Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án D
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế ở miền Bắc và yêu cầu về quyền lợi kinh tế, chính trị của giai cấp nông dân, củng cố khối liên minh công - nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Chính phủ quyết định “đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất”
Đáp án B
- Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, xã hội Việt Nam có các giai cấp: công nhân, nông dân và địa chủ phong kiến. Tư sản và tiểu tư sản mới chỉ hình thành các bộ phận, nhỏ về số lượng.
- Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, hai bộ phận tư sản và tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng và thế lực, hình thành hai giai cấp mới
Đáp án B
Việc hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1954-1957) đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Bắc xóa bỏ quan hệ sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Từ đó tạo điều kiện để miền Bắc tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đáp án A
Hoàn thành cải cách ruộng đất ở Việt Nam (1954 - 1957) thực chất là để hiện thực hóa khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, đưa nông dân làm chủ đồng ruộng, nông thôn. Chính vì thế, ý nghĩa của cuộc cải cách ruộng đất cũng là làm cho khẩu hiệu “người cày có ruộng” trở thành hiện thực
Đáp án D
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công vẫn chưa giải quyết được mâu thuẫn nông dân với địa chủ phong kiến. Để giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, Đảng và Chính phủ cần cần phải hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1954-1957).
A loại - sự bốc lột không chấm dứt ở giai đoạn này
B, C loại - " ngay trong cuộc kháng chiến" là sai. Chúng ta xoá bỏ được giai cấp bốc lột và hoàn thành mt ng cày có ruộng năm 1957, khi hoàn thanh cải cách ruộng đất
=> đáp án đúng: D
-Giai đoạn 1954-1960:
-Trong hai năm 1955-1956 ta lấy từ tay địa chủ hơn 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 2 triệu nông cụ chia cho nông dân nghèo thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà Đảng đã đề ra từ năm 1930.
-Những năm 1954-1957, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch 3 năm, khôi phục kinh tế thắng lợi. Điều này làm cho đời sống nhân dân miền Bắc ổn định tạo điều kiện để miền Bắc bước vào thời kì mới.
-Từ năm 1958-1960 Đảng đề ra chủ trương 3 năm cải tạo XHCN và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trong đó cải tạo XHCN là trọng tâm mà khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.
-Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn của miền Bắc sau 6 năm (1954-1960) đã được phản ánh tập trung trong bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố ngày 1-1-1960.
-Giai đoạn 1961-1965:
+Đảng tiến hành Đại hội Đảng lần thứ III, hoạch định đường lối cho cách mạng mỗi miền và xu thế phát triển của thời đại.
+Với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), ta bước đầu xây dựng nền móng của CNXH.
-Trên mặt trận quân sự : đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ nhất (5-8-1964 đến 1-11-1968)
-Trên mặt trận sản xuất: Đảng chủ trương tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH trong bất kì hoàn cảnh nào miền Bắc vẫn đẩy mạnh sản xuất và chuyển hướng kinh tế lần thứ nhất từ thời bình sang thời chiến.
-Về chi viện:
Trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn là hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến miền Nam về sức người và sức của. Với tinh thần mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt sẵn sang đảm bảo “thóc không thiều một cân, quân không thiếu một người”.
-Trong 4 năm 1965-1968 miền Bắc đã đưa hơn 30 vạn cán bộ-bộ đội dọc theo dãy Trường Sơn vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
-Cùng trong thời gian này miền Bắc gửi vào miền Nam hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm góp phần không nhỏ vào thắng lợi của miền Nam trong chiến đấu chống chiến tranh cục bộ của Mĩ.
-Giai đoạn 1969-1973
Trên mặt trận kinh tế
Từ năm 1969 đến tháng 3 năm 1972 miền Bắc chuyển hướng kinh tế lần thứ hai từ thời chiến sang thời bình khôi phục kinh tế-văn hóa-xã hội mà trước hết là các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.
Trên mặt trận chiến đấu: Chống chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ hai, từ tháng 4-1972 đến 12-1972.
-Chỉ định trong 7 tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại lần này (từ tháng 4-1972 đến 12-1972), quân dân miền Bắc đã bắn rơi 651 máy bay địch, bắt sống hàng trăm giặc lái.
-Nhờ chuẩn bị tốt về tư tưởng, tổ chức, quân dân miền Bắc đã giáng trả cho địch những đòn đích đáng, làm nên trận Điện Biên Phủ trên không. Trong 12 ngày đêm ta đã bắn rơi 81 máy bay địch trong đó có 34 máy bay B52, máy bay F111.
-Ngày 30-12-1972, Chính phủ Mĩ phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, đến ngày 15-1-1973 thì ngừng hoàn toàn các cuộc bắn phá miền Bắc để tiến tới kí với Chính phủ ta Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 rút hết quân khỏi miền Nam.
-Về chi viện
-Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mĩ không ngăn cản được sự chi viện ngày càng lớn của miền Bắc đối với miền Nam.
Hàng chục vạn thanh niên được gọi là nhập ngũ. Trong đó có 60% lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam-Lào-Campuchia. Cũng trong thời gian này khối lượng vật chất đưa vào chiến trường tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước đó.
-Khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong năm 1972 vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971.
-Bản thân cơ quan tình báo Mĩ cũng phải thú nhận rằng “mặc dù ném bom rất ác liệt nhưng vẫn không làm giảm đi một cách ý nghĩa việc đưa người và trang thiết bị từ miền Bắc vào miền Nam.
Đáp án D
Việc hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam (1954-1957) đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam: giai cấp địa chủ phong kiến cơ bản bị xóa bỏ, nông dân trở thành người làm chủ nông thôn. Qua đó khối liên minh công- nông được củng cố vững chắc. Cải cách ruộng đất không mang ý nghĩa củng cố niềm tin cho nhân dân miền Nam kháng chiến chống Mĩ