao chúng ta phải khiêm tốn? Các bạn sẽ trả lời như thế nào? Đối với cá nhân tôi, chúng ta cần có sự khiêm tốn.Vì lòng khiêm tốn giúp ta nhìn nhận bản thân, có được sự tự tin đúng mực và sự nhún nhường trong một hoàn cảnh hay tình huống cần thiết. Điều quan trọng là nhìn nhận bản thân mình giỏi ở lĩnh vực nào, thiếu sót ở đâu chứ không nên chăm chăm ngợi ca cái tài giỏi của bản thân mình. Và khi chúng ta khiêm tốn , tức ta học được cách cúi đầu, chỉ khi đó ta mới học hỏi được nhiều điều mới mẻ, những kiến thức phong phú và rèn luyện bản thân tốt hơn. Khi rèn luyện tốt bản thân thì lòng khiêm tốn giúp ta càng tiến bộ, sự kiêu ngạo sẽ lạc hậu. Nhiều người do tự cao tự đại mà tự mình sa vào vũng bùn thất bại. Người xưa cũng có câu:” khiêm tốn lợi ích, tự mãn tổn hại” . Chính điều đó đã minh chứng cho sự cần thiết của lòng khiêm tốn. Sau cùng lòng khiêm tốn giúp ta thành công. Vì trong vũ trụ này, tri thức là mênh mông vô hạn, chúng ta chỉ là một ngôi sao trên bầu trời tri thức vô vàn, ta cần khiêm tốn học tập mà tích lữu những tinh hoa của “vũ trụ tri thức” ấy.
#Hk_tốt
#Ken'z
Cũng như bao truyền thống khác, tinh thần yêu nước là một nét đặc sắc trong văn hóa lâu đời của nước ta, nó được thể hiện từ xưa đến nay và đi sâu vào từng hành động, ý nghĩ của mỗi con người. Từ xa xưa, những tinh thần yêu nước được được bộc lộ rõ nhất ở các tấm gương anh hùng như hai bà Trưng, bà triệu, Trần Hưng Đạo v.v... Nhưng đó là ở thời chiến tranh. Cũn bây giờ – thời bình - thời kì hiện đại hóa với những máy móc, dụng cụ đang ngày càng hữu dụng, thiết thực. Xã hội ngày một tiến lên, mọi thứ đã thay đổi nhiều, chỉ riêng tấm lòng yêu nước của mỗi cá nhân vẫn không bị mờ phai. Trong cuộc sống những tư tưởng, việc làm giúp phát triển kinh tế nước nhà phần nào là tinh thần yêu nước. Từ những người nông dân chân lấm tay bùn vẫn chất phác như ngày nào làm ra hạt lúa, hạt gạo phục vụ nông nghiệp, đời sống mỗi cá nhân. Hay những người bác sĩ tận tình giúp đỡ bệnh nhân, đó cũng là cử chỉ của tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương đồng loại, nói rộng hơn đó chính là tinh thần yêu nước. Những nhà chính trị học, bác học, thành quả của họ cũng bởi tinh thần yêu nước mà ra. Thậm chí mỗi một hành động nhỏ cũng là một phần đóng góp cho tư tưởng cao đẹp ấy. Ý thức của mỗi con người là điều được bộc lộ rõ nhất. Không vứt rác bừa bãi, giữ gìn môi trường xanh sạch đẹp, chăm sóc cây cối tốt tươi làm trong lành bầu khí quyển. Đó là cử chỉ cao đẹp cũng bởi mầm mống từ lòng yêu nước. Từ người già đến trẻ nhỏ đều truyền thụ cho nhau hiểu và làm theo đức tính ấy. Lòng nồng nàn yêu nước được thể hiện không phải bằng lời nói mà bằng những hành động đã giúp ích cho đất nước. Những đợt hưởng ứng phong trào như chống nạn ma tuý, tuyên truyền giữ gìn môi trường, tránh xa tệ nạn xã hội, học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chớ Minh. Đó chẳng phải là tinh thần yêu nước sao! Hay đài báo, ti vi cũng đề cao vấn đề đóng góp, cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, ủng hộ người nghèo. Những chương trình tìm hiểu đất nước, lịch sử để hiểu biết, bảo vệ giữ gìn phát huy những di sản văn hóa đa chiều của đất nước. Tất cả, tất cả cũng vì cái lí tưởng cao đẹp ấy cả. Cụ thể nhất là những người lính ngoài biên giới, hải đảo phải hi sinh hạnh phúc, xa người thân để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn vùng trời bình yên. Chính tinh thần yêu nước đã thúc giục họ. Đó là động lực đồng thời cũng là mục tiêu, niềm khởi hứng, sự hạnh phỳc đối với họ khi được bảo vệ non sông thân yêu, giữ gìn tinh