Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Sông Đồng Nai 🌊
- Biển đảo 🏝️
- Việt Nam là 1 đất nước có nền văn hóa độc lập và tự do. Việt Nam hiện là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị hiện là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị đã thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam.
- Từ khoảng thế kỉ VII TCN đến những thế kỉ đầu Công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam đã hình thành các quốc gia cổ như: Văn Lang (sau đó là Âu Lạc); Chăm-pa và Phù Nam. Sự ra đời và phát triển cùng với đó là những thành tựu văn hóa đặc sắc của các quốc gia này đã:
+ Cho thấy lịch sử dựng nước từ sớm và lâu đời của dân tộc Việt Nam.
+ Tạo cơ sở cho sự hình thành quốc gia dân tộc Việt Nam sau này.
+ Góp phần quan trọng trong việc tạo dựng nên những giá trị truyền thống cốt lõi, định hình bản sắc văn hóa dân tộc.
- Từ khoảng thế kỉ VII TCN đến những thế kỉ đầu Công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam đã hình thành các quốc gia cổ như: Văn Lang (sau đó là Âu Lạc); Chăm-pa và Phù Nam. Sự ra đời và phát triển cùng với đó là những thành tựu văn hóa đặc sắc của các quốc gia này đã:
+ Cho thấy lịch sử dựng nước từ sớm và lâu đời của dân tộc Việt Nam.
+ Tạo cơ sở cho sự hình thành quốc gia dân tộc Việt Nam sau này.
+ Góp phần quan trọng trong việc tạo dựng nên những giá trị truyền thống cốt lõi, định hình bản sắc văn hóa dân tộc.
Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba, nhưng chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long không một bóng người, và thủy quân Đại Việt do Phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chỉ huy đã đánh tan nát đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ trong trận Vân Đồn.
Thời gian: 1288
/HT\
Thời Lý: tướng Lý Kế Nguyên
Thời Trần: tướng Trần Khánh Dư
Thời Lê: Mình không biết nha
Những yếu tố nào đã tạo nên tình cảm cộng đồng của cư dân Văn Lang?
* Tình cảm cộng đồng là tình cảm gắn bó với nhau giữa những người sống lâu trong một vùng.
* Yếu tố tạo nên tình cảm cộng đồng chính là sự hòa quyện những nét đặc sắc trong đời sống vật chất và tinh thần của con người đương thời:
- Yếu tố vật chất:
+ Người dân sống quây quần thành các làng, chạ ở ven đồi hoặc vùng đất cao ven sông, ven biển.
+ Do nhu cầu sản xuất, làm thủy lợi, ổn định cuộc sống lâu dài và nhu cầu mở rộng giao lưu, tự vệ, những cư dân trong một vùng đã có sự liên kết, gắn bó với nhau.
- Yếu tố tinh thần: Thông qua việc tổ chức các lễ hội, các trò chơi, các phong tục như: ăn trầu cau, gói bánh chưng, bánh giầy,… con người càng gắn bó với nhau hơn.
⟹ Tình cảm cộng đồng từ đó mà nên.
1. các hiện vật do khảo cổ học phát hiện được cho thấy Việt Nam là 1 trong những cái nôi của loài người .
2. Việc phát minh ra thuật luyện kim có ý nghĩa quan trọng :
- Tạo ra nguyên liệu làm công cụ, vật dụng mới khá cứng, có thể thay thế đồ đá.
- Đúc được nhiều loại hình công cụ, dụng cụ khác nhau.
- Công cụ sắc bén hơn, đạt năng suất lao động cao hơn nhiều so với công cụ đá.
—> Việc phát minh ra thuật luyện kim đã làm thay đổi sức sản xuất, tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, đưa con người ra khỏi thời nguyên thủy, bước sang thời đại văn minh.
3.- Lúa gạo trở thành lương thực chính của người Việt Nam.
- Con người chủ động hơn trong trồng trọt và tích lũy lương thực.
- Từ đó con người có thể yên tâm định cư lâu dài, xây dựng xóm làng (vùng đồng bằng ở các con sông lớn như sóng Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai) và tăng thêm các hoạt động tinh thần, giải trí.
