Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo !!!
Nhắc đến Sa Pa, ta nghĩ ngay đến một khu du lịch nghỉ mát lớn của cả nước. Và vì thế, nhắc đến Sa Pa là nhắc đến sự nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng với “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long đã cho ta biết đến một Sa Pa hoàn toàn ngược lại: Sa Pa với những con người đang miệt mài lao động ngày đêm cống hiến cho đất nước. Nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm là một người tiêu biểu trong số đó. Anh đã để lại trong lòng người đọc một niềm yêu mến và cảm phục sâu sắc.
Không yêu mến, cảm phục sao được một con người cởi mở, thân thiện, ngăn nắp... và đặc biệt là say mê, yêu quý và có trách nhiệm với công việc của mình như thế!
Mở đầu tác phẩm, anh hiện lên qua câu chuyện của bác lái xe với người họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Đó là một thanh niên hai mươi bảy tuổi, một mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai ngàn mét. Nhưng trước hết, điều gây ấn tượng mạnh cho độc giả là chuyện "thèm người" của anh chàng "cô độc nhất thế gian" kia. Không phải anh ta "sợ người" mà lên làm việc ở đây, trái lại, anh ta từng chặt cây ngáng đường ngăn xe dừng lại để được gặp người "nhìn trông và nói chuyện một lát".
Lên đỉnh Yên Sơn, người họa sĩ và cô kĩ sư được gặp một con người "tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ". Anh ta sống trong "một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách". Sự cô độc không làm anh trở nên cộc cằn, cẩu thả. Trái lại, nó càng làm nổi bật những đức tính hiếm có ở chàng trai trẻ này. Một cuộc sống giản dị, ngăn nắp của một người yêu đời, say mê công việc và không có vẻ gì của sự buồn chán. Anh nồng nhiệt chào đón những người khách bất ngờ của mình; cởi mở giới thiệu về công việc, ngợi ca những người bạn cũng đang say mê miệt mài với công việc ở Sa Pa. Lòng yêu người của anh đã được thể hiện phần nào ở những chi tiết trước đó: đào củ tam thất biếu vợ bác lái xe, “thèm người” đến mức hạ cây ngang đường để xe dừng lại mà nói chuyện với mọi người dăm ba phút... nhưng những người khách mới vẫn không khỏi xúc động về những gì anh mang tới cho họ. Khi hai người khách trở về, ngoài những quả trứng “của nhà có được” anh còn tặng họ cả những bông hoa rực rỡ. Hoá ra anh cũng vô cùng mộng mơ và lãng mạn!
Nhưng không dừng lại ở đó, anh tiếp tục khiến người đọc cảm động, ngạc nhiên và khâm phục về những gì anh nghĩ về công việc và những gì anh đã làm đã hiến dâng cho cuộc sống.
Anh là một chàng thanh niên, đã hai mươi bảy tuổi nhưng chưa có người yêu. Anh chấp nhận rời xa cuộc sống đô thị ồn ào, rời xa gia đình để gắn bỏ với công việc. Một công việc phức tạp, vất vả: "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Qua những lời tâm sự của anh về công việc ta đã phần nào hình dung được sự khó khăn, nguy hiểm của công việc. Chẳng những phải dậy đúng giờ “ốp” - vốn vẫn rất thất thường - mà phải đối mặt với những khắc nghiệt của thời tiết của thiên nhiên: gió, bão, tuyết, hoang thú,... Và đáng sợ hơn nữa là sự cô độc. Cùng với áp lực công việc, cái đó có thể giết chết con người bằng bệnh trầm cảm, tự kỉ nhưng anh thanh niên đã chiến thắng tất cả để giữ được một trái tim ấm áp, một tinh thần lạc quan, yêu đời. Anh triết lí về công việc của mình: "khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?". Được làm việc có ích đối với anh thế là niềm vui. Hơn nữa công việc của anh gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí khác ở những điểm cao hơn hoặc thấp hơn. Người hoạ sĩ đã thấy bối rối khi bất ngờ được chiêm ngưỡng một chân dung đẹp đẽ đến thế: "bắt gặp một con người như anh là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chăng đường dài". Còn cô kĩ sư, với cô cuộc sống của người thanh niên là "cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp", anh mang lại cho cô "bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên". Và người đọc, chắc hẳn cũng có những cảm nhận như thế về nhân vật đặc biệt này.
Cùng với những người kĩ sư trồng rau, nhà khoa học nghiên cứu sét,... anh thanh niên đã trở thành biểu tượng cho những con người đang hăng say lao động cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Ra đời năm 1970, giữa lúc miền Bắc đang hăng say sản xuất để chi viện cho miền Nam đánh Mĩ, nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” đã thực sự trở thành biểu tượng cho những anh hùng lao động đồng thời động viên, cổ vũ tinh thần lao động, sản xuất của nhân dân miền Bắc.
Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn của Nguyễn Thành Long đã để lại trong lòng người đọc những tình cảm thật tốt đẹp. Hình ảnh của anh đã và đang động viên thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục noi gương để đi theo bước chân dũng cảm, cao đẹp của cha anh ngày trước.
Nhắc đến Sa Pa, ta nghĩ ngay đến một khu du lịch nghỉ mát lớn của cả nước. Và vì thế, nhắc đến Sa Pa là nhắc đến sự nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng với “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long đã cho ta biết đến một Sa Pa hoàn toàn ngược lại: Sa Pa với những con người đang miệt mài lao động ngày đêm cống hiến cho đất nước. Nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm là một người tiêu biểu trong số đó. Anh đã để lại trong lòng người đọc một niềm yêu mến và cảm phục sâu sắc.
Không yêu mến, cảm phục sao được một con người cởi mở, thân thiện, ngăn nắp... và đặc biệt là say mê, yêu quý và có trách nhiệm với công việc của mình như thế!
Mở đầu tác phẩm, anh hiện lên qua câu chuyện của bác lái xe với người họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Đó là một thanh niên hai mươi bảy tuổi, một mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai ngàn mét. Nhưng trước hết, điều gây ấn tượng mạnh cho độc giả là chuyện "thèm người" của anh chàng "cô độc nhất thế gian" kia. Không phải anh ta "sợ người" mà lên làm việc ở đây, trái lại, anh ta từng chặt cây ngáng đường ngăn xe dừng lại để được gặp người "nhìn trông và nói chuyện một lát".
Lên đỉnh Yên Sơn, người họa sĩ và cô kĩ sư được gặp một con người "tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ". Anh ta sống trong "một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách". Sự cô độc không làm anh trở nên cộc cằn, cẩu thả. Trái lại, nó càng làm nổi bật những đức tính hiếm có ở chàng trai trẻ này. Một cuộc sống giản dị, ngăn nắp của một người yêu đời, say mê công việc và không có vẻ gì của sự buồn chán. Anh nồng nhiệt chào đón những người khách bất ngờ của mình; cởi mở giới thiệu về công việc, ngợi ca những người bạn cũng đang say mê miệt mài với công việc ở Sa Pa. Lòng yêu người của anh đã được thể hiện phần nào ở những chi tiết trước đó: đào củ tam thất biếu vợ bác lái xe, “thèm người” đến mức hạ cây ngang đường để xe dừng lại mà nói chuyện với mọi người dăm ba phút... nhưng những người khách mới vẫn không khỏi xúc động về những gì anh mang tới cho họ. Khi hai người khách trở về, ngoài những quả trứng “của nhà có được” anh còn tặng họ cả những bông hoa rực rỡ. Hoá ra anh cũng vô cùng mộng mơ và lãng mạn!
Nhưng không dừng lại ở đó, anh tiếp tục khiến người đọc cảm động, ngạc nhiên và khâm phục về những gì anh nghĩ về công việc và những gì anh đã làm đã hiến dâng cho cuộc sống.
Anh là một chàng thanh niên, đã hai mươi bảy tuổi nhưng chưa có người yêu. Anh chấp nhận rời xa cuộc sống đô thị ồn ào, rời xa gia đình để gắn bỏ với công việc. Một công việc phức tạp, vất vả: "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Qua những lời tâm sự của anh về công việc ta đã phần nào hình dung được sự khó khăn, nguy hiểm của công việc. Chẳng những phải dậy đúng giờ “ốp” - vốn vẫn rất thất thường - mà phải đối mặt với những khắc nghiệt của thời tiết của thiên nhiên: gió, bão, tuyết, hoang thú,... Và đáng sợ hơn nữa là sự cô độc. Cùng với áp lực công việc, cái đó có thể giết chết con người bằng bệnh trầm cảm, tự kỉ nhưng anh thanh niên đã chiến thắng tất cả để giữ được một trái tim ấm áp, một tinh thần lạc quan, yêu đời. Anh triết lí về công việc của mình: "khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?". Được làm việc có ích đối với anh thế là niềm vui. Hơn nữa công việc của anh gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí khác ở những điểm cao hơn hoặc thấp hơn. Người hoạ sĩ đã thấy bối rối khi bất ngờ được chiêm ngưỡng một chân dung đẹp đẽ đến thế: "bắt gặp một con người như anh là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chăng đường dài". Còn cô kĩ sư, với cô cuộc sống của người thanh niên là "cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp", anh mang lại cho cô "bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên". Và người đọc, chắc hẳn cũng có những cảm nhận như thế về nhân vật đặc biệt này.
Cùng với những người kĩ sư trồng rau, nhà khoa học nghiên cứu sét,... anh thanh niên đã trở thành biểu tượng cho những con người đang hăng say lao động cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Ra đời năm 1970, giữa lúc miền Bắc đang hăng say sản xuất để chi viện cho miền Nam đánh Mĩ, nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” đã thực sự trở thành biểu tượng cho những anh hùng lao động đồng thời động viên, cổ vũ tinh thần lao động, sản xuất của nhân dân miền Bắc.
Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn của Nguyễn Thành Long đã để lại trong lòng người đọc những tình cảm thật tốt đẹp. Hình ảnh của anh đã và đang động viên thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục noi gương để đi theo bước chân dũng cảm, cao đẹp của cha anh ngày trước.
Nguyễn Thành Long ( 1925 – 1991 ) quê huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí. Ông tham gia hoạt động văn nghệ trong những năm kháng chiến chống Pháp ở Nam Trung Bộ. Sau năm 1954, tập kết ra Bắc, công tác ở Hội nhà văn Việt Nam, chuyên về sáng tác và biên tập. Những truyện ngắn của Nguyễn Thành Long không gân guốc, gai góc mà thường pha chất kí, mang vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, giàu chất trữ tình.
Tác phẩm chính: Bát cơm Cụ Hồ ( 1955 ), Những tiếng vỗ cánh ( 1967 ), Giữa trong xanh (1972)… Với truyện kí Bát cơm Cụ Hồ – 1953 Nguyễn Thành Long đã đựơc trao giải thưởng Phạm Văn Đồng.
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là kết quả trong chuyến đi lên Lao Cai trong mùa hè năm 1970, sau này in trong tập Giữa trong xanh (1972) của Nguyễn Thành Long. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Truyện ngắn có cốt truyện khá đơn giản,chỉ tập trung vào cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông hoạ sĩ, cô kí sư trẻ và anh thanh niên-nhân vật chính của tác phẩm-trên đỉnh Yên Sơn cao 2600mét. Giữa khung cảnh thiên nhiên Sa pa đẹp như một bức tranh.
Chất thơ bàng bạc toát lên từ khung cảnh thiên nhiên nên thơ ấy.Sa pa được miêu tả dưới một góc nhìn của một nhà hội hoạ.Nói đến Sa pa, người ta sẽ nghĩ ngay đến một nơi nghỉ ngơi, yên tĩnh và tuyệt đẹp. Nghĩ ngay đến những rừng hoa ban trắng muốt, những cánh rừng bạt ngàn dưới ánh nắng ban mai, những đồi núi trập trùng dưới sương mờ bao phủ, những thửa ruộng bậc thang, những phiên chợ tình lãng mạn... Thiên nhiên Sa pa dưới ngòi bút của Nguyễn Thành Long hiện lên cũng không kém phần sinh động như thật vậy.Nguyễn Thành Long đã nhập vai, đã hoá thân vào người hoạ sĩ, mượn cái nhìn của nghệ thuật hội họa, mượn lăng kính đầy màu sắc để tô vẽ nên một thiên nhiên không kém phần thơ mộng, lung linh, kì ảo, trữ tình.
Sa pa xuất hiện đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “nhũng đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là sa pa rồi! Bạn có nhận ra chưa? Còn người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi tơ tưởng đến một ngày được về ở hẳn nơi ấy.Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh thiên nhiên có sức hấp dẫn lòng người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng, dường như mọi vật đều trở nên sinh động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu sắc, khiến con người họa sĩ và cô kĩ sư cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh.đến đây ta lại như thấy cái nhìn của một nhà làm phim, đang quay rất chậm và cận cảnh một bức tranh phong cảnh. Cảnh đẹp quá, khiến tay quay như không dám lia nhanh máy và dường như nín thở vì sợ cảnh ấy vụt biến khỏi tầm nhìn “ Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu hình hoa cà lên trên màu xanh của rừng,. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục , lăn trên vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn vào cả gầm xe”. Rõ ràng tác giả đang đặc điểm nhìn từ trên cao nhìn xuống. Không gian bao quát, có cả mây, có cả rừng, và thậm chí xuống đến cả gầm xe nhưng lại đựơc nhìn theo có một chiều. Vẫn rất hợp lí. Ta cứ tuởng tượng, người hoạ sĩ đang ngồi trên xe và xe thì đang nằm ngang với mây trời Tây Bắc.Chính vì lẽ đó mà có những đụn mây vón cục xen vào những tán lá rừng.Vì lẽ đó mới thấy được những giọt sương len trên vòm lá, cùng lúc với những tia nắng mặt trời chiếu trên đỉnh những chòm thông.Thiên nhiên đuợc nhân hoá trở nên sống động lạ kì “ Nắng len tới”; chòm thông rung tít với “những ngón” tay bằng bạc; cây tử kinh với cái “ Nhìn bao che” “nhô dầu” ; “ mây xua nắng đi”...Bức tranh hiện lên với nhiều màu sắc tươi sáng, màu xanh của những cánh rừng bạc ngàn, màu tím của những cây tử kinh,màu trắng của những đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc nắng...Khung cảnh bồng bềnh, sương khói, lãng đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng ấy chính là khung nền cho một cuộc gặp gỡ cũng thấm đẫm chất trữ tình, bàng bạc chất nên thơ.
