Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Truyền thuyết và truyện cố tích:
+ Giống nhau: Đều có yếu tố tưởng tượng, kì ảo; chi tiết (mô típ) giống nhau (sự ra đời thần kì, nhân vật chính có những tài năng phi thường, v.v...).
+ Khác nhau: Truyền thuyết kê về các nhân vật, sự kiện lịch sử và thể hiện cách đánh giá của nhân dân đối với những nhân vật, sự kiện lịch sử được kể; truyền thuyết được cả người kế lẫn người nghe tin đó là những câu chuyện có thật (mặc dù trong đó có những chi tiết tưởng tượng, kì ảo). Còn truyện cổ tích kế về cuộc đời của các loại nhân vật nhất định và thế hiện quan niệm, ước mơ của nhân dân về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, v.v...; truyện cổ tích được cả người kể lẫn người nghe coi lả câu chuyện không có thật (mặc dù trong đó có những yếu tố thực tế). Nếu truyền thuyết có nội dung đấu tranh chống ngoại xâm (Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm,...), đấu tranh chống thiên nhiên (Sơn Tinh, Thuỷ Tinh), sáng tạo ra sản phẩm văn hóa (Bánh chưng, bánh giầy) thì truyện cố tích có nội dung chủ yếu là cuộc đâu tranh giai cấp giữa hai lực lượng: chính nghĩa và phi nghĩa (Thạch Sanh, Sọ Dừa, Cây bứt thẩn, Ông lão đánh cá và con cá vàng).
- Truyện ngụ ngôn và truyện cười:
+ Giống nhau: Truyện ngụ ngôn thường chế giễu, phê phán những hành động, cách ứng xử trái với điều truyện muôn răn dạy người ta. Vì thế, truyện ngụ ngôn cũng có yếu tố gây cười như truyện cười.
+ Khác nhau: Mục đích của truyện cười là để mua vui hoặc phê phán, châm biếm những sự vật, hiện tượng, tính cách đáng cười. Còn mục đích của truyện ngụ ngôn là khuyên nhủ, răn dạy người ta một bài học cụ thể nào đó trong cuộc sống.
1. So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa truyền thuyết với truyện cổ tích.
a) Giống nhau:
- Đều là truyện dân gian.
- Có yếu tố tưởng tượng kì ảo.
- Có nhiều chi tiết giống nhau: sự ra đời thần kì, nhân vật chính có tài năng phi thường…
b) Sự khác nhau:
- Kể về các nhân vật, sự kiện lịch sử và thể hiện thái độ, cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử được kể.
- Người kể, người nghe tin câu chuyện có thật (dù có yếu tố tưởng tượng kì ảo).
- Kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc.Thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, v v…
- Người kể, người nghe không tin câu chuyện là có thật (dù có yếu tố thực tế).
2a) Giống nhau:
- Đều là truyện dân gian.
- Đều chế giễu, phê phán những hành động, cách ứng xử trái với điều người ta muốn răn dạy.
- Có yếu tố gây cười.
i.
b) Sự khác nhau:
-Mục đích:
+ Khuyên nhủ, răn dạy người ta một bài học cụ thể nào đó trong cuộc sống. Sử dụng cách nói ẩn dụ, ngụ ý.
Mục đích:
+ Gây cười để mua vui hoặc phê phán, châm biếm những sự việc, hiện tượng, tính cách đáng cười.Sử dụng cách nói thẳng, trực tiếp.
Hk tốt
1. So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa truyền thuyết với truyện cổ tích.
a) Giống nhau:
- Đều là truyện dân gian.
- Có yếu tố tưởng tượng kì ảo.
- Có nhiều chi tiết giống nhau: sự ra đời thần kì, nhân vật chính có tài năng phi thường…
b) Sự khác nhau:
- Kể về các nhân vật, sự kiện lịch sử và thể hiện thái độ, cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử được kể.
- Người kể, người nghe tin câu chuyện có thật (dù có yếu tố tưởng tượng kì ảo).
- Kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc.Thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, v v…
- Người kể, người nghe không tin câu chuyện là có thật (dù có yếu tố thực tế).
2a) Giống nhau:
- Đều là truyện dân gian.
- Đều chế giễu, phê phán những hành động, cách ứng xử trái với điều người ta muốn răn dạy.
- Có yếu tố gây cười.
i.
b) Sự khác nhau:
-Mục đích:
+ Khuyên nhủ, răn dạy người ta một bài học cụ thể nào đó trong cuộc sống. Sử dụng cách nói ẩn dụ, ngụ ý.
