Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo nhé em:
Xin chào đồng hương Hưng Yên:
1. Con cò mà đậu cành tre
Ông tây bắn súng cò què một chân
Sáng mai mẹ cõng chợ Bần
Mọi người mới hỏi sao chân cò què
Cò rằng cò đậu ngọn tre
Ông tây bắn súng cò què một chân
2.Tân Dân một tháng ba mươi sáu trận chống càn
Xác thù chất đống máu loang đầy đồng
3. Mấy năm Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng dính nồi, trẻ khóc như ri
4. Đống xương Thiết Trụ, vũng máu Nghi Xuyên
Cây đa Đông Tảo còn in hận thù
5. Ai vào mảnh đất Đường Hào
Có cụ Tán Thuật đào hào đánh tây
6. Chớ tham đồng bạc con cò
Bở cha ***** đi phò thằng tây
Chuyện đâu có chuyện lạ đời Quan đi theo giặc bắt người lành ngay Ngàn năm nhớ mãi nhục này Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù Bốt Bần ngày thánhg âm u
7.Lính vua, lính chúa, lính làng
Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua bắt lính đàn bà
Để em đi đỡ anh vài bốn năm Lên Bần, xuống Thứa, chợ Dầm Quanh đi quanh lại ba năm em về.
8.Thằng Tây súng ngắn, súng dài Dân tao:
Vồ, gậy, dao bài, câu liêm.
Trường kỳ tao đánh ngày đêm
Đánh cho mày phải đảo điên tơi bời
Văn Giang chẳng phải đất chơi.
Văn Giang là huyện phía bắc tỉnh Hưng Yên
chỉ có nhiêu đây thôi ;-; - Công đâu công uổng công thừaCông đâu gánh nước tưới dừa Tam quan- Ai về Bình Định mà xemCon gái Bình Định múa roi đi quyền- Bình Định có núi vọng phuCó đầm Thị nại, có Cù Lao XanhAi về Bình Định cùng anhĐược ăn bí đỏ nấu canh nước dừa- Ai về Ðập Ðá quê chaGò Găng quê mẹ, Phú Ða quê nàng...- Ai về Bình định thăm bàGhé vô em gởi lạng trà Ô longTrà Ô long nước trong vị ngọtTình đôi mình như đọt mía lau- Anh đi bờ lở một mìnhPhất phơ chéo áo giống hình trò BaTrò Ba đi học trường xaCơm canh ai nấu mẹ già ai coi- Củ lang Ðồng phóÐậu phộng Hà nhungChồng bòn thiếp mót bỏ chung một gùiChẳng may duyên nợ sụt sùi- Muốn ăn bánh ít lá gaiLấy chồng Bình Định cho dài đường đi- Ai về Tuy Phước ăn nemGhé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm- Ai về dưới Vạn Gò BồiBán mắm, bán cá lần hồi thăm em.- Mảng vui Hương Thủy, Ngự BìnhAi vô Bình Ðịnh với mình thì vôChẳng lịch bằng đất kinh đôNhưng Bình định không đồng khô cỏ cháyBa dòng sông chảyBảy dãy non caoBiển Ðông sóng vỗ dạt dàoTháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh...
Đồn rằng Chợ Nội vui thay
Bên đông có miếu bên tây có chùa
Giữa chợ có miếu thờ vua
Đôi bên nước chảy đò đưa em về
Chợ Nội làng Trưa Nộĩã Đông Xuân, Huyện Đông Hưng, Thái Bình (Câu số 19890 )
Ai ơi giữ phép nước ta
Ai ơi thương lấy dân nhà một tông,
Có hậu dưỡng mới phú phong
Kẻ cày người cấy, sống trong thái bình
Kẻ, nho lo việc học hành
Mai sau chiếm bảng, nức danh trên trờI
Kẻ buôn thì được lắm lời
Tàng vương chi thị tứ thời bán mua
Kẻ công ai cũng tranh đua
Làm nghề chạm vẽ: phượng rùa, long, ly
Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề
Nhờ trời đều được, gặp khi thái hòa
Toàn dân vang khúc đạo ca .