- Mở bài:
Nguyễn Thành Long có những đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại ở thể loại truyện và kí. Tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa được ra đời năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả. Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp vào thành công của truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là chất trữ tình.
- Thân bài:
Cảm xúc của ông họa sĩ dành cho anh thanh niên: “Chao ôi, bắt một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sảng tác. Cảm xúc của cô kĩ sư: “Một ấn tượng hàm ơn khó tả đạt trong cô gái. Không phải vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi.
Nhận xét: Câu chuyện vẻn vẹn có ngần ấy nhân vật với cuộc gặp diễn ra cỡ trong 30 phút. Nhưng qua lời đối thoại, suy ngẫm của họ đã hình thành mối giao cảm giữa những con người lần đầu tiếp xúc. Người này trở thành chất xúc tác để người kia bộc lộ tất cả vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn. Cũng như vườn hoa của anh thanh niên làm công tác khí tượng, với hoa dơn, hoa thược dược tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… mỗi nhân vật giống như một loài hoa đẹp rực rỡ, tỏa sắc hương dưới mây trời Sa Pa.
Lời văn giàu cảm xúc, hình ảnh, giọng điệu nhẹ nhàng, giàu chất thơ.
Đánh giá:
Chất trữ tình kết họp với bình luận, tự sự đã làm nổi bật chủ đề tác phảm Vẻ đẹp của con người lao động bình thường sống và lao động hết mình mẽ: cách âm thầm lặng lẽ.
- Kết bài:
“Lặng lẽ Sa Pa” đúng như lời nhận định trong sách giáo viên Ngữ văn 9: “Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dần góp vào thành công của truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là chất trữ tình. Chất trữ tình, chất thơ bàng bạc trong truyện góp phần nâng cao ý nghĩa vả vẻ đẹp của những sự việc, con người nhờ thế mà chủ đề của truyện được rõ nét và sâu sắc.
Em tham khảo:
Tôi sống và làm việc trên độ cao 2600 mét của đỉnh núi Yên Sơn. Đến năm nay đã trải qua hai mươi bảy năm cuộc đời. Công việc của tôi là công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu.
Tuy một mình sống trên đỉnh núi, nhưng tôi vẫn luôn nhắc nhở bản thân giữ gìn nhà cửa của mình sạch sẽ gọn gàng. Thời gian rảnh rỗi ngoài công việc, tôi thường đọc sách, trồng hoa và nuôi gà. Sống một mình nên có lúc tôi cảm thấy khá cô đơn, rất thèm cảm giác được nói chuyện với con người. Chính vì vậy, tôi thường tìm cách khiến những chiếc xe đi ngang qua đây dừng lại và có dịp trò chuyện với những người trên xe.
Một lần nọ, tôi được một người bạn khá quen thuộc là bác lái xe, giới thiệu gặp gỡ với một ông họa sĩ và cô kỹ sư. Tôi mời họ lên nhà mình chơi, rồi xin phép về nhà trước. Khi họ lên đến nơi, tôi tặng cho cô kỹ sư bó hoa mình đã chuẩn bị vội. Tôi nói với cô:
- “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích. Tôi không biết kỷ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ tết. Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.”
Tôi nhìn cô rồi niềm nở hỏi:
- “Cô cũng là đoàn viên?”
Cô kỹ sư nhẹ nhàng đáp:
- “Vâng ạ!”
Tôi quyết định sẽ chấm dứt chuyện hoa cỏ ở đây, rồi quay sang kể với bác họa sĩ về công việc thường ngày của mình:
Công việc của cháu cũng quanh quẩn với mấy chiếc máy ngoài khu vườn này thôi. Những cái máy này thì vườn trạm khí tượng nào cũng có. Dãy núi này có ảnh hưởng quyết định đối với mùa gió đông bắc đối với miền Bắc nước ta. Cháu ở đây làm công việc đo gió, đo nắng, đo mưa, tính mây, đo độ chấn động mặt đất. Dựa vào việc báo trước thời tiết hằng ngày mà phục vụ sản xuất, phục vụ cho chiến đấu.
Tôi tiếp tục giới thiệu về các loại máy móc. Cái thùng đo mưa này, ở đâu bác cũng có thể trông thấy, mưa xong thì đổ nước mưa ra cái cốc li phân mà đo.Rồi tiếp sang máy nhật quang ký, ánh sáng mặt trời xuyên qua cái kính này, đốt các mảnh giấy này, rồi cứ theo mức độ, hình dáng vết cháy vết cháy mà xem xét dự báo nắng.
