Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
em có thể tham khảo:
Qua lời nói chuyện với đứa con, người cha thể hiện tình cảm, suy nghĩ với quê hương, dân tộc
- Cuộc sống lao động cần cù tươi vui của người đồng mình được nhà thơ gọi lên qua những hình ảnh đẹp:
+ Đan lờ: dụng cụ đánh bắt cá của người miền núi
+ Cuộc sống hòa với niềm vui
+ Rừng núi quê hương thật mơ mộng và nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống
+ Người cha muốn cho đứa con biết quê hương là vùng quê giàu truyền thống văn hóa, nghĩa tình
+ Người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ, mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của quê hương
+ Khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: chăm chỉ, kiên cường, giản dị…
→ Người cha thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với quê hương, người đồng minh.
bạn tham khảo những ý như sau:
Qua lời nói chuyện với đứa con, người cha thể hiện tình cảm, suy nghĩ với quê hương, dân tộc
- Cuộc sống lao động cần cù tươi vui của người đồng mình được nhà thơ gọi lên qua những hình ảnh đẹp:
+ Đan lờ: dụng cụ đánh bắt cá của người miền núi
+ Cuộc sống hòa với niềm vui
+ Rừng núi quê hương thật mơ mộng và nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống
+ Người cha muốn cho đứa con biết quê hương là vùng quê giàu truyền thống văn hóa, nghĩa tình
+ Người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ, mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của quê hương
+ Khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: chăm chỉ, kiên cường, giản dị…
→ Người cha thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với quê hương, người đồng mình
THAM KHẢO
V
Cùng mạch chủ đề này, nhà thơ người dân tộc Tày - Y Phương cũng có bài thơ “ Nói với con”. Mượn lời của người cha nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình. II/ THÂN BÀI: Mở đầu bài thơ là một khung cảnh gia đình ấm cúng đầy ắp tiếng nói tiếng cười:Tham khảo:
Ngô Thế Vinh cho rằng: “Lời là tiếng nói của con tim, văn chương là cái làm cho lời dài thêm vậy”. Tức thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nơi ký thác những tâm sự, những nỗi niềm của trái tim thi nhân. Từ ấy, mỗi khi ngâm khẽ tiếng thơ ta luôn giác ngộ được đâu đây một lời nhắn nhủ chân thành của chính người viết dành cho ai đó, cho nhân sinh và cho cả cuộc đời. Ngược dòng thời gian trở về với địa hạt thơ ca năm 1980, có một thi phẩm đặc sắc đã ra đời, đó là "Nói với con" của Y Phương. Bài thơ là một khúc nhạc đan xen nhiều cung bậc, vừa mộc mạc, nhẹ nhàng vừa hàm súc, cô đọng, vừa thủ thỉ tâm tình, vừa triết lý sâu xa. Y Phương đã gợi nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi sinh linh trên cõi đời này, về vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình.
Y Phương là một ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày, vừa đậm đà bản sắc “người đồng mình", vừa rộng mở, giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành con sông văn chương Việt Nam. Nhà thơ Y Phương vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, in trong "Thơ Việt Nam 1945 - 1985". Thi phẩm là lời tâm sự của ông với đứa con gái đầu lòng, cũng là lời tâm sự với chính ông. Ngòi bút Y Phương đã khơi gợi trong lòng độc giả những xúc cảm dạt dào khi hướng về cội nguồn, về gia đình, về mảnh đất mình sinh ra và vẻ đẹp của những con người nơi ấy.
