Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ngay từ thời đại đồ đá, người ta đã tìm thấy dấu vết cư trú của con người ở hầu khắp các nước Đông Nam Á. Đến những thế kỉ đầu công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã biết sử dụng đồ sắt. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, nhưng ở mỗi nước đã hình thành một số ngành thủ công truyền thống như dệt, làm đồ gốm, nghề đúc đồng và sắt. Do nhu cầu trao đổi sản phẩm, việc buôn bán theo đường ven biển rất phát đạt. Một số thành thị - hải cảng đã ra đời và hoạt động nhộn nhịp như Óc Eo (An Giang - Việt Nam), Ta-kô-la (bán đảo Mã Lai) v.v...
Sự phát triển của các ngành kinh tế là cơ sở cho sự ra đời của hàng loạt quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á. Sự ra đời của các vương quốc cổ Đông Nam Á còn găn liền với tác động về mặt kinh tế củạ các thương nhân Ấn và ảnh hưởng của văn hoá An Độ. Các nước Đông Nam Á đã tiếp thu và vận dụng văn hoá Ấn Độ để phát triển sáng tạo văn hoá của dân tộc mình.
Trong khoảng 10 thế kỉ đầu sau Công nguyên, hàng loạt quốc gia nhỏ đã được hình thành và phát triển ở khu vực phía nam Đông Nam Á như Vương quốc Cham-pa vùng Trung ở hạ lưu sông Mê Nam và trên các đảo của In-đô-nê-xi-a. Thời ấy, các quốc gia này còn nhỏ bé, phân tán trên các địa bàn hẹp, sống riêng rẽ và nhiều khi tranh chấp lẫn nhau. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của các vương quốc cổ, để rồi, trên cơ sở đó hình thành nên các quốc gia phong kiến dân tộc hùng mạnh sau này.
2. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia phong kiến Đông Nam Á
Trong khoảng từ thê kỉ VII đến X, ở khu vực Đông Nam Á đã hình thành một số quốc gia, lấy một bộ tộc đông và phát triển nhất làm nòng cốt, thường được gọi là các quốc gia phong kiến “dân tộc” như Vương quốc Cam-pu-chia của người Khơ-me, các vương quốc của người Môn và người Miến ở vùng hạ lưu sông Mê Nam, của người In-đô-nê-xi-a-ở Xu-ma-tơ-ra và Gia-va...
Từ khoảng nửa sau thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII là thời kì phát triển của các quốc gia phong kiên ở Đông Nam Á. Ở In-đô-nê-xi-a, đến cuối thế kỉ XIII dòng vua Gia-va mạnh lên, đã chinh phục được Xu-ma-tơ-ra, thống nhất In-đô-nê-xi-a dưới vương triều Mô-giô-pa-hit hùng mạnh trong 3 thế kỉ (1213 - 1527), bao gồm hơn 10 nước nhỏ và đảo phụ thuộc, có “sản phẩm quý, đứng hàng thứ hai sau A-rập”. Trên bán đảo Đông Dương, ngoài các quốc gia Đại Việt và Chăm-pa, Vương quốc Căm-pu-chia từ thế kỉ IX cũng bước vào thời Kì Ăng-co huy hoàng. Trên lưu vực sông l-ra-oa- từ giữa thế kỉ XI, quốc gia Pa-gan ở miền Trung đã mạnh lên, chinh phục các tiểu quốc gia khác, thống nhất lãnh thổ, mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển của vương quốc Mi-an-ma.