4. Khi sản xuất phát triển xã hội sẽ đổi mới . Vì khi tăng thu nhập tăng thuế sẽ làm cho 1 số tình hình ở đất nước sẽ biến đổi .
5. Nhà nước Văn Lang được ra đời trong hoàn cảnh xã hội phân giàu nghèo và đặt ra yêu cầu thuỷ trị , giải quyết việc xâm lược .
Sơ đồ :
Ngô Quyền was born in 897 AD in Đường Lâm (modern-day Ba Vì District, Hanoi of northern Vietnam) during the Tang dynasty. He was the son of Ngô Mân, an influential Tang government official in Annam. His father was a strong supporter of Phùng Hưng, the first Jiedushi (Tiết độ sứ) military governor of Annam and semi-autonomous ruler when the Tang empire was in decline.
In 931, he served under Dương Đình Nghệ (the administrator of Zhou Cho Giao Chỉ in around 931 AD) and quickly rose through the military ranks and government administration, by 934, he was promoted military governor of Ái Châu. After Dương Đình Nghệ was assassinated in a military coup in 938 by a usurper named Kiều Công Tiễn, he took control of the military and was well received. That same year, Ngô Quyền's forces defeated the rebel Kiều Công Tiễn and had him executed. This transpired into an opportunistic pretense for wrestling control of Annam by the new Southern Han regime due to its strategic geographical location. Ngô Quyền foresaw the Southern Han intention. He quickly mobilized the armed forces and made war preparations well in advance. His victory at the Battle of Bach Dang paved the way for Annam independence (future Vietnam).
Ngô Quyền was declared King and was officially recognized by the Southern Han in 939. In the process, Annam (future Vietnam) gained full independence and governmental autonomy ever since (with the exception of a short period of 20 years under military occupation by the Ming dynasty in the early 15th century).
Một số thành tựu của Trung Quốc (từ thời cổ đại đến thế kỉ VII) được truyền bá đến Việt Nam:
* Tư tưởng, tôn giáo
- Học thuyết Nho gia (sau này phát triển thành Nho giáo):
+ Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, gắn liền với cuộc chiến tranh xâm lược và đô hộ của các vương triều phong kiến Trung Quốc.
+ Ban đầu, Nho giáo tới Việt Nam theo phương thức cưỡng bức, áp đặt thông qua bộ máy cai trị và chính sách đồng hóa của các vương triều phong kiến phương Bắc.
+ Dần dần, người Việt đã tiếp thu Nho giáo một cách chủ động và biến Nho giáo thành một công cụ để quản lý và điều tiết quan hệ xã hội, ví dụ:
- Luồng Phật giáo Bắc tông từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỉ đầu công nguyên và có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của người Việt.
* Chữ viết
- Chữ Hán được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỉ tiếp giáp công nguyên.
- Trong nhiều thế kỉ, chữ Hán được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng làm văn tự chính; được sử dụng trong:
+ Văn bản hành chính của quốc gia.
+ Ghi chép lịch sử, văn học...
+ Sử dụng trong thi – cử.
- Trên cơ sở chữ Hán của Trung Quốc; người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm (dưới thời vua Quang Trung, chữ Nôm được nâng lên trở thành văn tự chính của quốc gia).
* Phong tục – tập quán:
- Nhiều lễ tết quan trọng của người Việt, như: Tết Nguyên đán; tết Nguyên tiêu; tết Đoan Ngọ; Tết Trung Thu... đều có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Một số thành tựu của Trung Quốc (từ thời cổ đại đến thế kỉ VII) được truyền bá đến Việt Nam:
* Tư tưởng, tôn giáo
- Học thuyết Nho gia (sau này phát triển thành Nho giáo):
+ Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, gắn liền với cuộc chiến tranh xâm lược và đô hộ của các vương triều phong kiến Trung Quốc.
+ Ban đầu, Nho giáo tới Việt Nam theo phương thức cưỡng bức, áp đặt thông qua bộ máy cai trị và chính sách đồng hóa của các vương triều phong kiến phương Bắc.
+ Dần dần, người Việt đã tiếp thu Nho giáo một cách chủ động và biến Nho giáo thành một công cụ để quản lý và điều tiết quan hệ xã hội, ví dụ:
- Luồng Phật giáo Bắc tông từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỉ đầu công nguyên và có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của người Việt.