Mục đích:
+ Gây cười để mua vui hoặc phê phán, châm biếm những sự việc, hiện tượng, tính cách đáng cười.Sử dụng cách nói thẳng, trực tiếp.
k cho mình nha
Học tốt nhé! Soạn bài này vất lắm đấy :((
Đặc điểm
-truyền thuyết là loại truyện kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử trong quá khứ. thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử
-truyện cổ tích kể về cuộc đời số phận của một số kiểu nhân vật ,thường có yếu tố hoang đường .thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác.
-truyện ngụ ngôn là loại truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, mượn truyện về vật ,đồ vật hoặc chính con người để nói bóng gió kín đáo truyện con người, nhằm khuyên nhủ ,răn dạy người ta bài học nào đó trong cuộc sống
-truyện cười :loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui hoặc phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội.
So sánh
1. Truyền thuyết và cổ tích
-truyền thuyết có cơ sở lịch sử ,cốt lõi là sự thật lịch sử .người kể người nghe tin có chuyện là có thật .thể hiện thái độ và tính cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện lịch sử nhân vật lịch sử
-truyện cổ tích về mây thuận giàu nghèo, thống trị bị trị, đấu tranh giai cấp .người kể người nghe không tin câu chuyện này có thật. thế hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của lẽ phải của cái thiện
2 Ngụ ngôn và cười
- Truyện cười dùng yếu tố gây cười, thú vị ,bất ngờ.Nhằm cợt, mỉa mai, châm biếm những thói hư tật xấu ,những phong tục ,những thói quen cổ hủ của con người trong xã hội
- Truyện ngụ ngôn mượn hình ảnh ,hành động, lời nói, đặc điểm ,của những loài vật để ngụ ý chỉ con người. Qua đó muốn khuyên răn, giáo dục, hướng con người tới cái thiện, cái tốt.
Thảo luận 1
Truyện cười (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước ... Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô thức phát ra do phản ứng của cơ thể một cách đơn thuần (tiếng cường của người bị gù, của bệnh nhân tâm thần...). Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười phê phán. Tiếng cười tán thưởng biểu thị niềm vui, sự yêu mến. Tiếng cười phê phán biểu thị sự khinh ghét, sự phủ nhận. Tiếng cười phê phán là cái cười trong truyện cười. Cái cười phát ra từ cái đáng cười. Cái đáng cười chứa đựng cái hài hiểu theo nghĩa triết học, nghĩa là có mâu thuẫn bên trong. Ðó là mâu thuẫn giữa cái xấu và cái đẹp, giữa hình tượng và ý niệm, giữa sinh động và máy móc . Nội dung Nội dung của truyện cười có các mục đích: Mua vui giải trí: nhằm mục đích giải trí là chủ yếu, song nó cũng có tính chất phê phán nhẹ nhàng những thói xấu của người bình dân, những lầm lẫn, hớ hênh (Tay ải tay ai, Thấy dễ mà thèm, Ăn vụng gặp nhau...) Phê bình giáo dục: phê bình thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân: Hội sợ vợ, Áo mới lợn cưới, Sợ quá nói liều... Đả kích: vạch trần cái ác, cái xấu có tính bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến. Truyện trào phúng đả kích từ vua chúa, quan lại đến địa chủ cường hào, thầy đồ, thầy chùa, thầy pháp, thầy lang ... (Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Nó phải bằng hai mày, Nam mô ... boong, Thầy đồ liếm mật, Chỉ có một con ma ...). Hệ thống truyện trạng (tiêu biểu là truyện Trạng Quỳnh, Truyện ông Ó). Phân loại Theo tiêu chí kết cấu thì truyện cười có 2 nhóm lớn: Truyện cười kết chuỗi: nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là đối tượng của tiếng cười phê phán (Trạng Lợn) nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là người được ca ngợi, thán phục, đã dũng cảm, mưu trí đấu tranh chống cái xấu, cái ác (Trạng Quỳnh). Truyện cười không kết chuỗi: truyện khôi hài (giải trí là chủ yếu), truyện trào phúng (phê phán là chủ yếu), và truyện tiếu lâm (có yếu tố tục). Truyện ngụ ngôn Truyện ngụ ngôn là truyện kể có tính chất thế sự, dùng cách ẩn dụ để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thưc tế xã hội. Trong quá trình sống gần gũi với tự nhiên và chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi tự nhiên, người cổ đại đã từng quan sát, tìm hiểu các con vật để dễ săn bắt và tự vệ. Khi con người có ý thức mượn truyện loài vật để nói về con người thì truyện ngụ ngôn xuất hiện. Nội dung truyện ngụ ngôn Việt Nam thường bao gồm các điểm sau: Đả kích giai cấp (thống trị): đó là thói ngang ngược, đạo đức giả của kẻ quyền thế (Khi chúa sơn lâm ngọa bệnh, Chèo bẻo và ác là, Mèo ăn chay...) Phê phán thói hư tật xấu của con người: thói huênh hoang đi kèm với bệnh chủ quan, tính tham lam, thói đoán mò (Ếch ngồi đáy giếng, Người nông dân và con lừa, Thả mồi bắt bóng, Cà cuống với người tịt mũi...) Nêu lên những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống: tuy chưa là ý niệm triết học đích thực nhưng là những bài học bổ ích, khuyên con người nên đứng đúng vị trí của mình, sống cần có lập trường, nêu lên sức mạnh của sự đoàn kết, tác hại của óc xa rời thực tế (Quạ mặc lông công, Đẽo cày giữa đường, Chị bán nồi đất, Chuyện bó đũa, Mèo lại hoàn mèo...)