Phạm Tuân quê ở Thái Bình
Quê hương đói khổ dứt tình bỏ đi
Sao không xin gạo, xin mì
Bay lên vũ trụ làm gì hỡi Tuân?
Đồn rằng Chợ Nội vui thay
Bên đông có miếu bên tây có chùa
Giữa chợ có miếu thờ vua
Đôi bên nước chảy đò đưa em về
Chợ Nội làng Trưa Nộĩã Đông Xuân, Huyện Đông Hưng, Thái Bình (Câu số 19890 )
Ai ơi giữ phép nước ta
Ai ơi thương lấy dân nhà một tông,
Có hậu dưỡng mới phú phong
Kẻ cày người cấy, sống trong thái bình
Kẻ, nho lo việc học hành
Mai sau chiếm bảng, nức danh trên trờI
Kẻ buôn thì được lắm lời
Tàng vương chi thị tứ thời bán mua
Kẻ công ai cũng tranh đua
Làm nghề chạm vẽ: phượng rùa, long, ly
Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề
Nhờ trời đều được, gặp khi thái hòa
Toàn dân vang khúc dao ca
Bình Định có hòn Vọng Phu
Có đầm Thị Nai có Cù Lao Xanh.
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.
.
Bình Định có núi Vọng Phu
Có Đầm Thị Nại có Cù Lao xanh.
.
Hầm Hô cữ nước còn đầy
Còn gương phấn dũng , còn ngày vinh quang
1.Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi.
2.Bình Định có núi Vọng Phu Có Đầm Thị Nại có Cù Lao xanh.
3.Công đau công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan.
4.Mẹ ơi đừng đánh con đau Để con đánh trống hát tuồng mẹ nghe.
5.Ai về Bịnh Định mà coi Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.
6.Ai về Bình định thăm bà Ghé vô em gởi lạng trà Ô long. Trà Ô long nước trong vị ngọt Tình đôi mình như đọt mía lau 7.Anh đi bờ lở một mình Phất phơ chéo áo giống hình t
Câu tục ngữ : Lá lành đùm lá rách.
Hiểu biết bằng bài văn sau:
Dân tộc ta lớn lên trên dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương sóng gió. Người Việt Nam đã từng chịu không biết bao tai trời ách nước: giặc giã, bão lụt, hoả hoạn, mất mùa, đói kém. Cứ mỗi lần cùng vượt qua mọi khó khăn, nhân dân ta lại nhắc nhở nhau cách sống: Lá lành đùm lá rách.
Ta cần tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của câu tục ngữ này như thế nào để hiểu cho đúng lời nhắn gởi của cha ông để lại?
Câu tục ngữ gợi lên một bài học về đạo lý làm người, về quan hệ giữa con người với nhau. Người ta ở đời, có người, có lúc gặp phải khó khăn, thiếu thốn, hoạn nạn. Lúc ấy, nếu chỉ một mình tự xoay xở lấy thì thật khó mà vượt qua. Trong hoàn cảnh đó, sự giúp đỡ của người khác, sự chia sẻ của người khác là rất quan trọng. Sự đùm bọc lẫn nhau, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn là một cách sống cần thiết đầy nhân ái.
Xét về giá trị của câu tục ngữ, ta thấy có một giá trị thiết thực. Nói Lá lành đùm lá rách là nói đến thái độ nhường cơm xẻ áo giữa những người vốn cùng chung cảnh ngộ, trong cùng một cộng đồng, trên cùng một đất nước. Tuy có lành có rách nhưng cũng là lá. Đây là chia sẻ, là thông cảm. Khi mọi người bị hoạn nạn, thì những người không bị hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, đó là lá lành đùm lá rách. Sự giúp đỡ của từng người có thể không nhiều, nhưng nhiều người hợp lại thì sự giúp đỡ lại trở nên rất có ý nghĩa, có thể giúp cho người hoạn nạn vượt qua khó khăn. Khi một phường, một vùng gặp hoạn nạn, thì những vùng bên cạnh cùng hợp lại, mỗi người một ít, mỗi nhà một ít, mỗi phường, mỗi huyện, mỗi tỉnh một ít, kết quả thành ra rất to lớn.