Cũng trong thế kỉ XIII, do sự tấn công của người Mông cổ, một bộ phận người Thái, vốn sinh sống ở thượng nguồn sông Mê Công đã di cư ồ ạt xuống phía nam, định cư ở lưu vực sông Mê Nam và lập nên Vương quốc Su-khô-thay - tiền thân của nước Thái Lan sau này. Một bộ phận khác định cư ở vùng trung lưu sông Mê Công, lập nên Vương quốc Lan Xang (Lào) vào giữa thế ki XIV
Toàn cảnh đô thị cổ Pa gan( Mia-an-ma)
Thế kỉ X-XVIII còn là giai đoạn phát triển thịnh vượng của nền kinh tế khu vực, hình thành những vùng kinh tế quan trọng, có khả năng cung cấp một khối lượng lớn lúa gạo, cá, sản phẩm thủ công (vải, hàng sơn, đồ sứ, thuốc nhuộm, chế phẩm kim khí v.v...) và nhất là những sản vật thiên nhiên (các loại gỗ quý, hương liệu, gia vị, đá quý, ngọc trai, cánh kiến v.v...). Đã có một thời lái buôn của nhiều nước trên thế giới đến đây buôn bán, mang sản vật của Đông Nam Á về nước họ, hay đến những nơi khác xa xôi hơn.
Cùng với sự phát triển kinh tế và với quá trình xác lập các quốc gia “dân tộc”, văn hoá dân tộc cũng dần được hình thành. Sau một thời gian tiếp thu và chon lọc, các dân tộc Đông Nam Á đã xây dựng được một nền văn hoá riêng của mình và đóng góp vào kho tàng văn hoá chung của loài người những giá trị tinh thần dân tộc.
quốc gia đông nam á : việt nam , lào , campuchia , thái lan , mianma , malayxia , singapo , philippin , indonexia , brunay , đông timo
- Hiện nay Đông Nam Á có 11 nước là Việt nam , Lào , Cam-pu-chia . Thái Lan , Mi-an-ma, Ma –lai- xi -a , Xin-ga-po,In- đô -nê –xi- a , Phi -lip -pin , Bru- nây và Đông Ti -mo .
* Điều kiện tự nhiên :
- Có khí hậu gió mùa : mùa khô và mùa mưa , trồng cây lúa nước, cây ăn củ, ăn quả …..
- Thuận lợi: có khí hậu nóng ẩm , nên thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp.
- Khó khăn : có nhiều thiên tai.
* Sự hình thành các vương quốc cổ :
- Thời đồ đá có dấu vết người tối cổ khắp Đông Nam Á .
- Thế kỷ đầu Công Nguyên biết dùng đồ sắt và bắt đầu xuất hiện các quốc gia đầu tiên .
- 10 thế kỷ đầu sau Công Nguyên xuất hiện các quốc gia nhỏ như: Champa , Phù Nam ở hạ lưu sông Mê Kông , vương quốc hạ lưu sông Mê nam , đảo In đô nê xi a .
Từ thế kỷ Xà XVIII phát triển và thịnh đạt :
- In đô nê xi a: vương triều Mô giô pa hít (1213-1527)
- X- XV:Đại Việt ,Champa .
- IX –XV :Campuchia thời kỳ Ang-co huy hòang
- XI : vương quốc Pa-gan (Mianma)
- XIII :người Thái ở thượng nguồn sông Mê Kông di cư xuống phía nam (do Mông Cổ tấn công lập ra Su-khô-thay (Thái lan) ; và Lan xang ( Lào )
- Sau thế kỷ XV Đông Nam Á cổ suy yếu nhưng xã hội phong kiến vẫn tồn tại.
- Giữa thế kỷ XIX bị phương Tây xâm chiếm .
Các quốc gia trong khi vực đông nam á hiện nay
Việt Nam, Campuchia, ĐôngTimor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore,Thái Lan .
Em biết gì về các quốc gia đó
Thời hình thành các quốc gia đông nam á thời phong kiến :Những năm đầu công nguyên ->đầu thế kỉ X
Thời kì phát triển ,thịnh vượng của các quốc gia đông nam á thời phong kiến : Thế kỉ X -> nửa sau thế kỉ XVIII .