Thi phẩm mở ra với khúc nhạc dạo đầu gợi lên hình ảnh một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, ngọt ngào yêu thương:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói”
Hai bước tới tiếng cười" Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh đối xứng "chân phải - chân trái", một bước - hai bước", "tiếng nói - tiếng cười", "cha - mẹ". Bốn câu thơ dùng với 15 thanh trắc, như 15 phím đàn tấu nên những âm điệu gân guốc. Ngâm khẽ tiếng thơ, bất chợt ta mường tượng đến cảnh đứa trẻ chập chững đi những bước đầu đời, vấp ngã, òa khóc rồi lại khúc khích đứng lên trong vòng tay chở che dìu dắt, trong ánh nhìn trìu mến của song thân. Bên phải con là "tình cha ấm áp như vầng thái dương", bên trái con là "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", con bước đi trong vòng tay chăm chút, trong niềm mừng vui đón nhận của gia đình. Mẹ cha cẩn thận đếm từng bước đi của con “một bước”, “hai bước” với hết thảy những nâng niu, trong chờ, dõi theo từng cử chỉ, từng bước chân bé nhỏ.Thước phim được chuyển đến cảnh đứa bé bi bo tiếng "cha", tiếng "mẹ" ngọng nghịu trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và cảm xúc vỡ òa của mẹ cha. Con như sứ giả của hạnh phúc mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia đình mình, biết bao lo toan, mệt nhọc của cha mẹ đều vượt qua được là nhờ vào "tiếng nói", "tiếng cười" của con. Là một thi sĩ từng đi lính âm hưởng, trong thơ của Y Phương còn vang lên những tiếng "một - hai", "một bước - hai bước" như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ cứ thế vấn vương, khơi gợi trong "ốc đảo" tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều tâm niệm của người cha: gia đình là cội nguồn sự sống là chốn bình yên luôn yêu thương con vô điều kiện, luôn đón chào, ôm ấp con.
Gia đình trao cho con sinh mạng, và con lớn lên, trưởng thành còn nhờ vào cuộc sống lao động, văn hoá của người làng mình, nhờ quê hương thơ mộng và thiên nhiên sâu nặng nghĩa tình:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Với tình cảm tha thiết, chân thành, Y Phương đã nhắc đến "Người đồng mình" qua câu thơ chan chứa âm điệu trìu mến, kết đọng trong một từ "yêu". "Yêu" ấy là gắn bó, là cảm mến và tự hào. Các động từ "đan, cài, ken" nối tiếp nhau gợi đến quá trình lao động miệt mài, tỉ mỉ. Người đồng mình lao động với bản chất khéo léo, với đôi bàn tay cần mẫn đan những nan tre, nan nứa để chiếc lờ - một dụng cụ đánh bắt cá bình thường cũng mang dáng hình của “nan hoa”. Phải chăng "nan hoa" mà tác giả nhắc đến còn phúng dụ cho sự "đom hoa kết trái", những thành quả của tháng ngày hăng say làm việc. Vách nhà của người Tày không chỉ được ken bằng ván gỗ mà còn bằng cả câu ca, tiếng hát hồn nhiên, vui tươi. Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày ngất lịm phía sau lưng đồi, họ quay quần bên nhau trong một ngôi nhà rộng để cùng hát ca, nhảy múa, để cuộc sống thêm tràn ngập niềm vui. Lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát” còn ẩn chứa một nét văn hóa phi vật thể của người dân tộc. “Vách nhà” là chứng nhân cho tình yêu lứa đôi. Những đêm trăng sáng lở lửng trên đỉnh đầu, người con trai ngồi ngoài vách, người con gái ở bên trong vách. Họ cùng nhau tâm sự những vui buồn của cuộc sống, hát cho nhau nghe những bản tình ca tuổi trẻ, hát tràn đêm đến sáng bạch. Từ những câu hát ấy, tình yêu được kết tinh, nghĩa vợ chồng son sắt được hình thành.
Khi viết về quê hương, nếu nhà thơ Tế Hanh nhớ về dòng sông quê xanh biếc "nước gương trong soi tóc những hàng tre" thì Y Phương thì lại viết về núi rừng và những con đường nghĩa tình. Rừng cho hương sắc của hoa, rừng che chở, cung cấp nguồn nhựa sống dồi dào và duy trì sinh kế cho người dân tộc. Với người dân chài:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Còn với người dân Tày, những cánh rừng hoa ban trắng xòe tinh khôi hay hồng tím nhẹ nhàng đã làm đẹp cho cuộc đời và dạy cho họ biết yêu quý thiên nhiên. Dường như tất cả những gì tinh túy, đẹp nhất mẹ thiên nhiên đều ưu ái ban tặng cho con người. Không phụ tấm lòng thiên nhiên, người đồng mình đã sống hòa mình gắn bó và trân quý rừng thiêng sông núi. "Con đường" cũng mở rộng vòng tay chào đón những đứa con về với làng, với bản, đón chào "những tâm hồn" đôn hậu, bình dị, hồn nhiên, vô tư. Nhờ nó mà con người có thể đến gần với nhau. Vì thế, con đường là sợi chỉ đỏ kết nối tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ. Hình ảnh “ngày cưới” là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ngày cưới - ngày mà lời ca của cha mẹ trong những đêm trăng tròn đã tạo nên tình yêu trọn vẹn. Ngày cưới - ngày khởi đầu ngày đặt nền móng cho hạnh phúc gia đình. Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ muốn con biết chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn dò con về quê hương ,về “người đồng mình", nhà thơ “chắt” vào con ý thức nhân sinh đẹp đẽ, đó là tình yêu quê hương, bản quán.