Tiếp nữa là máy vin, dựa vào việc nhìn khoảng cách giữa các răng cưa mà đoán gió. Ban đêm không nhìn mây, cháu nhìn gió lay lá cây, hay nhìn trời sao, thấy sao nào khuất, sao nào sáng, có thể dự báo được mây, tính được gió. Cái máy nằm dưới sâu kia là máy dùng để đo độ chấn động mặt đất. Cháu dùng máy này để lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng bộ đàm vào bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, rồi lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành được gọi là “ốp”.
Công việc nói chung cũng khá dễ, chỉ cần chính xác là được. Gian khổ nhất là lần làm việc và báo cáo về lúc một giờ sáng. Những lúc ấy thời tiết vùng núi Tây Bắc cực rét. Ở đây còn có cả mưa tuyết. Nửa đêm đang nằm ngủ ngon trong chăn, nghe chuông báo thức đến giờ làm việc chỉ muốn đưa tay tắt đi.
Trong đêm, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy chưa đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết cộng với sự tĩnh mịch đến lặng người ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Sự im lặng đáng sợ ấy như bị chặt ra từng khúc, như muốn giết chết bất cứ thứ âm thanh nào khẽ rung lên trong đêm,... Những lúc im lặng như thế, dù lạnh cóng mà lại hừng hực như lửa cháy. Xong việc, trở vào, lại không tài nào ngủ lại được.
Bác họa sĩ và cô kỹ sư trẻ đang chăm chú lắng nghe câu chuyện mà tôi luyên thuyên nãy giờ. Bác họa sĩ giục tôi:
- “Anh nói nữa đi!”
Tôi nhanh nhẹn:
- “Báo cáo, hết. Còn hai mươi phút nữa, mời bác và cô vào nhà uống chén trà.”
Bác họa sĩ và cô kỹ sư vui vẻ theo tôi vào nhà. Bác họa sĩ vừa nhấp một ngụm trà vừa nói:
- “Chuyện dưới xuôi, khoảng mười ngày nữa tôi sẽ trở lại để kể cho anh. Bây giờ anh hãy kể cho tôi nghe tại sao người ta lại bảo anh là “người cô độc nhất thế gian”?”
Nghe vậy, tôi liền bật cười khanh khách:
- “Không đúng đâu bác ạ, cái từ ấy đều là của bác lái xe. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu.”
Bác họa sĩ lại hỏi:
- “Quê anh ở đâu vậy?”
Tôi liền:
- “Quê cháu ở Lào Cai này thôi. Năm trước, cháu tưởng cháu được đi xa lắm cơ đấy, hóa lại không. Cháu có ông bố tuyệt lắm. Hai bố con cùng viết đơn xin ra lính đi mặt trận. Kết quả: bố cháu thắng cháu một - không. Nhân dịp Tết, một đoàn các chú lái máy bay lên thăm cơ quan cháu ở Sa Pa…”
Vừa kể tôi vừa để ý thấy bác họa sĩ đang hí hoáy vẽ vào cuốn sổ tì lên đầu gối. Để không phải vô lễ, tôi vẫn ngồi yên cho bác vẽ, nhưng lại rằng:
- “Bác đừng mất công vẽ cháu. Cháu sẽ giới thiệu cho bác những người xứng đáng hơn kìa. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau hay đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu.”
Tôi đưa mắt nhìn đồng hồ, kêu lên:
- “Trời ơi, chỉ còn năm phút.”
Tôi chạy vội ra nhà sau, rồi trở vào với một chiếc làn trên tay. Bác họa sĩ đã tặc lưỡi đứng dậy. Cô kỹ sư cũng đã đứng lên, đặt chiếc ghế lại chỗ cũ, thong thả đi đến chỗ bác già.
- “Cô quên khăn mùi soa này.”
Tôi gọi với theo để đưa cho cô gái chiếc khăn mùi xoa cô ấy để quên. Cô kĩ sư nhìn tôi, thoáng thấy hai má cô đã ửng hồng lên, nhận lại chiếc khăn và quay vội đi.
Tôi đặt làn trứng vào tay bác họa sĩ rồi nói:
- “Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe. Cháu không thể tiễn bác và cô được, vì gần tới giờ “ốp” rồi. Thôi chào bác, chào cô ạ!”
Nhìn theo bóng bác họa sĩ và cô kĩ sư đang khuất dần mà lòng tôi cảm thấy xốn xang lạ thường. Cuộc gặp gỡ này đối với tôi như cơn mưa rào mùa hạ. Đủ làm tôi cảm thấy vơi đi nỗi cô đơn, nhưng họ đi cũng để lại chút tiếc nuối cho tôi về con người và cuộc sống nơi miền xuôi. Hy vọng rồi lần sau, họ lại lên gặp và kể tôi nghe chuyện dưới xuôi, như lời bác họa sĩ đã hứa ban nãy.