* Chữ viết
- Chữ Hán được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỉ tiếp giáp công nguyên.
- Trong nhiều thế kỉ, chữ Hán được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng làm văn tự chính; được sử dụng trong:
+ Văn bản hành chính của quốc gia.
+ Ghi chép lịch sử, văn học...
+ Sử dụng trong thi – cử.
- Trên cơ sở chữ Hán của Trung Quốc; người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm (dưới thời vua Quang Trung, chữ Nôm được nâng lên trở thành văn tự chính của quốc gia).
* Phong tục – tập quán:
- Nhiều lễ tết quan trọng của người Việt, như: Tết Nguyên đán; tết Nguyên tiêu; tết Đoan Ngọ; Tết Trung Thu... đều có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Mình lấy trên mạng bạn có thể tìm ạ
chắc là Trần Hưng Đạo ...
Đó là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Tham khảo thêm:
Tại châu Âu, sau một thời gian tung hoành chiếm hết trung Á, vó ngựa Mông Cổ dồn dập tiến vào châu lục này, các thành phố lớn như Moscow đều bị đốt cháy.
Liên quân châu Âu được thành lập nhắm chống lại quân Mông Cổ cũng bị đập tan. Nhiều nước mong muốn cầu hòa và cống nạp cho quân Mông Cổ.
Khi các Vương công nước Nga chịu thần phục, quân Mông Cổ cho ván để lên đầu các vương công Nga để đặt bàn tiệc ăn mừng. Sáu Vương công bị đè đến chết.
Vó ngựa quân Mông Cổ gây kinh hoàng khắp châu Âu, biên niên sử còn ghi lại rằng: “Vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó”.
Tại châu Á, khi quân Mông Cổ đánh Trung Quốc là vào thời kỳ nhà Tống, quân Tống bị đại bại, phải bỏ kinh thành rồi tháo chạy hết lần này tới lần khác, quân Mông Cổ truy đuổi theo.
Năm 1258, quân Mông Cổ lần thứ nhất thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống. Trận đánh lần thứ nhất này quân Mông Cổ chưa thật sự dành nhiều tinh lực vào Đại Việt, mà chỉ muốn thôn tính nốt nhà Nam Tống. Cuối cùng, vào năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Mông Cổ thôn tính.
Trận đánh cuối cùng giữa quân Mông Cổ và quân Tống là trận Nhai Môn trên biển. Quân Tống có 20 vạn người, nhưng phần lớn trong đó là hoàng thân quốc thích, và quân phục dịch chạy trốn giặc Mông Cổ. Quân Mông Cổ ít hơn rất nhiều những vẫn bao vây tấn công quân Tống.
Thần phụ chính Lục Tú Phu thấy tình thế tuyệt vọng ôm Vua Tống còn nhỏ nhảy xuống biển tự vẫn, người Tống nhìn thấy cảnh này đều khóc than rồi lần lượt nhảy xuống biển chết theo vua, khung cảnh thật bi thương. 7 ngày sau, hàng trăm ngàn xác người nổi đầy khắp mặt biển, đây được xem là một trong những sự kiện bi thương nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Tống bị diệt vong, Đại Hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt của nhà Nguyên trở thành Hoàng đế Trung Hoa, Trung Quốc bị đô hộ suốt 100 năm. Đó quả là thời kỳ đen tối trong lịch sử Trung Quốc.
Sau khi đánh tan nhà Tống, quân Nguyên tiếp tục mưu đồ tràn xuống phía Nam. Ngay từ tháng 8 năm 1279, sau khi diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.
Năm 1285, Hốt Tất Liệt phong cho con trai Thoát Hoan là Trấn Nam Vương dẫn hàng chục vạn quân tiến đánh Đại Việt lần thứ hai. Thế nhưng đến đây, vó ngựa đại quân Nguyên Mông vốn đã giày xéo khắp nơi từ Á sang u đã bị chặn lại bởi Trần Quốc Tuấn, vị Quốc Công Tiết Chế lừng danh sử Việt và thế giới.
