K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

bài làm

  • Chồng người đánh giặc sông Lô

Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần

Chồng người cưỡi ngựa bắn cung

Chồng em ngồi bếp cầm thun bắn ruồi.

  • Con cò chết rũ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngày làm ma.

Cà cuống uống rượu la đà,

Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,

Chào mào thì đánh trống quân

Chim chích cởi trần,vác mõ đi rao.

B[sửa]

  • Bà Bảy đã tám mươi tư

Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng.

  • Bà già đi chợ Cầu Đông

Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?

Thầy bói gieo quẻ nói rằng,

Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn

  • Bước sang tháng sáu nước giá chân,

Tháng chạp nằm trần bức đổ mồ hôi.

Con chuột kéo cầy nồi nồi,

Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.

Vườn rộng thì thả rau rong.

Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa.

Đàn bò đi tắm đến trưa,

Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.

Voi kia nằm ở gậm giường,

Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.

Chuồn kia thấy cám liền ăn,

Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.

  • Bao giờ cho đến tháng ba,

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.

Hùm nằm cho lợn liếm lông,

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười

Con gà nậm rượu nuốt người lao đao

Lươn nằm cho trúm bò vào

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô

Thóc giống cắn chuột trong bồ

Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu

Chim chích cắn cổ diều hâu

Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.

  • Buồn buồn ngồi đốt đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Khói bay lên tận thiên tào

Ngọc Hoàng phán hỏi: thằng nào đốt rơm?

Đ[sửa]

  • Đồn rằng quan tướng có danh

Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai.

Vua khen rằng: Ấy mới tài,

Ban cho cái áo với hai hào tiền.

Đánh giặc thì vào trước tiên

Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra

Giặc sợ, giặc chạy về nhà

Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân.

H[sửa]

  • Học hành ba chữ lem nhem

Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua

  • Hai tay cầm hai quả hồng,

Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.

Đêm nằm vuốt bụng thở dài,

Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.

Hoài hơi mà đấm bị bông

Đấm được bên nọ, nó phồng bên kia.

  • Hoa thơm ai chẳng muốn đeo

Người khôn ai nỡ cứ theo nặng lời

N[sửa]

  • Nhà cô có con chó đen

Người lạ nó cắn, người quen nó mừng

Một hôm uống rượu lâng lâng

Người quen nó cắn, nó vồ gãy tay

ngày nay cưỡi ngựa bắn cung

ngày sau cưỡi chó lấy thun bắn ruồi

S[sửa]

  • Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai

... Chập chập thôi lại cheng cheng

Con gà trống thiến để riêng cho Thầy

Đơm xôi thì đơm cho đầy

Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng

Hòn đất mà biết nói năng

Thì thầy Địa lý hàm răng chẳng còn

Tử vi xem số cho người

Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

Còn duyên, anh cưới ba heo

Hết duyên, anh cưới con mèo cụt đuôi.

*

Còn duyên, kén cá chọn canh

Hết duyên, ếch đực cua kềnh cũng vơ.

*

Lỡ duyên em phải ưng anh

Tiếc con tôm bạc nấu canh rau dền.

*

Lêu lêu mắc cỡ lêu lêu

Hồi nói không gả, nay kêu không thèm.

*

Muốn ăn gắp bỏ cho người,

Gắp đi gắp lại, lại rơi vào mình.

*

Xưa nay thế thái nhân tình

Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.

*

Nghèo mà làm bạn với giàu,

Đứng lên ngồi xuống nó đau cái đì.

*

Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu
Đến khi hùm dậy, đầu lâu chẳng còn.

*

Đắc thời đắc thế thì khôn
Sa cơ rồng cũng như giun khác gì.

*

Sống thì cơm chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi.

*

Thế gian chuộng của, chuộng công
Nào ai có chuộng người không bao giờ.

*

Mai mưa, trưa nắng, chiều nồm
Trời còn luân chuyển, huống mồm thế gian.

*

Làm trai cho đáng nên trai
Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.

*

Làm trai cho đáng nên trai

Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu.

*

Làm trai cho đáng nên trai

Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con.

*

Trống chùa ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng, thành riêng.

16 tháng 4 2020

Bài 1 :

Các biện pháp nghệ thuật cùng được sử dụng trong bốn bài:

   + Sử dụng thể thơ lục bát truyền thống.

   + Sử dụng phép liệt kê.

   + Sử dụng phép ẩn dụ, tượng trưng, nói ví von.

   + Lối nói tương phản.