thần yêu nước. Lòng yêu nước là yêu tất cả những gì tốt đẹp, yêu thiên nhiên muôn hình vạn trạng, yêu bầu trời trong xanh, yêu đàn chim bay lượn, yêu cả những dòng sông thân thương hay gần gũi nữa là yêu những chiếc lá mỏng manh. Nói cho cùng thì tinh thần yêu nước nó xuất phát từ ý chí, sự quyết tâm phấn đấu, xây dựng Tổ quốc, tình yêu thương và cả niềm hi vọng. Tinh thần yêu nước bao gồm cả nhiều tình yêu khác: tình yêu gia đình, quê hương, tình yêu con người. Nó được bộc lộ ở mọi lúc mọi nơi, mọi cá nhân, bất cứ nơi nào có người dân Việt Nam sống thì đó sẽ mãi là mầm mống, là chồi non của tinh thần yêu nước Việt Nam. Và đó cũng sẽ không phải là lí tưởng của mình dân tộc Việt Nam mà còn rất nhiều nước khác, lí tưởng ấy luôn đi đầu.

2) Luận điểm: Là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức câu khẳng định hay phủ định, thường có các từ là, có, không thể, chẳng hạn…được diễn đạt dễ hiểu, sáng tỏ và nhất quán. Luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn thành một khối. Để có sức thuyết phục, luận điểm cần phải đúng đắn, chân thực và đáp ứng nhu cầu thực tế. Trong một bài văn nghị luận, luận điểm có thể có các cấp độ khác nhau. Tùy nội dung vấn đề và cách lập luận của người viết mà bài văn có thể có một luận điểm chính, luận điểm trung tâm và các luận điểm phụ. Việc xác định được hệ thống, các cấp độ của luận điểm trong văn bản là một yêu cầu cấp thiết chứng tỏ khả năng thâu tóm, hiểu sâu vấn đề à kỹ năng tư duy logic của người đọc. Luận cứ: Luận cứ cũng là một yếu tố không thể thiếu khi nhắc tới đặc điểm của văn nghị luận. Luận cứ là những lí lẽ, dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm. Để bài viết có sức thuyết phục cao, người viết phải đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng để người đọc tin vào vấn đề người viết nêu ra. Lí lẽ là những đạo lí, lí lẽ phải được thừa nhận, nêu ra là được đồng tình. Dẫn chứng là sự vật, sự việc, nhân chứng, bằng chứng để chứng minh làm sáng tỏ, xác nhận cho luận điểm. Dẫn chứng đưa ra phải xác thực, tiêu biểu, đáng tin và không thể bác bỏ. Lí lẽ và dẫn chứng phải đáng tin cậy mới làm cho luận cứ vững chắc. Luận cứ phải chân thực, đúng đắn, tiêu biểu mới làm cho luận điểm có sức thuyết phục. Trong quá trình tìm hiểu văn bản nghị luận, để tìm hiểu, phân tích đánh giá được tính đúng đắn của luận điểm thì việc phân tích luận cứ là một thao tác hết sức quan trọng và cần thiết. Lập luận: Nếu như lí lẽ của bài văn nghị luận thể hiện ở hệ thống luận điểm thì lập luận là cách thức trình bày lí lẽ. Nên đặc điểm của văn nghị luận là Lập luận Lập luận: là cách tổ chức vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục. Lập luận bao gồm các cách suy lý, quy nạp, diễn dịch, so sánh, phân tích, tổng hợp sao cho luận điểm đưa ra là hợp lý, không thể bác bỏ. Lập luận có ở khắp trong bài văn nghị luận. Để đánh giá cái hay, sức thuyết phục của văn bản nghị luận cần phải phân tích, đánh giá, chứng minh được mức độ chặt chẽ sắc bén của lập luận và sự hợp lí của cách thức lập luận mà tác giả lựa chọn. Nghệ thuật lập luận phụ thuộc rất nhiều vào cách nêu vấn đề, cách dẫn dắt người đọc, người nghe với nhiều thủ pháp như so sánh, đối chiếu, đưa số liệu, nêu dẫn chứng thực tế… Nghệ thuật lập luận còn phụ thuộc vào cách hành văn, giọng văn, cách dùng từ, đặt câu. Do nhu cầu lập luận, trong văn nghị luận thường phải dùng đến những từ như: tuy nhiên, giả sử, nếu như, tóm lại, nói chung…gọi là hệ thống từ lập luận
4) A. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận, trích dẫn nguyên văn câu nói, câu danh ngôn...