Lúc xuất quân Thoát Hoan hùng hổ bao nhiêu thì lúc chạy thục mạng về nước nhục nhã bấy nhiêu. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân dân Đại Việt rồi bắt lính khiêng chạy trối chết về nước.
Quân Mông Cổ chạy về đến đất Nguyên ở Trung Quốc rồi, quân Đại Việt vượt qua cả biên giới tiến sâu vào châu Tư Minh của Trung Quốc để tiêu diệt giặc, khiến quân Nguyên hoảng sợ, chạy thoát rồi vẫn chưa hết run, tối ngủ không được vì ác mộng.
Ngày 25/12/1287, lần thứ ba quân Nguyên sang đánh Đại Việt, vẫn là Trấn Nam Vương Thoát Hoan cùng hàng chục vạn hùng binh, thế nhưng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn rất điềm nhiên “năm nay đánh giặc nhàn”. Quả nhiên lần này hùng binh của quân Nguyên bị đánh cho đại bại, thêm một lần nữa nhục nhã rút về nước.
Có thể có người cho rằng đâu chỉ có Đại Việt đánh thắng quân Nguyên, vì Nhật Bản, Chiêm Thành và Miến Điện cũng đánh thắng quân Nguyên. Nhưng chiến thắng của Nhật Bản có được còn nhờ sự đóng góp quan trọng của “Thiên thời”. Ngoài tinh thần cảm tử của quân Nhật ra, hai lần bão tố và thiên tai đã giúp người Nhật đánh chìm nhiều chiến thuyền Nguyên Mông. Trong cuộc chiến với quân Nguyên tại Chiêm Thành và Miến Điện, về mặt quy mô và tinh lực của quân Nguyên, thì không có lần nào có thể so với lần xâm lược thứ hai và thứ ba trên đất Việt cả. Cuộc chiến với quân Nguyên tại Chiêm Thành cũng nhờ có Đại Việt cử viện binh tiếp ứng.
Trong khi đó, chiến thắng của Đại Việt là nhờ sự đồng lòng của người dân và vua quan nhà Trần, cùng tài thao lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Vây làm thế nào mà Trần Quốc Tuấn có thể đánh bại quân Nguyên hùng mạnh khiến cả châu Á và châu Âu đều run sợ?
Kế sách của Trần Quốc Tuấn
Quân Nguyên đánh thắng khắp nơi từ Á sang Âu, nhưng chưa ở đâu gặp phải kế sách từ ngoại giao cho đến đánh trận như ở Đại Việt.
Đầu tiên, trước khi tiến binh, quân Nguyên đã quen với việc uy hiếp nước khác bằng cách dùng sứ giả khuyên hàng. Thế nhưng khi sứ giả quân Nguyên đến thì nhà Trần bắt phải quỳ trước mặt Vua theo đúng phép tắc.
Kế sách của Trần Quốc Tuấn khi đánh quân Nguyên có thể gói gọn trong mấy chữ: vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, dùng đoản binh phá trường trận.
Khi đánh nước khác, quân Nguyên thích đánh vào kinh thành, vì nơi đây tập trung đa phần quân chủ lực. Đánh kinh thành thì cũng tiêu diệt được quân chủ lực đối phương, lại có thể cướp bóc lương thực và nhu yếu phẩm.
Thế nhưng khi đánh Đại Việt thì quân Đại Việt lại chủ động rút khỏi kinh thành, thực hiện “vườn không nhà trống”. Điều này khiến cho quân Nguyên dù chiếm kinh thành vẫn không gặp được quân chủ lực của Đại Việt, kinh thành lại trống không nên không thể cướp bóc được gì.
Quân Nguyên tiến đánh với sách lược đánh nhanh thắng nhanh, nhưng quân chủ lực của ta lại rút đi nhằm bảo toàn lực lượng, khiến quân Nguyên không thể đánh nhanh thắng nhanh được. Trần Quốc Tuấn lại cho các toán quân nhỏ liên tục chặn bước tiến của địch, đánh để tiêu hao sinh lực và phá hủy lương thực rồi rút ngay. Quân Nguyên truy kích không tìm thấy các toán quân này vì không thông thạo địa thế.