   + Giọng điệu châm biếm, giễu nhại.

Bài 2 :

– Đối tượng châm biếm:

+ Những loại người có thói hư tật xấu trong xã hội.

+ Những thói hư tật xấu, hủ tục trong xã hội.

– Nội dung châm biếm:

+Những thói xấu trong xã hội: lười biếng, sĩ diện hão, mê tín dị đoan, giấu dốt,…

+ Những mặt trái, mặt khuất của xã hội: sự bất công, những hủ tục, luật lệ làng xã rườm rà,…

-hình thức gây cười : 

+ Lối nói phóng đại, ẩn dụ, tượng trưng.

+ Phép tương phản, đối lập.

21 tháng 9 2016

a) 1-    Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

2-  Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.   

3-    Thân em như con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay !

* ý nghĩa của bài 1: Người khôn ở đây đâu chỉ là cái hơn người bởi hiểu nhiều hay biết rộng, tính toán tài. Cái khôn ở đây ý nói tới tấm lòng nhân ái. Đó cũng là người biết trân trọng con người vì hiểu rõ cái lý con người vốn bình đẳng. Đó là con người có trí tuệ hiểu rõ đạo lý của cuộc đời. 

Rửa mặt là sự coi trọng. Người theo đạo Hồi trước khi đọc Kinh bao giờ cũng rửa mặt. Tín đồ Phật giáo Đại Thừa trước khi vào khóa lễ đọc Kinh hay tụng chú thường rửa tay rửa mặt và đọc các câu chú tịnh thân - khẩu và ý. Rửa chân ám chỉ sự khinh miệt. Chỉ có những kẻ kiêu căng, cậy giàu sang hoặc những kẻ hủ lậu phong kiến mới có thái độ khinh khi người phụ nữ và coi họ như thứ đồ chơi. 

ý nghĩa câu 2: Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá nhỏ bé, gần như vô nghĩa. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau.

Sự rủi may của hoàn cảnh không thể nào đoán định trước được. Nó có thể dẫn đến những điều trái ngược hoàn toàn trong cảnh ngộ. Giữa muôn ngàn hạt mưa, một số hạt may mắn không rơi xuống giếng, không mất hút vào luống cày mà lại rơi vào vườn hoa, vào chốn lầu son gác tía đài các.
​ý nghĩa câu 3: Tấm lụa đào đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa nhẹ, mềm và rất mát, mặc vào thì người đẹp hẳn lên. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua", đủ loại người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật nhưng chắc gì đã có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, những hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.
 
21 tháng 9 2016

bạn tự cắt ngắn đi nhé!

13 tháng 12 2016

- Nội dung của những câu hát châm biếm : Phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán những thói hư tật xấu, và những sự việc đáng cười trong cuộc sống

- Nghệ thuật của những câu hát châm biếm :