B. Thân bài:
Ý 1: Giải thích rõ nội dung(giải thích các từ ngữ, khái niệm).
Ý 2: Phân tích các mặt đúng về vấn đề giải thích (dùng dẫn chứng trong lịch sử, văn học, cuộc sống để chứng minh).
Ý 3: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan tới vấn đề giải thích (dùng dẫn chứng trong lịch sử, văn học, cuộc sống để chứng minh).
Ý 4: Đánh giá ý nghĩa (ngợi ca, phê phán)
C. Kết bài: - Khái quát lại vấn đề NL.
- Rút ra bài học nhận thức, hành động cho bản thân, cho mọi người

1
trong đời sống :
-Giải thích giúp ta hiểu những điều chưa biết trong mọi lĩnh vực
-Muốn giải thích được thì cần phải có các tri thức khoa học ; chuẩn xác về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống
Trong văn nghị luận :
- Giải thích làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng ; đạo lí ; phẩm chất ; quan hệ ;... cần được giải thích
-Nhằm nâng cao nhận thức ; trí tuệ ; bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho con người
2. Có 4 bước làm một bài văn lập luận giải thích:
B1:Tìm hiểu đề ; tìm ý
B2:lập dàn bài
B3:viết bài
B4:đọc lại và sửa chữa
3. Hãy nêu dàn ý chung để làm một đề văn lập luận giải thích.
MB:-Nêu luận điểm cần giải thích
- Trích dẫn câu tục ngữ ; ca dao ; châm ngôn ;... ( nếu có)
TB: giải thích nghĩa của câu ca dao ; châm ngôn (nếu có) theo trình tự sau :
nghĩa của từ nghĩa cụm từ nghĩa của cả câu => nghĩa bóng => nghĩa sâu
-Nêu lí lẽ chứng minh luận điểm
-Nêu dẫn chứng chứng minh luận điểm
Lưu ý : dẫn chứng không được lấn lướt luận điểm
KB: Khẳng định lại luận điểm , rút ra bài học cho bản thân
II bài tập :
bài 1 :
Vấn đề được giải thích : Lòng nhân đạo
phương pháp giải thích:
+ Nêu định nghĩa
+Nêu các biểu hiện
+So sánh ; đối chiếu với các hiện tượng ; vấn đề khác
+ Chỉ ra nguyên nhân ; mặt lợi ; ý nghĩa ; cách noi theo

Bố cục
- Mở bài: từ Dân ta đến lũ cướp nước: Nêu vấn đề nghị luận Tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của nhân dân ta.
+ Nêu đề tài và luận đề ở câu mở đầu “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.
+ Tác giả chỉ dùng lí lẽ, giúp người đọc tập trung vào vấn đề, trực tiếp, nhanh gọn.
- Thân bài: Lịch sử ta đến lòng nồng nàn yêu nước: Chứng minh tinh thần yêu nước trong lịch sử và hiện tại.
Tác giả dùng những dẫn chứng tiêu biểu. Cách nêu dẫn chứng rành mạch, sáng tỏ.
+ Nêu ngắn gọn những trang sử anh hùng, sáng ngời tinh thần yêu nước của tổ tiên ta.
+ Dẫn chứng về con người và sự việc tiêu biểu của nhân dân trong thời kì kháng chiến bấy giờ.
-> Phần này có ý nghĩa giáo dục, thuyết phục thiết thực nên tư liệu, từ ngữ, câu văn nhiều hơn, dài hơn.