Tham khảo:
Tôi là một chàng hai mươi bảy tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Khi mới lên nhận việc, chưa quen với không khí toàn rừng và cây ở đây nên tôi “thèm người” đến mức chắn ngang khúc gỗ ngang đường để kiếm cớ có người nói chuyện.
Đến bây giờ tôi vẫn nhớ mãi về cuộc gặp gỡ tình cờ với bác họa sĩ và cô kĩ sư. Tôi mời họ lên thăm quan nhà mình, rồi xin phép về nhà trước. Khi họ lên đến nơi, tôi chạy đến và trao bó hoa đã cắt cho cô kỹ sư. Tôi nói với cô:
- Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích. Tôi không biết kỷ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ tết. Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.
Tôi nói to những điều đáng ra người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều người ta ít nghĩ. Cô gái ôm bó hoa vào ngực, nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi nhìn thấy cái nhìn đó, phủi vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười, hạ giọng hỏi:
- Cũng đoàn viên, phỏng?
- Vâng!
Nghe xong, tôi liền nói:’
- Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa. Bác lái xe chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm.
Tôi bắt đầu kể về công việc của mình. Rằng công việc của tôi là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động địa cầu để dự báo thời tiết. Rồi cả những khó khăn, trở ngại: những đêm mưa bão, bão tuyết, trời nắng, mưa.
Cô kĩ sư vẫn đứng đó, ôm bó hoa và lắng tai nghe. Tôi nhìn cô rồi bỗng dừng lại:
- Trời! Mười phút sao mà trôi nhanh quá!
Bác họa sĩ giục tôi:
- Anh nói nữa đi!
Tôi vụt trở lại giọng vui vẻ:
- Báo cáo hết! Còn hai mươi phút nữa thôi. Bác và cô vào nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.
Bác họa sĩ hứa sẽ quay trở lại và kể cho tôi nghe chuyện dưới xuôi. Bác vừa nhâm nhi chén chè và nghe tôi giải thích cụm từ “cô độc nhất thế gian”. Tôi nói rằng đó chỉ là cách nói của bác lái xe thôi, còn anh bạn trên trạm đỉnh Fansipan ba trăm một trăm bốn mươi hai mét kia còn một mình hơn tôi nhiều.
Bác họa sĩ đề nghị vẽ tôi. Nhưng tôi từ chối. Tôi liền giới thiệu người khác. Đó là ông kỹ sư vườn rau dưới Sa Pa, hay anh cán bộ nghiên cứu sét.
Chỉ còn năm phút nữa. Bác họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Cô kĩ sư cũng đứng lên đi ra chỗ bác. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy chiếc khăn mùi soa trên bàn, vội kêu lên:
- Ô! Cô quên chiếc mùi soa đây này!
Tôi lấy chiếc khăn tay vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô cúi đầu rồi đưa tay nhận lại chiếc khăn.
Bác họa sĩ hẹn tôi ngày gặp lại. Tôi khẽ nắm lấy tay cô kĩ sư, cẩn trọng rõ ràng như người ta cho nhau cài gì chứ không phải cái bắt tay. Cô nhìn anh, cái nhìn như mãi mãi không bao giờ gặp lại, rồi cất tiếng chào tôi:
- Chào anh.
Tôi xin theo bóng hai người khuất dần mà lòng đầy xao xuyến.
Trước hết anh là một người yêu nghề, nhiệt huyết đối với nghề, không quản ngại khó khan để hoàn thành công việc được giao.Cuộc sống của anh vốn bình lặng và giản dị, “sống một mình trên đinh Yên Son cao 2600m, bốn bể chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”. Với một vài chi tiết đó, chúng ta đã hình dung được cuộc sống buồn chán, tẻ nhạt của anh.Một người đang ở độ tuổi sung sức nhưng lại sẵn sàng cống hiến, sẵn sàng đánh đổi tuổi trẻ để mang lại sự ấm no, hạnh phúc. Chi tiết bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian” cũng hoàn toàn đúng với cuộc sống hiện tại của anh. Đối lập với sự bình lặng, êm đềm của công việc là tâm thế bình tĩnh, lòng nhiệt huyết và yêu nghề sâu sắc. Đây chính là đức tính đáng quý của anh thanh niên trong mắt mọi người.
Anh tâm sự với mọi người “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Qua chi tiết này, anh thanh niên hiện lên là một người đáng kính, anh không ngại khó khăn, thử thách vẫn dẫn thân vào con đường biết rằng không mấy bình lặng. Bởi với anh đó chính là lẽ sống. Anh đã tự tìm thú vui cho bản thân mình trong những quyển sách. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người trẻ cần phải học tập. Đó chính là việc không được chùn bước, phải luôn ngẩng cao đầu và nhiệt huyết hết mình với công việc.