+ Nghệ thuật trào lộng dân gian

+ Hình ảnh ẩn dụ, biện pháp nói ngược

+ Phóng đại, nói quá

+ Hình ảnh quen thuộc

13 tháng 12 2016

Cảm ơn bạn nhìu nha!!!vui

12 tháng 10 2020

Mỗi chúng ta đều được lớn lên trong tiếng ru ngọt ngào của bà, của mẹ. Tuổi thơ của chúng ta luôn được đắm chìm trong tiếng sáo diều vi vút trong trẻo và những lời ru, những câu chuyện cổ tích chứa chan nghĩa tình. Và ở nơi đó chúng ta học được bao nhiêu điều hay, lẽ phải. Rất khéo léo và trữ tình, cha ông ta đã gửi gắm những lời giáo dục đạo đức trong những câu ca ngọt ngào. Em đã vô cùng xúc động và thấm thía khi nghe câu ca dao:Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy raMột lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chữ hiếu mới là đạo conĐây là câu ca dao vô cùng quen thuộc đối với mỗi người. Câu ca đơn giản và vô cùng dễ hiểu nhưng nội dung lại rất sâu sắc và thấm thía. Bài ca dao nói đến công ơn to lớn của cha mẹ và giáo dục đạo lí làm con. Nhân dân ta đã ví công lao của cha mẹ với những hình ảnh hùng vĩ, to lớn. Công cha sừng sững như Thái Sơn – ngọn núi lớn. Hình ảnh so sánh mạnh mẽ và hùng vĩ, vững chãi. Tục ngữ đã có câu: “Con không cha như nhà không nóc”. Người cha là chỗ dựa vững chắc cho những đứa con. Hình ảnh so sánh mang đầy ý nghĩa. Ngọn núi Thái Sơn biểu tượng cho sự vững chãi của người cha. Và càng thú vị hơn khi tìm hiểu ý nghĩa của cặp “Công cha – nghĩa mẹ”. Cha có công nuôi dưỡng giáo dục, mẹ là người mang nặng đẻ đau và sinh thành ra ta. Công cha lớn bao nhiêu thì nghĩa mẹ vô tận bấy nhiêu. Bên cạnh người cha vững chãi như Thái Sơn là mẹ hiền với bao yêu thương. “Nước trong nguồn” vừa trong lành, mát rượi vừa không bao giờ vơi cạn. Hai hình ảnh tạo nên những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa. So sánh giản dị, đời thường mà sao sâu sắc đến vậy. Hai hình ảnh so sánh vừa có ý nghĩa biểu tượng, vừa thể hiện được tính chất của “công cha – nghĩa mẹ”. Cha là núi Thái Sơn bởi chja là người che chở, là chỗ dựa và cũng là đỉnh cao để con hướng tới. Còn mẹ luôn dịu dàng, chăm sóc, yêu thương. Tình thương của mẹ là dòng sữa ngọt lành nuôi ta lớn lên, là lời ru ngọt ngào đưa ta vào những giấc ngủ êm đềm, là những bữa cơm ngon, làn gió mát. Tình thương của cha mẹ dành cho con là vô bờ, chỉ có thể so sánh với những gì vĩ đại nhất của thế giới này. Cha nẹ cho ta cuộc sống, dạy ta cách sống và là chốn bình yên nhất để ta hướng đến mỗi khi nỗi nhọc nhằn của cuộc sống đè nặng lên vai. Mái nhà thân yêu, nơi có mẹ có cha ta chính là bến đỗ bình yên và an toàn trong cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ Nga Êxênin đã từng viết về mẹ như thế:Chỉ mẹ là niềm vui ánh sáng diệu kìChỉ mình mẹ giúp đời con vững bướcVì thế mỗi chúng ta phải biết thương yêu, quý trọng cha mẹ, dù còn nhỏ hay đã trưởng thành đều phải biết nghe lời cha mẹ, phải sống cho trọn đạo hiếu. Cha ông đã từng nói:Cá không ăn muối cá ươnCon cưỡng cha mẹ, trăm đường con hưBài ca dao đã nhắc nhở bổn phận làm con của mỗi người. Mỗi chúng ta đều cảm nhận được tình yêu thương mà cha mẹ đã dành cho mình, chúng ta tự biết mình phải sống, phải lao động và học tập như thế nào để không phụ công nuôi dưỡng, thương yêu của mẹ cha. Làm một người tốt, đó là sự trả ơn, là đạo hiếu lớn nhất mà mỗi người con có thể đền đáp cho những nỗi nhọc nhằn của cha mẹ

12 tháng 10 2020

hình như bạn lạc đề rồi Nguyện Việt Anh à

-Khái niệm:

 + Than thân và châm biếm:

* Ca dao, dân ca thuộc loại trữ tình, phản ánh tâm tư tình cảm, thế giới tâm hồn của con người (trữ: phát ra, bày tỏ, thể hiện ; tình: tình cảm, cảm xúc). Nhân vật trữ tình phổ biến trong ca dao, dân ca là những người vợ, người chồng, người mẹ, người con,... trong quan hệ gia đình, những chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu, người nông dân, người phụ nữ,... trong quan hệ xã hội. Cũng có những bài ca dao châm biếm phê phán những thói hư tật xấu của những hạng người và những sự việc đáng cười trong xã hội. Ca dao châm biếm thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.

- Phân tích bài ca dao 2 và 3

+Bài ca dao 2:

*Những nỗi thương thân của người lao động thể hiện qua các hình ảnh ẩn dụ trong bài ca dao số 2: thương con tằm là thương cho thân phận bị bòn rút sức lực cho kẻ khác; thương lũ kiến li ti là thương cho thân phận bé nhỏ suốt đời phải làm lụng kiếm miếng ăn; thương cho con hạc là thương cho cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mỏi mệt không có tương lai (biết ngày nào thôi); thương cho con cuốc là thương thân phận thấp bé, dù có than thở đến kiệt sức thì cũng không có người động lòng, thương xót.

Bốn con vật, bốn nỗi khổ, bốn cảnh ngộ đáng thương khác nhau làm nên nỗi khổ nhiều bề của thân phận người lao động.