=> Phần này đúng kiểu nghị luận chứng minh.
- Kết bài: phần còn lại: Nhiệm vụ của Đảng ta trong việc phát huy tinh thần yêu nước đó.
+ Phần này có nhiệm vụ nhắc nhở hành động.
=> Tác giả chỉ dùng lí lẽ ngắn gọn, giúp người đọc, người nghe hiểu sâu vấn đề và làm theo.
=> Bố cục rõ ràng, chặt chẽ.

'Lá lành đùm lá rách' là một câu tục ngữ được nhiều người nhắc đến khi nói về lòng nhân đạo. Câu tục ngữ này nhắc nhở chúng ta: Sống, phải biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau để cuộc sống tràn đầy tình thương và tươi đẹp hơn.
Lòng nhân đạo không phải là một thứ gì đó trìu tượng, xa vời mà chỉ đơn giản là những lời nói ấm áp dành cho nhau, một cái ôm thật chặt khi buồn bã hoặc chỉ cần một người chân thành ở bên cạnh khi cuộc sống của mình gặp khó khăn.. Những hành động, tình cảm ấy xuất phát từ trái tim của mỗi con 'Người'. Lòng nhân đạo còn giúp những người sai lầm trở lại con đường đúng đắn; giúp đỡ những người gặp khó khăn khiến tình cảm thiêng liêng giữa người với người càng thêm gắn kết.
Gần gũi nhất là trong gia đình: Đó chính là sự tôn trọng, kính trọng, yêu thương lẫn nhau; con cháu lễ phép với ông bà, cha mẹ; ông bà, cha mẹ lại chỉ dạy, chăm sóc con cháu.. Rộng hơn nữa chính là xã hội: Quyên góp tiền ủng hộ cho những bệnh viện, những người nghèo khó.. yêu thương, bảo vệ lẫn nhau.
Từ những việc làm trên, những người được giúp đỡ sẽ cảm thấy vui vẻ và rất biết ơn mình; còn đối với bản thân mình khi giúp đỡ người khác sẽ cảm thấy rất là thanh thản, trưởng thành hơn và đặc biệt hơn cả là không chỉ mình mà cả mọi người xung quanh cũng tự hào về mình. Tóm lại, giá trị của lòng nhân đạo rất quan trọng, đó là giá trị của lòng yêu thương, sự kính trọng, sự cảm thông, sẻ chia...
Liệu có phải tất cả mọi người đều có lòng nhân đạo? Không! Không phải vậy! Có rất nhiều người vô cảm với những mảnh đời bất hạnh, ngược đãi họ. Xã hội hiện đại khiến nhiều người chạy theo đồng tiền, vì những đồng tiền ấy mà họ lợi dụng, 'dẫm đạp' lên nhau để có lợi về mình nhiều nhất. Chính vì những kẻ này mà khiếm rất nhiều người không tin vào người khác, tình cảm thiêng liêng giữa người với người ngày càng phai nhạt và biến mất.
Lòng nhân đạo- một đức tính không thể thiếu, một thước đo phẩm chất của mỗi con người. Chúng ta nên mở rộng lòng thương người, chia sẻ, cảm thông cho nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn.
TK#
Người Việt Nam ta từ xa xưa đã có câu tục ngữ "Thương người như thể thương thân" hay "Lá lành đùm lá rách", đó là những lời răn dạy của cha ông muốn nhắc nhở con cháu phải biết yêu thương lẫn nhau. Tương thân tương ái hay chính là lòng nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta bao đời nay, lòng nhân ái là một trong những biểu hiện tình cảm tốt đẹp. Nó gắn kết con người gần với nhau hơn, tạo dựng những mối quan hệ xã hội bền vững.