Thời kì suy thoái : Từ nửa sau thế kỉ XVIII các quốc gia phong kiến đông nam á bước vào thời kì suy yếu ,bị thực dân phương Tây xâm lược và trở thành thuộc địa hoặc phụ thộc.
các quốc gia đông nam á hiện nay : việt nam , lào , campuchia , thái lan , mianma , maylayxia , indonexia , xingapo , philippin , đông timo .
MÌNH TẢ ĐỀN THỜ ĂNG-CO-VÁT CỦA CAMPUCHIA NHA BẠN !
Angkor Wat nằm cách thị trấn Xiêm Riệp 5.5 km (3.4 dặm) về phía bắc và chếch về phía đông nam của kinh đô cũ, với trung tâm là đền Baphuon. Đây là một khu vực có nhiều kiến trúc cổ quan trọng và là cực nam của cụm di tích chính Angkor.
Truyền thuyết kể rằng Angkor Wat được xây dựng theo lệnh của Indra để làm cung điện cho con trai Precha Ket Mealea.[7] Theo nhà ngoại giao Chu Đạt Quan (thế kỷ 13), một số người tin rằng ngôi đền được xây dựng chỉ trong một đêm bởi một kiến trúc sư nhà Trời.
Việc thiết kế và xây dựng được tiến hành vào nửa đầu thế kỷ 12 dưới thời vua Suryavarman II (trị vì từ năm 1113 - 1150). Thờ thần Vishnu, ngôi đền được coi như thủ đô và đền thờ của nhà vua. Do không tìm thấy tấm bia nền móng cũng như bất kỳ bản khắc nào nhắc đến ngôi đền vào thời đó, tên ban đầu của nó vẫn là một dấu hỏi, nhưng nó có thể đã được gọi là "Varah Vishnu-lok", theo tên của vị thần được thờ. Công việc có vẻ như đã kết thúc sau khi nhà vua băng hà không lâu, dựa vào một số bức điêu khắc vẫn còn dang dở. Năm 1177, 27 năm sau cái chết của Suryavarman II, Angkor bị tàn phá bởi người Chăm Pa, kẻ thù truyền kiếp của người Khmer.Sau đó vua Jayavarman VII đã phục hưng đế quốc và thành lập một thủ đô và đền thờ mới (Angkor Thom và Bayon) cách Angkor Wat vài kilo mét về phía bắc.
Đến cuối thế kỷ 12, Angkor Wat từ một trung tâm tín ngưỡng Ấn Độ giáo dần chuyển sang Phật giáo và tiếp tục cho đến ngày nay. Không giống nhiều ngôi đền Angkor khác, tuy Angkor Wat một phần bị quên lãng từ sau thế kỷ 16, nó không bao giờ hoàn toàn bị bỏ hoang, một phần nhờ con hào bao xung quanh đã bảo vệ ngôi đền khỏi sự xâm lấn của rừng rậm.
Một trong những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Angkor là António da Madalena, một nhà sư người Bồ Đào Nha đến đây vào năm 1586 và nói rằng "nó là một kiến trúc phi thường mà không giấy bút nào tả xiết, chủ yếu là vì nó không giống bất kỳ công trình nào khác trên thế giới. Nó có những tòa tháp, lối trang trí và tất cả sự tinh xảo mà con người có thể tưởng tượng ra.
Cho đến thế kỷ 17, Angkor Wat vẫn chưa hoàn toàn bị bỏ hoang và có chức năng như một đền thờ Phật giáo. Mười bốn bản khắc chữ có niên đại từ thế kỷ thứ 17 được phát hiện ở khu vực Angkor, cho thấy những người hành hương Phật giáoNhật Bản có thể đã thành lập các khu định cư nhỏ cùng với người dân địa phương Khmer.Cũng vào thời điểm đó, các du khách Nhật nghĩ rằng ngôi đền là khu vườn nổi tiếng Jetavana của Đức Phật, ban đầu nằm trong vương quốc Magadha, Ấn Độ.[14]Bản khắc nổi tiếng nhất kể về Ukondafu Kazufusa, người đón chào năm mới của người Khmer tại Angkor Wat năm 1632.