+ Bài ca dao 3:

- Trái bần, tên của loại quả đồng âm với từ bần có nghĩa là nghèo khó.

- Hình ảnh trái bần trôi nổi. Không những thế, nó còn bị gió dập, sóng dồi. Sự vùi dập của gió, của sóng làm cho trái bần đã trôi nổi, lại càng bấp bênh vô định. Nó chỉ mong được dạt, được tấpvào đâu đó nhưng nào có được. Câu ca dao là lời than của người phụ nữ trong xã hội cũ về cuộc đời nghèo khó, phải chịu bao sóng gió của cuộc đời và không thể tự quyết định được số phận của mình.

-  3 câu ca dao bắt đầu bằng cụm từ '' thân em''

                                     - Thân em như hạt mưa sa

                                  Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

                                      -Thân em như hạt mưa rào 

                              Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

                                     - Thân em như trái bần trôi

                                Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu

- Các bài ca dao này thường nói về thân phận gian nan, vất vả, thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội xưa.

- Về nghệ thuật, ngoài mô típ mở đầu bằng cụm từ thân em (gợi ra nỗi buồn thương), các câu ca dao này thường sử dụng các hình ảnh ví von so sánh (để nói lên những cảnh đời, những thân phận, những lo lắng khác nhau của người phụ nữ).

 

16 tháng 10 2018

Cuộc đời vốn đa sắc, đa màu, muôn hình, muôn vẻ. Văn học dân gian trong đó có ca dao đã phản ánh được điều ấy. Trong ca dao ta bắt gặp cảnh đẹp làm ngơ ngẩn lòng người của non sông, đất nước. Cũng có khi gặp những cảnh ngộ tnương tâm, sự ngược đời khiến ta không nén nỗi thương cảm. Lại có những câu hát châm biếm trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 khiến ta phải bật cười. Cái cười trong chùm ca dao cũng đa dạng, phong phú: cười đả phá cái xấu, đề cao cái tốt, cười chua xót, mỉa mai.

Đọc bài ca dao thứ nhất ta tưởng đó là lời một cô cháu ngoan đang hăm hở đi tìm vợ cho chú minh. Nhưng thử đọc kĩ xem, ta sẽ nhận ra sự bất thường của việc đi tìm vợ cho chú. Để được cô yếm đào ưng thuận làm vợ chú, bản "lí lịch" của chú được hé lộ dần qua lời của đứa cháu. Nào là thích rượu chè, thích ngủ muộn, nằm ườn thích những ngày mưa, thích đêm kéo dài. Để làm gì ư: ngày mưa để khỏi phải ra đồng cày cấy, đêm thừa trống canh để ngủ cho no mắt... tóm lại toàn là những thói xấu mà người lao động xưa thậm ghét. Điều thú vị là tất cả những thói xấu đó được nói một cách rất lạc quan, mà mới đọc ta có cảm tưởng như đó là lời khen, khen ông chú tài giỏi. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán lại rất sâu cay qua từ "hay" được hiểu theo cả hai nghĩa, lối chơi chữ được kết hợp với điệp từ và cách nói ngược... tất cả làm cho lời mỉa mai cứ nhẹ tênh như là biểu dương, khâm phục. Chân dung ông chú chính là đại diện tiêu biểu cho những gã đàn ông lười nhác, những gã chồng hèn chỉ biết bám váy vợ, kiểu như:

Chồng người đi ngược về xuôi

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo

Hay:

Chồng người năng vũ năng văn

Chồng tôi chỉ chủ miếng ăn

Đong ít thì nó cằn nhằn

Bốc thêm nắm nữa nó nhăn răng cười.

Tạm biệt ông chú lười chảy thây ấy, ta lại chiêm ngưỡng chân dung một ông thầy bói giả cầy. Một loạt những điều hiển nhiên, vớ vẩn đến trẻ con cũng biết lần lượt xuất hiện trong lời của thầy:

Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

Những điều vốn thế, hiển nhiên thế chẳng cần phải tìm đến bói toán người ta cũng biết lại được thầy nói bằng cái vẻ nghiêm trang, nghiêm trọng. Lại nữa, bằng cách nói nước đôi theo kiểu chẳng thế này thì thế nọ. Chấn tướng của thầy càng rõ hơn. Bộ mặt thật của kẻ chuyên lừa bịp kiếm tiền bị vạch trần, bị phơi bày, bị lôi ra ánh sáng. Nhục nhã và xấu xa, hắn xứng đáng để người ta mỉa mai, bêu riếu. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tác giả dân gian còn muốn phê phán những người mê tín đến mức lú lẫn, không phân biệt đâu là thực, là hư. Tìm đến lễ bái vu vơ, tiền mất mà tật mang, mua thêm nỗi lo lắng vào lòng. Bời thế tiếng cười lại đa sắc, đa diện và ý nghĩa của nó lại càng thấm thìa, sấu xa. 
Bài ca dao thứ ba lại vẽ ra cảnh thương tâm của một đám tang ở nông thôn xưa qua hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa. Tang chủ là gia đình cò - một thân phận bé mọn tận cùng của xã hội và cái chết thật thương tâm:

Con cò chết rũ trên cây

Hình ảnh cò "chết rũ" khiến cho ta liên tưởng đến cái chết vì đói khát, chết vì kiệt sức khi không có nổi miếng ăn. Vậy mà, đã chết rồi, cò vẫn không được yên. Khốn khổ cho cái gia đình cò ấy khi có người nằm xuống, mất mát, đau thương tưởng có người sẻ chia, ai ngờ. Xa gần kéo đến rất đông nào cà cuống, chim ri, chào mào, chim chích... nhưng hẳn là chẳng để chia buồn vì cái ồn ào, láo nháo không chút tang ma kia đã nói lên điều đó. Chúng đến để "uống rượu la đà", để "ríu rít bò ra lấy phần", để "đánh trống quân"... nghĩa là để làm cho gia đình tang chủ thêm rối ren, trong lúc vốn đã rối lên vì có người chết. Mỗi một con vật, một hành động là một ẩn dụ cho một loại người, hạng người, một việc làm của con người. Tang ma vốn là một việc hiếu, việc nghiêm trọng, việc để mọi người chia sẻ bỗng bị biến thành màn hài kịch, biến thành cơ hội để tất cả xúm vào xâu xé, kiếm chác, đánh chén no say, chia chác om sòm. Mỉa mai thay, đau đớn thay. Đằng sau những lời ca châm biếm ấy là giọt nước mắt cảm thương cho gia đinh cò, cảm thương cho những kiếp người bé mọn phải chịu khổ trăm bề. Bài ca dao cũng là lời tố cáo, lên án hủ tục ma chay lạc hậu ở nông thôn xưa. Lời ca dao vì thế mà khiến cho mỗi người không thể dửng dưng trước nỗi đau của người khác, nhắc nhở người ta bài học về sự cảm thông và chia sẻ.

Cuối cùng là chân dung "cậu cai" với "nón dấu lông gà" hiện lên khá oai, oách:

Cậu cai nón dấu lông gà

Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai

Ba năm được một chuyến sai

Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê

Tìm một cách "định nghĩa" về cậu cai, người dân muốn vạch trần bản chất, vạch trần sự thật về bọn tay sai cho giai cấp thống trị. Hãy thử xem cậu cai thuộc thứ hạng gì trong cái bộ máy cai trị, bóc lột ấy nhé. Trong bộ máy cai trị ấy, nhỏ nhất là cậu lệ (cậu lính lệ) và cậu cai kia, hơn hẳn cậu lính lệ một bậc. Thật oách, trong con mắt dân đen phải không. Và bởi thế, xét cho cùng chả là gì cả nhưng cậu vẫn tha hồ lên mặt với dân, bắt nạt dân làng, lắng nhắng, lắm sự. Cũng bởi thế, người dân được nhìn tận mặt cậu cai, bởi được cái vố "nón dấu lông gà", "ngón tay đeo nhẫn" của cậu. Họ phát hiện ra cái sự thật nực cười mà cậu cai cố tìm cách dấu đậy nó đi:

Ba năm được một chuyến sai

Áo ngắn đi mượn, quằn dài đi thuê

Thảm hại biết bao vì tất cả những thứ hào nhoáng kia đều thuộc về người khác, cậu ta chả có gì, chả là cái gì vậy mà lại hay khoe mẽ. Thân phận rờm, uy quyền cũng rởm, tác giả dân gian đã vạch trần con người thật của cậu cai, phơi cậu ta ra trước bàn dân thiên hạ, gọi tất cả ánh mắt hướng về. Nhưng nếu chỉ "cởi trần" cái nhân vật cậu cai kia thôi thì chưa có nhiều điều để nói, cũng không phải là mục đích của người xưa. Đằng sau cậu cai là cả một tập hợp những kẻ rởm như cậu. Nghĩa là, tất cả bọn tay sai của tầng lớp thống trị, của những ông quan cai trị người Pháp đều một duộc như cậu cai. Hào nhoáng, lố lăng nhưng bản chất thì tầm thường và quyền hành chỉ là cái vỏ mà chúng thì luôn sống trong ảo tưởng. Dùng phép đối trong hình ảnh, thâm ý của tác giả dân gian thật sâu sắc. Vừa thổi chúng bay lên chín tầng mây ở hai câu đầu thì lại kéo chúng rơi xuống thực tại mỉa mai. Vừa khoác lên người chúng nón dấu lông gà, áo ngắn, quần dài vừa vạch trần chúng ra, phơi bày con người thật trước bàn dân thiên hạ. Ta thì hả hê cười, còn hẳn bọn chúng sẽ tím ruột, tím gan khi đọc những câu ca dao thâm thúy như thế. Tác giả dân gian quả thật rất tài.

Mỗi bài ca dao một cách cười, một kiểu cười, một ẩn ý sâu sa. Tuy nhiên, điểm gặp gỡ của cả bốn bài ca dao là thái độ phê phán những con người xấu xa, những sự việc, hiện tượng, những hủ tục rườm rà, sự bóng bẩy hào nhoáng mà không thực chất. Qua đó, tác giả muốn xem nó như một vũ khí để loại bỏ cái xấu, cái ác để cuộc sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Xưa nhưng không cũ, tiếng cười phê phán và những sự việc, con người bị đem ra phê phán trong bài ca dao ta vẫn có thể bắt gặp trong cuộc sống ngày nay. Bởi thế, hơn ai hết, ta hãy biết dùng tiếng cười để điều chỉnh mình, hoàn thiện mình và sống đẹp hơn.

12 tháng 11 2018

1.    Cái cò lặn lội bờ ao,
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đèm thì ước những đêm thừa trống canh.

2.    Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà
Số cô có mẹ có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

3-    Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.

4.    Cậu cai nón dấu lông gà,
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.

Những câu hát châm biếm trên phê phán các thói hư tật xấu qua một số hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và qua lối nói trào lộng gây cười.

Bài thứ nhất là lời giới thiệu, quảng cáo về nhân vật chú tôi. Chân dung của người chú là bức biếm họa được vẽ toàn bằng những nét giễu cợt, mỉa mai.
Hai câu mở đầu: Cái cò lặn lội bờ ao, Hỡi cô yểm đào lấy chú tôi chăng làm nhiệm vụ bắt vần và chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật.

Cô yếm đào là hình ảnh tương phản với hình ảnh của nhân vật chú tôi. Chiếc yếm đào tượng trưng cho những cô gái nông thôn trẻ, đẹp. Xứng đáng lấy cô yếm đào phải là chàng trai chăm chỉ, giỏi giang chứ không thể là người có nhiều thói hư tật xấu.

Cái cò giới thiệu về chú của mình với cái giọng cố làm ra vẻ phô trương, trịnh trọng: Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ý nghĩa phê phán, chỉ trích nằm cả ở từ hay. Theo cách hiểu dần gian thì hay có nghĩa là tài giỏi, nhưng trong văn cảnh này thì nó có nghĩa ngược lại. Tưởng hay lam hay làm, ai dè lại hay rượu hay chè đến mức nghiện ngập, bê tha. Ý mỉa mai của từ hay còn hàm chứa ở tầng nghĩa sâu hơn nữa. Tuổi thanh niên sức dài vai rộng mà không lo chí thú làm ăn, lại chấp nhận sống đời tầm gửi thì quả là chẳng đáng mặt làm trai. Người xưa có câu: Làm trai cho đáng nên trai, xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên… để khẳng định khí phách nam nhi. Bên cạnh đó cũng có câu: Đời người ngắn một gang tay, Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang với nội dung phê phán những kẻ siêng ăn nhác làm. Nhân vật chú tôi trong bài ca dao trên là loại người như thế.

Câu ca dao cụ thể hoá sự lười biếng của nhân vật chú tôi thành những điều ước trái lẽ tự nhiên: Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Anh ta ước những ngày mưa để không phải đi làm và ước những đêm thừa trống canh để được tha hồ ngủ. Vậy là ngoài nghiện rượu, nghiện chè, chú tôi lại còn thêm nghiện… ngủ (!) Rõ là con người lắm thói hư tật xấu, rất đáng chê cười.