Lòng nhân ái, thực ra không phải thứ tình cảm gì đó xa xỉ mà đó chính là những tình cảm được xuất phát từ trái tim một cách chân thành nhất. Lòng nhân ái là sự cho đi mà không cần so đo tính toán thiệt hơn, cũng không mong cầu sẽ được nhận lại, lòng nhân ái đơn giản là những hành động chia sẻ, giúp đỡ và cảm thông lẫn nhau. Lòng nhân ái là biểu hiện của một nhân cách và tâm hồn cao đẹp, đức hạnh của mỗi người, "nhân" là "người", "ái" là "yêu thương", "nhân ái" chính là tình yêu thương giữa những con người với nhau. Lòng nhân ái luôn có sẵn trong tâm hồn mỗi con người, có chăng là chúng ta đã đánh thức nó dậy hay chưa mà thôi, ai cũng có thể có lòng nhân ái và ai cũng có thể trao đi lòng nhân ái đó dành cho mọi người xung quanh. Không cần phải là những việc làm to tát, lòng nhân ái hiện diện xung quanh cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Từng lời nói, cử chỉ, hành động và biểu hiện của chúng ta đều có thể là công cụ trao đi lòng nhân ái tới mọi người, đơn giản như giúp đỡ người già đi bộ qua đường lúc đèn đỏ, giúp người hỏng xe giữa đường, cho người khác đi nhờ xe,... đó là một số trong vô vàn những sự việc diễn ra hàng ngày. Trên phạm vi rộng hơn, lòng nhân ái là khi giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn như xây nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào vùng thiên tai, lũ lụt, xây dựng trường học cho các em vùng sâu vùng xa... Đó là những chương trình, hành động rất thiết thực mà rất nhiều những cơ quan, tổ chức và Nhà nước ta đã và đang thực thi, tất cả vì mục đích trao đi yêu thương, giúp đỡ và sẻ chia mang niềm vui hạnh phúc đến những số phận kém may mắn. Lòng nhân ái giữa đồng bào với nhau chính là sức mạnh giúp đất nước ta trải qua biết bao cuộc chiến tranh, là nền tảng vững chắc đưa nước ta hiên ngang tiến bước sánh vai với các cường quốc năm châu. Con người có sự gắn kết và yêu thương lẫn nhau sẽ tạo nên một khối đoàn kết dân tộc vững mạnh và sẽ không có kẻ thù nào có thể xâm phạm tới.
Tuy nhiên, xã hội vẫn tồn tại những người không có lòng nhân ái, họ chỉ sống cho riêng cá nhân mình, mọi việc làm, suy nghĩ và hành động chỉ cốt lấy lợi ích cho bản thân mà không quan tâm đến người khác. Không những không giúp đỡ những người xung quanh mà còn nhẫn tâm đẩy người khó khăn vào hoàn cảnh bi kịch. Ví dụ điển hình nhất là những tổ chức cho vay tín dụng đen, chúng lợi dụng sự kém hiểu biết và hoàn cảnh của người khó khăn để mời vay tiền rồi lừa họ vay với mức lãi suất cao ngất ngưởng, phi pháp khiến cho con nợ đã khó khăn càng thêm chật vật, thậm chí khi không có đủ khả năng chi trả, chúng lại gây áp lực, siết nợ, dồn con nợ tới đường cùng. Đó là một trong những biểu hiện của sự vô nhân đạo, trái ngược hoàn toàn với lòng nhân ái, ngoài ra còn nhiều biểu hiện khác như sự vô tâm, vô cảm và thờ ơ giữa những con người với nhau. Con người không có lòng nhân ái chỉ là người nhỏ nhen, ích kỷ và vô tâm, đi ngược lại với nhân cách con người. Một xã hội chỉ toàn những người không có lòng nhân ái, xã hội đó sẽ luôn xảy ra mâu thuẫn, bất hòa và xung đột, không thể tồn tại lâu dài chứ chưa nói đến việc phát triển. Vì vậy, dù là một hành động nhỏ thôi, chúng ta hãy cùng trao đi lòng nhân ái của mình, đem lòng nhân ái của mình lan tỏa và lay động đến mọi người, cùng nhau sống trong yêu thương, xây dựng xã hội văn minh và phát triển bền vững.
Trong xã hội hiện nay, khi người với người có quá nhiều rào cản để bày tỏ tình cảm và trao đi yêu thương lẫn nhau thì lòng nhân ái chính là điều quan trọng và quý giá nhất để gắn kết cộng đồng. Đất nước ta còn đang trong quá trình phát triển, còn nhiều khó khăn chồng chất, gìn giữ và phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc chính là củng cố sức mạnh cho khối đại đoàn kết dân tộc trước các thế lực thù địch bên ngoài.