Thi sĩ đã nâng nâng niu, ôm ấp và thổi vào hồn thơ vẻ đẹp phẩm chất của người dân Tày:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Mỗi lần nhắc đến "người đồng mình", trái tim Y Phương lại thổn thức cất tiếng "yêu lắm" và "thương lắm". Thứ tình cảm ấy cứ tha thiết chân thành, ngân dài bất diệt trong xuyên suốt một bài thơ và cả một đời thơ. Có lẽ từ "thương" mang trong mình một cung bậc cảm xúc da diết, trìu mến hơn "yêu". “Thương” ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nghẹn ngào, xót xa. Hình ảnh sóng đôi "nỗi buồn - chí lớn" phúng dụ cho phẩm tính của người dân Tày. "Nỗi buồn" gợi đến đời sống tâm hồn rộng mở của người đồng mình được dựng xây từ những nỗi niềm trầm tư. Còn "chí lớn" là ý chí quật khởi, khát vọng sống mãnh liệt. Bằng lối tư duy hình tượng độc đáo, tác giả đã lấy thước đo vô cùng, vô tận của không gian để thể hiện tầm kích tình cảm, chí hướng của con người. Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình vẫn còn đó những nỗi buồn thầm kín, những nỗi lo mưu sinh, cơm áo gạo tiền. Song, họ sẽ vượt qua tất cả như hoa hướng dương vươn mình chiêm ngưỡng cuộc đời, bởi trong họ luôn thường trực ý chí và nghị lực cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người đồng mình dù phải oằn mình trong nghèo khổ, gian nan thì tình cảm thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn vẫn mãi vẹn nguyên vẹn toàn:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung
nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh”
Không lo cực nhọc" Ba chữ “dẫu làm sao” đặt ở đầu câu thơ làm nhịp thơ thoáng chốc ngập ngừng. "Dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có “vạn biến” khó lường, "cha vẫn muốn" con giữ được tâm thế “bất biến”, không được quên cội nguồn sinh dưỡng. Có lẽ cõi lòng người cha chứa đầy những dự cảm, đau đáu, lo âu về cái thời kỳ mà "cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc". Và nối tiếp dự cảm là khao khát, là lời nhắc nhở con cũng như căn dặn chính mình phải biết tự hào, gìn giữ và lưu truyền nếp sống ngàn đời của tổ tiên. Điệp từ “sống”, điệp cấu trúc cùng các hình ảnh "sống trên đá, sống trong thung" gợi lên cuộc sống đầy những gam màu lao lực, gian khổ. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" tạo nhịp vận động không ổn định như chính cuộc sống bấp bênh của những người con bản làng thấm đẫm mồ hôi trên từng thửa ruộng. Có những kiếp người "dầm chân trong đời nghèo”, triền miên trong nỗi bâng khuâng "quê tôi còn nghèo lắm" (Tiếng hát tháng giêng) nhưng họ vẫn "không chê" đá, nghĩa là không chê mảnh đất nghĩa nặng tình sâu. "Không chê" thung, nghĩa là không chê cuộc sống lam lũ, nghèo khổ và "không lo", không ngại nhọc nhằn, thiếu thốn. Với sự lạc quan, nghị lực cùng tình yêu xứ sở, đồng bào nơi đây tìm mọi cách để thích nghi và vươn lên cái khắc nghiệt, để ươm mầm hạnh phúc và hy vọng. Một lòng dành trọn tâm tư cho quê hương, nhà thơ Y Phương vẫn giữ nguyên vẹn những "rung động bằng trái tim suối nguồn và suy tư bằng sừng sững đá”. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi đến sức sống bền bỉ, sống giao hòa với thiên nhiên bốn bề. Người đồng mình sống với tâm hồn tràn đầy sinh lực, rộng mở, lãng mạn và khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ tựa như dòng sông trong veo và ngọt lành đã tưới mát những tâm hồn lạc lõng giữa muôn trùng nỗi buồn. Tiếng thác suối thì thầm vang vọng, mang theo cả bóng dáng quê hương khắc tạc vào linh hồn người Tày, giúp họ thêm kiên định "sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã ngợi ca nét đẹp tự lập từ cường và tinh thần tự tôn dân tộc của người đồng mình:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”