Giữa thế kỷ 19, nhà tự nhiên học và thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã đến đây và giúp phương Tây biết đến Angkor Wat nhiều hơn bằng các ghi chép của mình. Trong đó ông viết:
"Một trong những ngôi đền đó-một đối thủ của đền Solomon, và được một số Michelangelo thời cổ đại dựng lên - có thể có một chỗ đứng trang trọng bên cạnh những công trình đẹp nhất của chúng ta. Nó vĩ đại hơn tất cả những gì người Hy Lạp hay La Mã để lại cho chúng ta, và thể hiện một sự tương phản đáng buồn cho tình trạng man rợ mà đất nước đang mắc phải."[16]
Mouhot, cũng giống như những người phương Tây khác, khó tin rằng người Khmer có thể xây dựng được ngôi đền và đã ngỡ rằng nó được xây dựng cùng thời với thành Rome. Lịch sử thực sự của Angkor Wat chỉ được ráp nối lại với nhau bởi các bằng chứng nghệ thuật và bút tích được thu thập trong quá trình dọn dẹp và phục dựng trên cả khu vực Angkor. Không có nhà ở hoặc dấu vết gì của việc định cư như đồ dùng nấu ăn, vũ khí hoặc trang phục thường thấy tại các địa điểm cổ đại. Thay vào đó là các bằng chứng của một di tích lịch sử.Angkor Wat nằm cách thị trấn Xiêm Riệp 5.5 km (3.4 dặm) về phía bắc và chếch về phía đông nam của kinh đô cũ, với trung tâm là đền Baphuon. Đây là một khu vực có nhiều kiến trúc cổ quan trọng và là cực nam của cụm di tích chính Angkor.
Truyền thuyết kể rằng Angkor Wat được xây dựng theo lệnh của Indra để làm cung điện cho con trai Precha Ket Mealea.Theo nhà ngoại giao Chu Đạt Quan (thế kỷ 13), một số người tin rằng ngôi đền được xây dựng chỉ trong một đêm bởi một kiến trúc sư nhà Trời.
Việc thiết kế và xây dựng được tiến hành vào nửa đầu thế kỷ 12 dưới thời vua Suryavarman II (trị vì từ năm 1113 - 1150). Thờ thần Vishnu, ngôi đền được coi như thủ đô và đền thờ của nhà vua. Do không tìm thấy tấm bia nền móng cũng như bất kỳ bản khắc nào nhắc đến ngôi đền vào thời đó, tên ban đầu của nó vẫn là một dấu hỏi, nhưng nó có thể đã được gọi là "Varah Vishnu-lok", theo tên của vị thần được thờ. Công việc có vẻ như đã kết thúc sau khi nhà vua băng hà không lâu, dựa vào một số bức điêu khắc vẫn còn dang dở. Năm 1177, 27 năm sau cái chết của Suryavarman II, Angkor bị tàn phá bởi người Chăm Pa, kẻ thù truyền kiếp của người Khmer.Sau đó vua Jayavarman VII đã phục hưng đế quốc và thành lập một thủ đô và đền thờ mới (Angkor Thom và Bayon) cách Angkor Wat vài kilo mét về phía bắc.
Đến cuối thế kỷ 12, Angkor Wat từ một trung tâm tín ngưỡng Ấn Độ giáo dần chuyển sang Phật giáo và tiếp tục cho đến ngày nay. Không giống nhiều ngôi đền Angkor khác, tuy Angkor Wat một phần bị quên lãng từ sau thế kỷ 16, nó không bao giờ hoàn toàn bị bỏ hoang, một phần nhờ con hào bao xung quanh đã bảo vệ ngôi đền khỏi sự xâm lấn của rừng rậm.
Một trong những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Angkor là António da Madalena, một nhà sư người Bồ Đào Nha đến đây vào năm 1586 và nói rằng "nó là một kiến trúc phi thường mà không giấy bút nào tả xiết, chủ yếu là vì nó không giống bất kỳ công trình nào khác trên thế giới. Nó có những tòa tháp, lối trang trí và tất cả sự tinh xảo mà con người có thể tưởng tượng ra.