Lá lành đùm lá rách là cách sống và đạo lí đã có tự ngàn xưa của nhân dân Việt Nam. Có lẽ chính vì thế mà nhân dân Việt Nam đã vượt lên bao khó khăn có lúc tưởng chừng không vượt nổi để mãi mãi tồn tại vững vàng. Người ta nói: một miếng khi đói bằng gói khi no. Trong khi gặp hoạn nạn, người bị ít khó khăn còn chia sẻ cả với người nhiều khó khăn hơn. Giá trị nhân đạo sâu sắc của câu tục ngữ chính là ở đó.
Trải qua hơn ba mươi năm chiến tranh, rồi trong gần hai mươi năm xây dựng kinh tế, truyền thông lá lành đùm lá rách đã được nhân dân ta phát huy một cách mạnh mẽ. Chỉ nói riêng mấy năm gần đây, trên đất nước ta đã bao nhiêu lần thiên nhiên gây ra tai hoạ ghê gớm. Những trận bão tàn phá miền Trung, rồi lũ lụt ở đồng bằng Nam Bộ..., làm cho đồng ruộng bị tàn phá, lúa, hoa màu bị mất sạch, bao nhiêu nhà cửa, bệnh viện, trường học... bị phá huỷ. Những khi miền Trung, miền Nam gặp hoạn nạn, khó khăn, cả nước quan tâm theo dõi, kịp thời chia buồn và cứu trợ. Nhờ sự giúp đỡ kịp thời của cả nước, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh, dần dần các vùng này đã trở lại cuộc sống bình thường. Những tin tức về trận lũ vừa được loan báo, những lời kêu gọi đã được phát đi thì những hành động hưởng ứng đã đáp lại ngay. Có người góp vào quỹ cứu trợ hàng triệu đồng, cũng có bạn nhỏ tự mình mang đến một hai nghìn bạc vốn dành dụm từ món tiền ăn sáng của mình để góp phần nhỏ bé...
Một khía cạnh nào đó, hành động lá lành đùm lá rách không phải chỉ có ý nghĩa giúp đỡ người khác, mà còn chính là tự giúp đỡ mình. Thường khi gói bánh, lá lành nằm bên ngoài, lá rách nàm bên trong để gói. Gói như vậy thì chiếc bánh mới kín mới cứng. Giúp người khác, chia sẻ với người khác để người làng khác, tỉnh khác... vượt lên khó khăn, đứng vững, chính là góp phần cho đất nước đứng vững lên. Cuối cùng, cái kết quả tốt đẹp ấy, mỗi người đều được hưởng. Bởi vậy, lá lành đùm lá rách không còn là phương châm cho những hành động nhất thời, đặc biệt, mà trở nên một cách sống tốt đẹp trong cuộc sống chúng ta. Hằng ngày, vẫn có người lặng lẽ quyên góp tiền bạc, quần áo, cho một trại phong, trại nuôi dưỡng người già neo đơn, trại trẻ mồ côi, gia đình khó khăn, người tàn tật... Nhân những dịp lễ tết, những người trong phường lại chia sẻ với những bà con nghèo còn thiếu thốn.
Lá lành đùm lá rách, câu nói ngày xưa chỉ mang một nghĩa hẹp, nhằm kêu gọi sự đùm bọc lẫn nhau trong một nhà, một họ hay rộng lắm là một làng. Càng ngày, cùng với sự phát triển của đời sống, sự hiểu biết của con người, ý nghĩa của câu nói càng mang một nội dung nhân đạo sâu sắc và rộng rãi. Đây là một câu nói của tình thương đầy tính nhân đạo. Trong một xã hội, không có một sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của tình thương. Tình thương càng ngày càng phát triển thành tình cảm chung của mọi người, thành nếp sống phổ biến của xã hội thì tội ác cũng sẽ thu hẹp lại, xã hội sẽ ổn định hơn, tốt đẹp hơn. Cái thiện sẽ đẩy lùi cái ác.