Tác giả đã gặt hái được thành công nhờ hình ảnh đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong. Người miền núi bàn tay chai sạn, da thịt thô ráp, và chính sự "thô sơ da thịt" ấy đã tạo cho người Tày một nét đẹp chất phác, thật thà. Song, người quê mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Bởi trong họ, ý chí nghị lực đã thấm nhuần máu xương, cốt cách tự tôn đã ăn sâu da thịt và niềm tin, niềm kiêu hãnh chưa bao giờ vơi cạn. Giản dị, hồn hậu mà mạnh mẽ, kiên gan đã trở thành phẩm chất ngàn đời của người miền núi. Hình ảnh "tự đục đá" gợi về một nét văn hóa gắn liền với cuộc sống của "người đồng mình". Đó là việc họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm nên những lối đi nghĩa tình... Sự liên hoàn của ba thanh trắc " tự - đục - đá" tạo nên thứ âm điệu trúc trắc nhằm tái hiện nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Sự liên hoàn của các thanh bằng “kê - cao - quê - hương” lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh mang đất trời. Bằng chính đôi bàn tay khéo léo cùng tinh thần tự lực tự cường, họ đã xây đắp và nâng đỡ quê hương thăng hoa trên những nấc thang phát triển. Âm điệu chuyển từ trúc trắc đến nhẹ nhàng tựa như một thước phim về hành trình của quê hương từ thuở “khai thiên lập địa” đầy khó nhọc, nặng nề đến khi ung dung, khoan khoái đứng vững trên những “gập ghềnh” của đá. Chính cuộc hành trình phảng phất những giọt mồ hôi, nước mắt ấy đã làm nên truyền thống, làm nên phong tục cho mảnh đất quê hương. Và những truyền thống tốt đẹp của bản quán là nền tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc để từ đó ta được lớn lên, được trưởng thành, được "sống đàng hoàng như một con người".
Bốn câu thơ ngắn dài đan xen ở cuối thi phẩm vừa khép lại "khúc nhạc đàn tính" - Nói với con, vừa khơi gợi trong lòng người đọc biết bao suy tư về lời thủ thỉ thiết tha, chân tình của Y Phương dành cho con:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được”
“Nghe con” tiếng gọi “con ơi” được lặp đi lặp lại trong bài thơ như chan chứa niềm mong mỏi rằng lời dạy của cha sẽ mãi bên con, cùng con vượt qua sự đời "thương hải tang điền". Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” một lần nữa được xướng lên càng trở nên da diết, sâu sắc hơn. Có lẽ dụng ý của nhà thơ là muốn mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của thôn làng đơn sơ để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương, khắc sâu trong con những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Rồi một mai này đây, con chẳng còn chập chững những bước đi đầu đời, con bắt đầu khăn gói "lên đường", va vấp với xã hội ngoài kia. Rồi một mai này đây, cha thấy bóng lưng đứa trẻ năm nào đang rảo bước trên con đường đời, con đường của chân trời mới, con đường dẫn đến thế giới của "người trưởng thành". Mong rằng khi ấy, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được "ôn nghèo kể khổ", yếu mềm buông xuôi trước những thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con” như một lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ được nuôi nấng trong tình thương của buôn làng. Hãy nhớ rằng gia đình và quê hương luôn dõi mắt theo những bước chân của con như một người cha, luôn dang rộng vòng tay ôm con vào lòng như một người mẹ, để chữa lành những vết xước trong con, để con có thêm dũng khí, sức mạnh và niềm tin. Bởi vậy, con hãy sống sao cho xứng đáng với truyền thống của quê hương, với cái nôi linh thiêng của mình.
Bài thơ có bố cục chặt chẽ, phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo. Hình ảnh đối xứng, mộc mạc giàu liên tưởng. Thi phẩm còn là sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy hình tượng của người dân tộc và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại. Chất miền núi thấm sâu, lan tỏa trên từng câu thơ song hành cùng giọng điệu thiết tha trìu mến như đã góp phần làm sáng toả, nổi bật lên những lời thủ thỉ, tâm tình mà "Nói với con" muốn truyền tải. Nhà thơ Y Phương đã chọn cách sáng tạo thơ rất nhạy bén, sâu sắc, tinh tế, liền mạch và tự nhiên thể hiện tình yêu của mình đối với con, với quê hương xứ sở.
Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người với tự nhiên đã tạo cho "Nói với con" của Y Phương một sức sống bền bỉ. Sức sống ấy không chỉ ở ngôn từ, mà nó đã bật trào ra khỏi con chữ và phập phồng trên trang giấy. Tiếng thơ là lời răn dạy của người cha, mong rằng dẫu mai này con có đi vào biển người tấp nập, dấn thân vào nơi hào nhoáng của đô hội, con cũng phải biết "uống nước nhớ nguồn", biết rằng mình sinh ra là nhờ cái nôi hạnh phúc của gia đình, nhờ những truyền thống tốt đẹp của quê nhà. Cha cũng mong con phải khắc cốt ghi xương hai tiếng "quê hương" vào tâm hồn và trái tim như Xuân Quỳnh từng viết:
“Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…”
“Nói với con” đã lẳng lặng trở thành một bài thơ đời. Để rồi có những phút ngã lòng, ta vịn vào thi phẩm để thêm yêu gia đình, để biết tự hào, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của văn hoá dân tộc ta.
Cái thiện và cái ác là hai khái niệm gắn liền với quy luật phát triển của đời sống, trong mọi lĩnh vực của đời sống đều tồn tại hai mặt đối lập tốt - xấu, thiện - ác. Sự tồn tại của thiện và ác chính là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa chúng, bản chất của cuộc chiến tranh này là quy luật tất yếu và góp phần thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội. Tuy cuộc đấu tranh này sẽ không bao giờ có hồi kết nhưng kết cục chung nhất vẫn là cái thiện luôn chiến thắng cái ác.
Để có thể hiểu về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, trước hết ta phải hiểu được thế nào là cái thiện và thế nào là cái ác. Cái thiện, việc thiện là đại diện cho những những việc làm, hành động đúng với công lý, đạo đức, đem lại lợi ích chính đáng, những điều tốt đẹp. Trái ngược với cái thiện là cái ác, việc ác đại diện cho những việc làm, hành động sai trái, phạm pháp, vi phạm chuẩn mực đạo đức và công lý, gây ra những hậu quả xấu, nghịch lý và bất công. Trước khi chúng ta có mặt, vốn cái thiện và cái ác đã luôn tồn tại, cho đến khi ta có nhận thức mới nhận ra được cái thiện và cái ác. Hai phạm trù này hoàn toàn trái ngược nhau song tồn tại song song với nhau, luôn công kích và cạnh tranh triệt tiêu lẫn nhau. Mọi mặt trong đời sống đều có mặt tốt - mặt xấu, mặt hay - dở, thiện và ác cũng tương tự, cái sai ác luôn tìm cách đè nén, phủ nhận cái thiện, tuy nhiên cái thiện sẽ luôn có cách để trừng trị cái ác, chiến thẳng và dẹp trừ cái ác. Từ những câu chuyện cổ tích xa xưa, ta đã được làm quen với sự tồn tại song song và đối lập nhau giữa thiện và ác, tiêu biểu là các câu chuyện Tấm Cám, Sọ Dừa, Thạch Sanh,... Tấm đại diện cho cái thiện thì Cám đại diện cho cái ác, có Thạch Sanh thì lại có Lý Thông.