Cho đến thế kỷ 17, Angkor Wat vẫn chưa hoàn toàn bị bỏ hoang và có chức năng như một đền thờ Phật giáo. Mười bốn bản khắc chữ có niên đại từ thế kỷ thứ 17 được phát hiện ở khu vực Angkor, cho thấy những người hành hương Phật giáo Nhật Bản có thể đã thành lập các khu định cư nhỏ cùng với người dân địa phương Khmer.Cũng vào thời điểm đó, các du khách Nhật nghĩ rằng ngôi đền là khu vườn nổi tiếng Jetavana của Đức Phật, ban đầu nằm trong vương quốc Magadha, Ấn Độ. Bản khắc nổi tiếng nhất kể về Ukondafu Kazufusa, người đón chào năm mới của người Khmer tại Angkor Wat năm 1632.
Giữa thế kỷ 19, nhà tự nhiên học và thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã đến đây và giúp phương Tây biết đến Angkor Wat nhiều hơn bằng các ghi chép của mình. Trong đó ông viết:
"Một trong những ngôi đền đó-một đối thủ của đền Solomon, và được một số Michelangelo thời cổ đại dựng lên - có thể có một chỗ đứng trang trọng bên cạnh những công trình đẹp nhất của chúng ta. Nó vĩ đại hơn tất cả những gì người Hy Lạp hay La Mã để lại cho chúng ta, và thể hiện một sự tương phản đáng buồn cho tình trạng man rợ mà đất nước đang mắc phải.
Mouhot, cũng giống như những người phương Tây khác, khó tin rằng người Khmer có thể xây dựng được ngôi đền và đã ngỡ rằng nó được xây dựng cùng thời với thành Rome. Lịch sử thực sự của Angkor Wat chỉ được ráp nối lại với nhau bởi các bằng chứng nghệ thuật và bút tích được thu thập trong quá trình dọn dẹp và phục dựng trên cả khu vực Angkor. Không có nhà ở hoặc dấu vết gì của việc định cư như đồ dùng nấu ăn, vũ khí hoặc trang phục thường thấy tại các địa điểm cổ đại. Thay vào đó là các bằng chứng của một di tích lịch sử.
Angkor Wat, nằm ở 13°24′45″B 103°52′0″Đ, là một sự kết hợp độc đáo của chùa chiền và núi. Angkor Wat đạt thiết kế tiêu chuẩn của đền thờ cấp quốc gia và các tiêu chuẩn sau này của phòng trưng bày hiện đại. Ngôi đền là một đại diện của núi Meru, quê hương của các vị thần: các quincunx trung tâm của tháp tượng trưng cho năm đỉnh núi, và các bức tường và hào tượng trưng cho các dãy núi bao quanh và đại dương. Khả năng đi vào các khu vực trên cao của đền thờ càng ngày càng khó, với các giáo dân chỉ được vào tầng thấp nhất.
Không giống như hầu hết các ngôi chùa Khmer, Angkor Wat được định hướng về phía tây hơn là phía đông. Điều này đã khiến nhiều người (kể cả Maurice Glaize và George Coedès) đã kết luận rằng Suryavarman dự định xây đền này làm lăng mộ của mình.Thêm bằng chứng cho quan điểm này là các bức phù điêu, mà tiến hành trong một hướng ngược chiều kim đồng hồ-prasavya trong tiếng Hindu-vì đây là mặt trái của thứ tự bình thường. Nghi lễ diễn ra trong trật tự ngược trong nghi thức tang lễ Brahminic.Nhà khảo cổ học Charles Higham cũng tìm thấy và mô tả một cái lọ có thể là một cái lọ dùng để chứa tro đã được tìm thấy trong tháp trung tâm.Đền đã được đề cử là như là khoản chi phí lớn nhất cho việc xây dựng lăng mộ để lưu trữ xác người chết.Tuy nhiên Freeman và Jacques lưu ý rằng một số ngôi đền khác của Angkor có định hướng khác với định hướng Đông nói chung, và cho rằng việc định hướng Angkor Wat là vì nghi lễ thờ cúng Vishnu, vị thần có liên quan với phương Tây.