Thảo luận 2
Truyện cười là những truyện chủ yếu gây cười cho người đọc nhưng cũng có loại truyện cười mang cả tính ngụ ngôn, giáo dục con người trong đó Truyện ngụ ngôn có cả yếu tố gây cười nhưng ít, truyện ngụ ngôn chứa đựng nhiều tính giáo dục, triết lý nhân sinh quan, giúp cho người đọc, người nge rút ra bài học cho bản thân qua các tình huống và nhân vạt trong truyện
Thảo luận 3
nếu chỉ phân biệt thì đơn giản thôi bạn .truyện cười là truyện nói về của đời sông hằng ngày của con người như đối thoại hiểu nhầm ý khác ... mục đích chinh là gây cười cho người đọc giả . Truyện ngụ ngôn là truyện có tính ẩn dụ của tác giả mượn hình ảnh nhân vật (có thật hoặc không có thật ) hoặc con vật để giáo dục hoặc đã phá những sự tiêu cực ,tính cách ,hủ lậu của con người ,xã hội .... như truyện con ve sầu và con kiến
Thảo luận 4
Truyện cười chỉ để mà cười thôi thì là truyện cười , truyện cười nhằm mục đích răn dạy cái xấu cái tốt của con người trong xã hội thì là truyện ngụ ngôn. Truyện ngụ ngôn là mượn cái này mà nói cái kia , ngụ ý khuyên răn người đời.
Thảo luận 5
Truyện cười chắc chắn là gây cười. Bạn đọc chúng đầu tiên sẽ thấy buồn cười. Có nhiều truyện cười có tính giáo dục. Nhưng cũng có truyện cười chỉ để cười không mang theo một thông điệp nào đặc biệt cả. Còn truyện ngụ ngôn đôi khi có gây cười. Đôi khi không gây cười nhưng có một đặc tính là chắc chắn phải có một thông điệp nào đó do người sáng tác cố ý gửi gắm vào. Mình phân biệt như vậy có đúng ko ạ? Nếu có gì chưa được chuẩn mong bạn chỉ giáo nhé.
Giống nhau:
- Đều thuộc bộ phận của văn học dân gian.
- Đều có yếu tố tưởng tượng kì ảo.
- Có nhiều chi tiết giống nhau: sự ra đời thần kì, các nhân vật chính có tài năng phi thường,....
Khác nhau:
Truyền thuyết kể về các nhân vật, sự kiện trong lịch sử và thể hiện cách đánh giá của nhân dân đối với những nhân vật, sự kiện lịch sử đó, được kể cả lẫn người nghe tin là có thật. | Truyện cổ tích kể về các loại nhân vật và thể hiện quan niệm, mơ ước của nhân dân ta về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tốt với cái xấu, sự công bằng đối với sự bất công, được cả người kể lẫn người nghe là không có thật |
Bài 1:
1.Ðịnh nghĩa :
TOP
Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi , nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con người.
2.Phân loại truyện cổ tích :
TOP
Căn cứ vào nhân vật chính và tính chất sự việc được kể lại, có thể chia truyện cổ tích ra làm 3 loại :Truyện cổ tích về loài vâtû.,truyện cổ tích thần kỳ,truyện cổ tích thế tục (cổ tích sinh hoạt).
II.CÁC LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH :
1.Truyện cổ tích về loại vật (truyện cổ tích động vật) :
a.Nhóm đề tài nói về con vật nuôi trong nhà. Loại truyện này khi miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó (kế thừa các motif suy nguyên luận của thần thoại) (Trâu và ngựa, Chó ba cẳng ...).
b.Nhóm đề tài nói về con vật hoang dã, thường là các con vật sống trong rừng Nổi bật trong nhóm này là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn nó. Nhóm truyện này có ý nghĩa ca ngợi trí thông minh của người bình dân
Nhìn chung, truyện cổ tích loài vật nêu lên những nhận thức, hiểu biết của con người về thế giới các con vật Một bộ phận truyện cổ tích loài vật có nhân vật là con người tham gia, một bộ phận khác nhân vật trong truyện hoàn toàn là các con vật. Những nhân vật chính thường là các con vật gần gũi( trâu ,ngựa, bồ câu, sáo) các con vật trong rừng tuy hoang dã nhưng lại quen thuộc( hổ, khỉ, thỏ ,rùa...) các con vật ở vùng sông nước( sấu, cá...), Những con vật nầy ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống con người.