Có thể thấy, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác là một cuộc đấu tranh mang tính quy luật tất yếu của xã hội, chính việc giải quyết mâu thuẫn giữa thiện ác là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Thực tế vẫn luôn chứng minh được cái thiện luôn chiến thắng cái ác, dù có phải trải qua nhiều khó khăn, gian nan và đánh đổi mất mát thì chiến thắng cuối cùng vẫn thuộc về cái thiện. Tuy nhiên cuộc đấu tranh giữa thiện và ác mang bản chất một cuộc đấu tranh không có hồi kết, giải quyết xong mâu thuẫn giữa thiện - ác của vấn đề này lại nảy sinh mâu thuẫn ở nhiều vấn đề khác. Chính vì vậy mà xã hội chúng ta không ngừng phải đấu tranh, biểu hiện cụ thể nhất chính là công việc của các chú công an, cảnh sát, họ đại diện cho chính nghĩa, công lý và bảo vệ cho cái thiện đấu tranh với những sai phạm, bất công và trái ngược đạo lý của cái ác. Chính nhờ có lực lượng trấn áp các tội phạm xã hội mà cuộc sống của người dân mới được yên ổn, ấm no và hạnh phúc. Bản thân mỗi chúng ta đều không muốn có những cái ác, không muốn làm điều ác, tuy nhiên vốn trong cuộc sống vẫn cần có sự tồn tại của cái ác, một mặt cái ác khẳng định tính chính nghĩa của cái thiện, mặt khác nhờ có cái ác mà con người ta có thể biết mà tránh xa, hướng đến những cái thiện. Con người phải là yếu tố phân minh, phân giải và quyết định tính đúng sai của cuộc đấu tranh này. Trong bản thân mỗi người cũng cần nhận thức rõ đâu là việc ác đâu là việc thiện để bỏ ác làm thiện, diệt trừ những mầm mống của cái ác xung quanh cuộc sống của mình.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác không bao giờ kết thúc, chính vì vậy sự can thiệp của con người cũng không thể ngơi nghỉ, hãy chung tay dẹp trừ cái ác, lan tỏa cái thiện. Trách nhiệm trong cuộc đấu tranh này thuộc về tất cả cá nhân, tập thể và xã hội, mỗi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về cái thiện - cái ác và dù trong hoàn cảnh nào vẫn luôn đứng về phía cái thiện, tranh đấu đến cùng bảo vệ cho cái thiện.
Trong cuộc sống muôn màu và vô cùng phức tạp này, có những ranh giới thật mong manh. "Giữa thiện - ác, tốt - xấu nhiều khi chỉ là một “sợi tóc” (Thạch Lam). Nếu không có lập trường vững vàng và bản lĩnh kiên cường, con người rất dễ trượt chân vào vực xoáy của cuộc đời. Làm việc gì, dù lớn hay nhỏ, đều phải chú ý đến bản chất của sự việc đó, “đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy việc ác nhỏ mà làm”.
Câu nói trên đề cập đến một mối quan hệ phổ biến của hiện thực cuộc sống, đó là mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng: việc thiện hay ác không phụ thuộc vào mức độ lớn hay nhỏ mà phụ thuộc vào bản chất của nó. Đã là việc ác thì dù lớn hay nhỏ cũng là ác. Ăn trộm một cây rau hay một chiếc xe máy vẫn bị gọi là thằng ăn trộm. Đã là việc thiện thì dù nhặt được cây kim trả người đánh mất, chỉ đường cho người lạc hay cứu một mạng người cũng là việc thiện. Vì vậy khi làm một việc gì đó nên có thái độ dứt khoát, chỉ làm việc thiện, không làm điều ác, dù lớn hay nhỏ. Câu nói này có ý cảnh báo mỗi người hãy cảnh giác với những suy nghĩ có tính chất ngụy biện của chính mình. Khi muốn làm một điều gì đó, nhất là những việc không biết có nên làm hay không, con người thường tự biện hộ cho mình. Chặt một cây xanh thấy không ảnh hưởng gì nhưng mười lần anh làm thế anh sẽ đốn đi cả một vạt rừng. Làm việc ác cũng vậy, thấy không đáng gì thì tặc lưỡi làm đại, đến khi hậu quả xảy ra mới nghĩ mình làm sai thì đã muộn.
Việc thiện là việc làm mang đến lợi ích chính đáng cho mình và những người xung quanh. Việc thiện bao giờ cũng xuất phát từ sự thống nhất về quyền lợi của số đông. Việc có ích cho cộng đồng được coi là việc thiện, cho dù lợi ích đó lớn hay nhỏ.
Việc ác là những việc làm gây nên những hậu quả tiêu cực cho mọi người xung quanh. Làm việc ác có thể có lợi lớn cho mình nhưng lại ảnh hưởng xấu đến những người xung quanh. Khi hành động, thông thường mỗi người đều có khả năng nhận thức được việc làm của mình là thiện hay ác. Ai cũng có thể xác định được mục đích và tính chất của việc mình làm. Tất nhiên cũng có người do vô tình hay do thiếu hiểu biết mà có những hành động sai trái. Song đó chỉ là những trường hợp cá biệt.
Xã hội tồn tại và phát triển bao giờ cũng có sự song hành giữa thiện và ác. Không bao giờ có thể xoá hết cái ác, song nếu mỗi người luôn ý thức được rằng chỉ nên làm điều thiện không nên là điều ác thì chắc rằng xã hội sẽ ngày càng tiến bộ hơn.