Riêng bản thân em, câu tục ngữ lá lành đùm lá rách cũng gợi cho em nhiều suy nghĩ. Trong trường, trong lớp em, có không ít bạn hoàn cảnh rất khó khăn. Nhiều bạn đi học với chiếc áo vá, với cái bụng đói, ngoài giờ học còn phải vất vả phụ cha mẹ kiến sống hoặc tự nuôi mình. Nếu em bỏ đi một món mua sắm, tiêu xài chưa cần thiết, em cũng có thể giúp cho bạn mình đỡ chút khó khăn. Nhiều người làm được như vậy chắc chắn sẽ có ý nghĩa lớn hơn.
Lá lành đùm lá rách thật là một cách nói đầy sáng tạo và sâu sắc của người xưa. Tục ngữ không chỉ là văn chương mà còn là triết lí. Sống là phải quan tâm đến người khác, phải chia sẻ khó khăn cùng người khác. Đạo lý sống ấy thật là tốt đẹp mà ngày nay ta cần nuôi dưỡng, phát huy.
Học tốt
CA DAO VỀ ĐẤT ĐỒ SƠN
1. Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm nghề
Mùng chín tháng tám nhớ về chọi trâu
2. Gái lấy chồng Đồ Sơn- Bát Vạn
Trai lấy vợ sang huyện Hoa Phong
3. Sấm động biển Đồ sơn
Vác nồi rang thóc
Sấm động bên sóc
đổ thóc ra phơi
4. Chín con theo mẹ ròng ròng.
Còn một con út nẩy lòng bất nhân
(Địa hình Đồ Sơn ví như một con Rồng đang chầu về viên ngọc là Hòn Dấu. Sách cổ gọi núi Đồ Sơn là Cửu Long- chín rồng với câu ca trên. Con út ở đây là núi Độc đứng riêng hẳn ra ở đầu bán đảo. Thực ra có tới 15 điểm cao từ 25m đến 129m trong dãy núi này cao nhất là Đồn cao. Trên đỉnh núi còn những dãy tường thành dấu vết đồn luỹ của Phạm Đình Trọng một tướng Chúa Trịnh đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu thế kỷ 18)
CA DAO VỀ ĐẤT THUỶ NGUYÊN
1. Nhất cao là núi U Bò
Nhất đông chợ Giá nhất to sông Rừng
2. Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan
3. Ai về thăm xóm Lò Nồi
Mà xem cái bát sáng ngời nước men
4. My Sơn bắc ngật văn chương bút
Triều thủy nam hồi phú quí nguyên
Dịch nghĩa:
"Núi My Sơn phía bắc tạo thế văn chương
Ngọn triều phía nam đem lại nguồn giàu có"
Đồn rằng Chợ Nội vui thay
Bên đông có miếu bên tây có chùa
Giữa chợ có miếu thờ vua
Đôi bên nước chảy đò đưa em về
Chợ Nội làng Trưa Nộĩã Đông Xuân, Huyện Đông Hưng, Thái Bình (Câu số 19890 )
Ai ơi giữ phép nước ta
Ai ơi thương lấy dân nhà một tông,
Có hậu dưỡng mới phú phong
Kẻ cày người cấy, sống trong thái bình
Kẻ, nho lo việc học hành
Mai sau chiếm bảng, nức danh trên trờI
Kẻ buôn thì được lắm lời
Tàng vương chi thị tứ thời bán mua
Kẻ công ai cũng tranh đua
Làm nghề chạm vẽ: phượng rùa, long, ly
Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề
Nhờ trời đều được, gặp khi thái hòa
Toàn dân vang khúc dao ca