Quân Nguyên không gặp được quân chủ lực Đại Việt để đánh, cũng không biết quân chủ lực rút về đâu mà đuổi theo. Lâu ngày quân sĩ lại mệt mỏi vì phải liên tục chống đỡ các cuộc tập kích của các cánh quân nhỏ vẫn diễn ra hàng ngày.
Dần dần tình hình quân Nguyên lương thực đã cạn, quân sĩ mệt mỏi không muốn tiếp tục cuộc chiến nữa, sĩ khí không còn. Lúc này Trần Quốc Tuấn mới điều động đội quân chủ lực phản công đánh thẳng vào quân Nguyên.
Trước sức mạnh tấn công của Đại Việt, quân Nguyên hoảng sợ, không hiểu các cánh quân ở đâu hiện ra nhiều không kể xiết. Do tâm lý mệt mỏi, quân Nguyên không thể thắng được sĩ khí của Đại Việt nên đại bại, rút chạy về nước
Trần Quốc Tuấn vực dậy tinh thần cho quân dân Đại Việt
Trước sức mạnh của đội quân làm run sợ khắp nơi trên thế giới, Đại Việt cũng không ít người xuống tinh thần. Lúc đó, Trần Quốc Tuấn đã làm “hịch tướng sĩ” để vực dậy tinh thần kháng Nguyên của quân sĩ.
Khi các tướng sĩ lo lắng Trần Quốc Tuấn có hiềm khích với nhà Trần, anh em không thể hòa thuận, ông đã tắm cho em họ của mình là Trần Quang Khải trên chiến thuyền trước sự hò reo của ba quân.
Khi quân ta rút khỏi Thăng Long, người rời đi sau cùng là Trần Quốc Tuấn.
Khi quân ta phải rút lui trước sức mạnh của giặc, nhà Vua hội họp các tướng rồi dò hỏi: “Hay là nên hàng”, Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái nói ngay: “Xin bệ hạ hãy chém đầu thần trước đã rồi hẵng hàng”.
Từ đó mọi niềm tin và ánh mắt của triều đình đều dồn cả vào Trần Quốc Tuấn, ông trở thành trụ cột của Nhà Trần trong 2 lần đánh quân Nguyên Mông (lần thứ 2 và thứ 3).
Tấm lòng trung sáng tỏ như đôi vầng nhật nguyệt
Cũng giống như ông, dưới trướng của Trần Quốc Tuấn đều là những người tài giỏi như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trương Hán Siêu.
Khi nhiều người nhắc lại mối thù nhà, ông hỏi hai gia nô cũng là tướng giỏi lúc đó là Yết Kiêu và Dã Tượng về chuyện này, hai vị tướng này đáp rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”. Nghe xong Quốc Tuấn rất cảm động
Sau đó con ông là Trần Quốc Tảng có nhắc lại lời trăn trối của An Sinh Vương Trần Liễu, muốn cùng ông cướp ngôi vua, ông nổi giận rút gươm toan chém đứa con này. Dưới sự can ngăn của mọi người, ông thay đổi ý định nhưng từ đó kiên quyết không gặp Quốc Tảng, thậm chí dặn dò sau này ông chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng.
Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm
Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên đô hộ một trăm năm.
Câu đối trên cho thấy châu Âu và Trung Quốc đều muốn có con người này đến thế nào. Thế nhưng Trời xanh đã đặt định cho Trần Quốc Tuấn trở thành con dân của Đại Việt.
Trong dân gian có truyền thuyết rằng mẹ của Trần Quốc Tuấn nằm mơ thấy có một vị thiên thần tinh vàng tướng ngọc, tự xưng là Thanh Tiên Đồng Tử sẽ xuống đầu thai. Lúc Trần Quốc Tuấn vừa được sinh ra đã có hào quang toả sáng rực cả nhà.
Dù truyền thuyết đẹp đó có thật hay chỉ xuất phát từ sự kính ngưỡng Hưng Đạo Đại Vương mà thành, thì người ta vẫn không khỏi suy ngẫm rằng: Phải chăng Thiên Thượng đã phái Trần Quốc Tuấn xuống giúp nước Nam đánh bại quân Nguyên Mông, lưu lại giai đoạn lịch sử xán lạn cho con dân Đại Việt?