Eleanor Mannikka đã đề xuất một lời giải thích thêm về Angkor Wat. Dựa trên định hướng và kích thước của ngôi đền, và trên các nội dung và cách sắp xếp các phù điêu, bà lập luận rằng cấu trúc đền đại diện cho một kỷ nguyên mới với tuyên bố hòa bình dưới thời vua Suryavarman II: "vì các số đo của chu kỳ thời gian mặt trời và mặt trăng đã được gắn vào không gian thiêng liêng của Angkor Wat, nhiệm vụ cai quản đất nước thiêng liêng này được chạm khắc vào phòng và hành lang ngôi đền, với ý nghĩa là để duy trì quyền lực của nhà vua và để tôn vinh và thờ phượng các vị thần ở trên trời.Nhận xét của Mannikka đã được đón nhận với sự kết hợp giữa quan tâm và hoài nghi trong giới học thuật.Bà đã nhận xét khác hẳn với những suy đoán của những người khác, chẳng hạn như Graham Hancock, rằng Angkor Wat là một phần của việc mô phỏng chòm sao Thiên Long.
Những thế kỉ đầu công nguyên: các quốc gia đầu tiên đã xuất hiện
Thế kỉ X: đây là thời kì phát triển thịnh vượng của các quốc gia
Nữa sau thế kỉ XVlll: các quốc gia bước vào thời kì suy yếu và trở thành thuộc địa của Phương Tây
Những thế kỉ đầu công nguyên: Cư dân biết dùng đồ sắt, bắt đầu xuất hiện Vương quốc Cham-pa, Phù Nam, các vương quốc ở hạ lưu sông Mê Nam và trên các đảo thuộc In-đô-nê-xi-a.
Thế kỉ X: Đây là thời kì phát triển của:
-Inđônêxia, Gia-va.
- Bán đảo Đông Dương, Đại Việt, Cham-pa, Ăng-co.
- Mianma, Pa-gan.
- Su-khô-thay (Thái Lan)
-: Lan-Xang ( Lào)
Nửa sau thế kỉ XVIII:
Bước vào thời kì suy yếu và dần dần trở thành thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Ko biết đúng ko nữa!
Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hiện nay:
Việt Nam, Campuchia, ĐôngTimor, Indonesia, Lào, Malayxia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan.
Em biết gì về các quốc gia đó :
Thời hình thành các quốc gia Đông Nam Á thời phong kiến : Những năm đầu công nguyên ->đầu thế kỉ X.
Thời kì phát triển thịnh vượng của các quốc gia Đông Nam Á thời phong kiến : thế kỉ X đến nửa sau thế kỷ XVIII
Thời kỳ suy thoái : Từ nửa sau thế kỷ XVIII các quốc gia phong kiến Đông Nam Á bước vào thời kỳ suy yếu, bị thực dân phương Tây xâm lược và trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc.
Chúc bạn học tốt
việt nam, cam-pu-chia, đông timor, indonesia, lào, malaysia, philippines, singapor, thái lan, bru- nây
Đại Việt \(\Rightarrow\) VN
Lan Xang \(\Rightarrow\) Laò
Pa - Gan \(\Rightarrow\) Mianma
Su- khô-thay \(\Rightarrow\) Thái Lan
Ma-lay-a \(\Rightarrow\) Malayxia
Mô-Giô-Pa-Hít \(\Rightarrow\) inđônêxia
Đại Việt : Việt Nam
Lan Xang : Lào
Pa-Gan : Mianma
Su-khô-thay : Thái Lan
Ma-lay-a : Malayxia
Mô-Giô-Pa-Hít : Inđônêxia