Thông thường, để tác thành việc nhân duyên cho ai, người đứng ra mai mối phải nói tốt, nói đẹp cho người đó. Nhưng ở bái ca dao này thì ngược lại. Bài ca dùng ngôn ngữ hài hước, châm biếm để giới thiệu nhân vật chú tôi – tiêu biểu cho hạng người bất tài vô dụng. Liệu có cô yếm đào nào đủ can đảm để trao thân gởi phận cho những “ông chồng” như thế ?!
 
Bài ca dao thứ hai nhại lại lời của ông thầy bói nói với người xem bói. Nó “ghi âm” một cách khách quan chứ không đưa ra lời bình luận, đánh giá nào. Đây là nghệ thuật dùng “gậy ông đập lưng ông”, có tác dụng gây cười và châm biếm rất thâm Thúy.
 
Chúng ta thử nghe xem ông thầy bói giỏi giang kia đã phán những gì ? Ông ta phán toàn những chuyện hệ trọng mà người đi xem bói (là nữ) rất quan tâm: giàu – nghèo, cha – mẹ, chồng – con. Chuyện nào thầy cũng nói vanh vách và hết sức cụ thể. Chỉ buồn cười là thầy nói theo kiểu nước đôi (!) Thầy khẳng định như đinh đóng cột những sự việc hiển nhiên mà người trần mắt thịt nào cũng thấy, cũng biết, chẳng cần đến thần thánh phán bảo qua miệng lưỡi trơn tru, dẻo quẹo của thầy.
 
Dân gian quan niệm rằng Con người ta có số. Mỗi người một số phận khác nhàu, có kẻ giàu, người nghèo, có kẻ sang, người hèn. Thầy bói phán Ị Số cô không giàu thì nghèo, có nghĩa là bất luận thế nào thì lời thầy cũng đều đúng cả (!) Nói về ba ngày Tết, tục ngữ có câu: Đói quanh năm, no ba ngày Tết. Dù giàu dù nghèo thì mỗi nhà cũng cố mà lo cho được miếng thịt, đĩa xôi để cúng tổ tiên, ông bà, đó là lẽ đương nhiên. Nhà cô Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà, chắc chắn là thế, thầy chẳng có nói sai đâu (?!)
 
Tính chất trào lộng, châm biếm của bài ca dao được đẩy lên tới điểm đỉnh ở những lời thầy phán về phụ mẫu: Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông và về nhân duyên: Sô cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. Điệp từ Số cô được đặt ở đầu mỗi câu và lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người đọc hình dung lão thầy bói cố làm ra vẻ trịnh trọng, thiêng liêng nhưng thực chất là thủ đoạn lừa bịp để moi tiền của những người nhẹ dạ, cả tin. Tiếng cười đả kích, phê phán bật lên từ đó. Ca dao có câu châm biếm hạng người lười biếng, chuyên đi lừa đảo, dụ dỗ người khác: Thầy đi xem bói cho người, Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.
 
Cách nói ỡm ờ nước đôi trong bài đã lật tẩy bản chất giả dối của những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng lòng tin của người khác để trục lợi. Bài ca dao cũng phê phán sự mê tín đến mức mù quáng của không ít người trong xã hội đương thời. Với nội dung tích cực như vậy nên cho đến nay, bài ca dao vẫn nóng hổi ý nghĩa thời sự.
 
Bài ca dao thứ ba vẽ lên cảnh tượng một đám ma theo tục lệ cũ. Mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, một hạng người trong xã hội. Con cò tượng trưng cho người nông dân nghèo. Cà cuống tượng trưng cho những kẻ có máu mặt như lí trưởng, chánh tổng và đám chức dịch trong làng. Lũ chim ri, chào mào gợi liên tưởng tới bọn cai lệ, lính lệ tay sai; Chim chích giống như anh mõ chuyên đi rao việc làng trong các tích chèo cổ.
 
Người xưa chọn các con vật để “đóng vai” như thế là nhằm mục đích mượn thế giới loài vật để nói về xã hội loài người (giống truyện ngụ ngôn). Từng con vật với những đặc điểm riêng là hình ảnh sinh động tiêu biểu cho từng loại người, hạng người trong xã hội phong kiến đương thời. Do vậy mà nội dung châm biếm, phê phán của bài ca dao trở nên kín đáo hơn, sâu sắc hơn.
 