Bạn tham khảo nhé
Chúc bn học tốt
Trong mỗi tác phẩm văn học, nhân vật chính trở thành linh hồn thể hiện trọn vẹn nội dung tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm vào những đứa con tinh thần của mình. Với trường hợp anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long cũng vậy. Anh là một người sống lạc quan, yêu đời, có tình có nghĩa với mọi người, đầy trách nhiệm với công việc và giàu lí tưởng sống. Xây dựng một nhân vật chính cho tác phẩm cùa mình như thế, Nguyễn Thành Long muốn thể hiện một tư tưởng giàu chất nhân văn về con người và cuộc đời.
Tác phẩm ra đời năm 1970 giữa lúc miền Bắc đang hăng say lao động sản xuất để xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện cho miền Nam đánh Mĩ. Mỗi người dân miền Bắc ý thức sâu sắc vai trò của bản thân mình đối với sự nghiệp chung của đất nước: sống đẹp, sống có ích để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Và nhân vật anh thanh niên trở thành biểu tượng đẹp cho những con người tích cực, trách nhiệm như thế.
Anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, một mình sống trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai ngàn sáu trăm mét, quanh năm suốt tháng, giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa. Vậy nhưng sự trống vắng không làm chai đi những cảm xúc, tình cảm rất đỗi con người nơi anh. Anh sống lạc quan, yêu quý tất thảy mọi người. Anh dọn dẹp nơi ở của mình gọn gàng sạch sẽ. Anh trồng hoa trong “vườn nhà”. Anh nuôi gà để “tăng gia”,... Tất cả những điều đó khẳng định rằng anh muốn tạo lập cho mình một cuộc sống bình thường như mọi người dưới xuôi, không điều gì khiến anh buồn chán hay có cảm giác cô độc. Nghe bác lái xe kể về người vợ mới ốm dậy, anh liền mang biếu bác củ tam thất. Có khách lên thăm (là ông họa sĩ và cô kĩ sư) anh biếu họ một bó hoa to và những quả trứng gà... Hành động đó mang những thông điệp đầy nhân văn: hãy sống đẹp, hãy quan tâm đến nhau, hãy đến với nhau bằng tất cả tấm lòng và tình cảm nhân hậu.
Đó còn là một con người đầy trách nhiệm, say mê với công việc và khiêm tốn. Anh hiểu công việc của mình tuy gian khổ nhưng "thiếu nó anh buồn đến chết mất" vì công việc là niềm vui, là nguồn sống của anh. Anh đã tìm được hạnh phúc trong công việc. Anh quan niệm công việc là người bạn đồng hành với mình, chính vì thế cuộc sống của anh không bao giờ tẻ nhạt và buồn chán. Anh tâm sự "khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia". Con người đó cũng có quan niệm về hạnh phúc thật giản dị nhưng hết sức cao đẹp - đó là được lao động, được cống hiến sức mình cho đất nước. Vì thế, khi biết tin nhờ mình phát hiện đám mây khô mà không quân ta hạ được nhiều máy bay Mĩ, anh thấy mình thật hạnh phúc. Tóm lại, được cống hiến cho khoa học, cho đất nước là lí tưởng sống của anh. Suy nghĩ của anh về cuộc sống thật đẹp, thật sâu sắc.
Không chỉ là người có suy nghĩ đẹp, anh còn là người biết hành động đẹp. Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, một mình sống vắt vẻo trên đỉnh Yên Sơn, làm bạn với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết, sương rơi để đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, tham gia vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Dù không ai đôn đốc, kiểm tra, nhưng anh vẫn tự nguyện tự giác với tinh thần trách nhiệm cao. Công việc đòi hỏi phải thực hiện vào những thời khắc khó khăn như nửa đêm giữa mùa đông giá rét, nhưng bất kỳ trong hoàn cảnh nào, đến đúng thời điểm ấy là anh thức giấc, xách đèn "đi ốp", xách máy đi đo, không bỏ sót một ngày nào, không quên một buổi nào, âm thâm bền bỉ suốt nhiều năm trời. Nhưng khó khăn hơn tất cả đối với anh chính là vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng không một bóng người, và anh đã vượt qua được bằng sự miệt mài, say mê trong công việc. Anh đã dùng tất cả thời gian, nhiệt huyết, tâm trí, sức lực cho nhiệm vụ được giao, rảnh một chút là anh lại lấy sách ra để trò chuyện. Từ những công việc lặng lẽ âm thầm đó, anh đã góp phần trực tiếp vào chiến thắng chung của quân và dân miền Bắc. Đặc biệt, trong câu chuyện của mình với người họa sĩ, anh luôn gạt đi ý định vẽ mình của người họa sĩ. Anh giới thiệu với ông những người bạn của mình: anh kĩ sư vườn rau, anh kĩ sư “trông sét”,... Anh khiêm nhường nhận định công việc của mình cũng chỉ là bình thường và trân trọng những đóng góp, những hi sinh của bạn bè, đồng đội.