Cảnh được miêu tả hoàn toàn trái ngược với cảnh tượng thường thấy ở một đám ma. Cuộc đánh chén lu bù, vui vẻ diễn ra trọng không khí tang tóc. Con cò có thể chết vì đói khát, vì bệnh tật nhưng cái chết thương tâm của nó lại bị biến thành dịp kiếm chác béo bở cho những kẻ bất nhân, bất nghĩa. Bài ca dao châm biếm hủ tục ma chay trong xã hội cũ. Tàn dư của hủ tục ấy đến nay vẫn còn, chúng ta cần phê phán mạnh mẽ để loại trừ nó ra khỏi đời sống văn minh.
 
Bài ca dao thứ tư miêu tả chận dung anh chàng cai lệ – kẻ đứng đầu đám lính canh gác và phục dịch ở phủ, huyện thời xưa. Chỉ cần phác họa vài nét là bức biếm họa sinh động về chân dung cậu cai đã hiện lên đầy đủ trước mắt người đọc.
 
Trước tiên phải kể đến cái bề ngoài nhố nhăng của cậu cai. Đầu đội nón dấu lông gà, chứng tỏ cậu cai là lính, nhưng chỉ tiết ngón tay đeo nhẫn lại đặc tả tính thích phô trương, làm dáng và trai lơ của cậu. Tính cách này cũng được miêu tả trong một số bài ca dao khác, ví dụ như: Cậu cai buông áo em ra, Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa…
 
Lâu lâu được các quan phủ, quan huyện sai phái đi làm một công việc nào đấy, dù là việc vặt thì cậu cai cũng coi đó là dịp may để phô trương “quyền lực”. Khổ nỗi về hình thức, cậu chẳng có cái gì ra hồn để thị oai với thiên hạ. Do vậy mà cậu phải vất vả xoay sở sao cho đủ bộ: Áo ngắn đi mượn quần dài đi thuê. Chính cách ăn mặc xộc xệch, tạm bợ ấy tự nó đã nói lên cái thân phận bé mọn đến thảm hại của kẻ đầy tớ chôn công đường. Đã vậy mà cậu cai vẫn còn cố khoe mẽ, vênh váo, cáo mượn oai hùm để bắt nạt người dẫn nghèo thấp cổ bé họng.
 
Nghệ thuật trào lộng trong bài ca dao này thật đặc sắc. Người xưa châm biếm ngay trong cách gọi anh chàng cai lệ là cậu cai, mới nghe qua tưởng trầm trọng nhưng thực ra đó là thái độ mỉa mai, phê phán thói háo danh đến mức lố lăng, kệch cỡm của những kẻ có tí chức quyền, dù là bé cỏn con, không đáng kể.
 
Chân dung cậu cai được “định nghĩa” vẻn vẹn trong hai dòng lục bát và cái gọi là uy quyền của cậu cai tất tật cũng chỉ có bấy nhiêu thôi. Bài ca đặc tả chân dung nhân vật bằng vài nét “điểm chỉ” rất chọn lọc và đắc địa. Qua trang phục và công việc, cậu cai xuất hiện như một kẻ bắng nhắng, đáng cười.
 
Tác giả dân gian đã sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại để châm biếm cái gọi là quyền hành và thân phận thảm hại của cậu cai. Chi tiết : Ba năm được một chuyến sai là phóng đại. Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê cũng là phóng đại. Thế nhưng đằng sau chuyện như đùa ấy lại là một sự thật khác: Cậu cai đã bỏ tiền túi ra  thuê mướn áo quần, thì chắc “cậu” phải kiếm chác ra trò để gỡ gạc lại cho bõ chuyến sai ba năm mới có một lần.
 
Thời trước, tiếp xúc với hạng cai đội, dân nghèo thường phải chịu sự sách nhiễu của chúng. Vì vậy, họ rất hiểu và coi thường hạng người này. Bức biếm họa bằng ngôn ngữ đã thể hiện thái độ mỉa mai, khinh ghét pha chút thương hại của người dân đối với đám tay sai của giai cấp phong kiến thống trị.
15 tháng 10 2018

Bạn lên google tìm đi !

23 tháng 9 2016

Những nội dung than thân, châm biếm trong các bài ca dao đã và đang sử dụng trong xã hội ta ngày nay. Ví dụ:

* Than thân: Gánh cực mà đỗ lên non, Cong lưng mà chạy,cực còn theo sau.

*Châm biếm: Con mèo mà trèo cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà Chú chuột đi chợ đàng xa Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.