Nhan đề của truyện là "Lặng lẽ Sa Pa" nhưng Sa Pa có thật sự lặng lẽ không? Tác giả đã giải thích một cách hết sức đơn giản cho người đọc: "Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ của Sa Pa, một Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi có những con người đang làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước". Qua cách đặt nhan đề của truyện và xây dựng nhân vật chính với những đặc điểm vô cùng đáng mến đáng trân trọng, tác giả muốn nêu bật chủ đề và cũng là ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm: ca ngợi những con người sống đẹp, lao động một cách say mê và quên mình cho đất nước, nhắn nhủ đến mỗi người đọc: "Hãy yêu thương nhau và sống đẹp hơn".
Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về công việc và cuộc sống.
+ Công việc là niềm vui, niềm đam mê cháy bỏng.
+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
Anh thanh niên có những hành động cao đẹp.
+ Vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm quen với cuộc sống chỉ có một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.
+ Dồn tất cả thời gian công sức, tự nguyện tự giác hoàn thành xuất sắc công việc vốn hết sức vất vả và đơn điệu.
Anh thanh niên có phong cách sống rất đáng quý, đáng trân trọng.
+ Tổ chức cuộc sống ngăn nắp, khoa học, phong phú cả về vật chất và tinh thần.
+ Khiêm tốn, cởi mở, chân thành với mọi người.
Đánh giá nhân vật, phát biểu cảm nghĩ.
Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho những con người lao động mới, sống có lý tưởng, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho đất nước.
Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm về thế hệ cha anh đi trước trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Trân trọng, khâm phục những nhân vật đáng quý, đáng mến trong “Lặng lẽ Sa Pa”, ta nghĩ tới trách nhiệm, hành động của thanh niên chúng ta trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
Chiếc lược ngà
- Ông Sáu đi kháng chiến, khi có dịp trở lại thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi. Bé Thu không nhận cha vì vết thẹo trên má khôg giống với ba trọng ảnh chụp với má
- Ông Sáu thất vọng, suốt mấy ngày nghỉ phép ông chỉ ở nhà với Thu
- Lúc bé Thu nhận cha và vỡ oà trong tình cha con thì ông Sáu phải rời đi. Ông hứa mua cho bé Thu cây lược ngà
- Ở căn cứ ông dành hết tình cảm thời gian làm cây lược cho Thu. Nhưng chưa kịp trao tận tay con ông hy sinh trong trận càn của địch
- Khi không thể chăng chối điều gì nữa, ông lấy lược trong túi và nhờ đồng đội - bác Ba trao tận tay con
- Chiếc lược ngà ấy được đồng đội trao lại cho Thu một cách tình cờ,khi cô làm giao liên dẫn đường cho đồng chí ấy trong kháng chiến chống Mĩ.
– Ông Hai là người một người nông dân yêu tha thiết yêu làng Chợ Dầu của mình.
– Do yêu cầu của ủy ban kháng chiến, ông Hai phải cùng gia đình tản cư. xa làng ông nhớ làng da diết.
– Trong những ngày xa quê , ông luôn nhớ đến làng Chợ Dầu và muốn trở về.
– Một hôm, ông nghe tin làng Chợ Dầu của ông làm Việt gian theo Tây. Ông Hai vừa căm uất vừa tủi hổ , chỉ biết tâm sự cùng đứa con thơ.
– Khi cùng đường, ông Hai nhất định không quay về làng vì theo ông “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù.”
– Sau đó, ông được nghe tin cải chính về làng mình rằng làng chợ Dầu vẫn kiên cường đánh Pháp. ông hồ hởi khoe với mọi người tin này dù nhà ông bị Tây đốt cháy. Lặng lẽ Sa Pa nội dung chính kể về anh thanh niên làm việc trên đỉnh núi Yên Sơn thời tiết khắc nghiệt, công việc chính của anh thực hiện công tác khí tượng cung cấp các số liệu thời tiết thu thập được. Công việc cực nhọc, vất vả vì vậy đã 4 năm anh chưa về nhà.
Trong một lần anh được gặp gỡ với những người ở xuôi đó là ông họa sĩ và cô kĩ sư đến thăm cho anh làm việc. Ở đây anh kể ra công việc thực hiện hàng ngày của mình, công việc khó khăn vất vả nhưng anh vẫn tự giác thực hiện nó hàng ngày. Từ đây ông họa sĩ là người đã phát hiện ra phẩm chất cao quý, tâm hồn chân thực của anh thanh niên nên đã phác họa ra bức chân dung. Không chỉ vậy ở đây đều có những người lao động cần cù và chăm chỉ như anh thanh niên. Họ đều thể hiện lao động chăm chỉ, thầm lặng để đóng hộp cho đất nước.
Khi về anh tặng cho họ một lần trúng, quả chuyến đi anh thanh niên để lại những ấn tượng tốt đẹp cho ông họa sĩ và cô kĩ sư về những người lao động âm thầm cống hiến sức lực của mình cho đất nước.