Truyện dân gian về loài vật không chỉ có cổ tích mà còn có thần thoại và ngụ ngôn. Với ba thể loại trên, con vật đều được nhân cách hóa. Nhưng nếu nhân cách hóa trong thần thoại gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao của người cổ đại thì trong truyện cổ tích sự kế thừa tư duy thần thoại đó còn nhằm phản ánh xã hội loài vật. Ðối với truyện ngụ ngôn, tác giả dân gian đã có ý thức dùng câu chuyện để diễn đạt ý niệm trừu tượng. Tuy nhiên , cũng cần lưu ý đến hiện tượng 2-3 mangcủa một số tác phẩm. Chẳng hạn, truyện Cóc kiện Trờivừa là thần thoại vừa là cổ tích loài vật, truyện Công và quạvừa là thần thoại, cổ tích vừa là ngụ ngôn.
Trong kho tàng truyện dân gian Nam Bộ về loài vật, có thể tìm thấy thể loại truyền thuyết( Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch Mồ Thị Cư, Sự tích cù lao Ông Hổ...). Ngoài ra, truyện loài vật còn bị hút vào chuỗi Truyện Bác Ba Phi (Cọp xay lúa).
2.Truyện cổ tích thần kỳ :
TOP
a.Ðặc điểm chung :
Cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con người.Ðó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân , những quan hệ xã hội ( Tấm Cám, Cây khế, Sự tích con khỉ...)Nói cách khác, nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là đời sống xã hội và số phận con người. Ðối tượng chính của sự miêu tả, phản ánh là con người. Nhân vật thần kỳ không phải và không thê ølà đối tượng chính ( Nếu vai trò của nhân vật thần kỳ lớn hơn con người thì truyện kể sẽ trở thành thần thoại ) Tuy nhiên, cần nhớ rằng, lực lương thần kỳ cũng giữ một vai trò quan trọng trong sự diễn biến và đi đến kết thúc của câu chuyện.
Thế giới trong cổ tích thần kỳ là thế giới huyền ảo và thơ mộng ,có sự xâm nhập lẫn nhau giữa thế giới trần tục và thế giới siêu nhiên. Ở đó, con người có thể đi váo thế giới siêu nhiên, thần linh có thể xuất hiện trong thế giới trần tục.
Do có sự giống nhau về cốt truyện nên có những kiểu truyện trong cổ tích thần kỳ (kiểu truyện Tấm Cám, Thạch Sanh).
b.Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ :
Nhân vật có tài đặc biệt, phi thường về một lãnh vực nào đó (bắn cung, lặn, võ nghệ, chữa bệnh ...).
Nội dung kể lại những cuộc phiêu lưu ly kỳ của nhân vật chính. Cuối cùng nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người (Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằng).
c.Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh :
Nhân vật bất hạnh thường là người mồ côi, người em út, người con riêng, người đi ở, người xấu xí. Về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi. Về mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng (biểu hiện xu hướng hoài cổ) trừ nhân vật xấu xí mà có tài ( Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc ...). Nhân vật chính trải qua thử thách ( thử thách của các trở lực và có khi của nhân vật trợ thủ ) và đổi đời, được hạnh phúc dài lâu.
Bên cạnh nhân vật chính còn có nhân vật đế vương và lực lượng thần kỳ. Nhân vật đế vương có liên quan tới phần thưởng dành cho nhân vật chính Lực lượng thần kỳ ( bên thiện ) là nhân vật trợ thủ, có khi phải thử thách nhân vật chính trước khi giúp đỡ.
3.Truyện cổ tích thế tục :
TOP
a.Ðặc điểm chung :
Truyện cũng kể lại những sự kiện khác thường ly kỳ, nhưng những sự kiện này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu có, thì không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong cổ tích thần kỳ.
Nhân vật trung tâm trong cổ tích thế tục thường chủ động và tích cực hơn so với nhân vật trung tâm trong cổ tích thần kỳ cho dù một số nhân vật bất hạnh thường gặp bế tắc và kết cục bi thảm . Bế tắc ở đây là bế tắc của hiện thực khác với cái đổi đờicủa mơ ước, ảo tưởng trong cổ tích thần kỳ.Nếu xung đột trong cổ tích thần kỳ được giải quyết trong cõi huyền ảo thì xung đột trong cổ tích thế tục được giải quyết theo logic của hiện thực. Chính vì vậy mà chàng Trương Chi phải ôm mối sầu xuống mộ còn anh Sọ Dừa hạnh phúc daì lâu .
b.Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh :
Ðây là nhóm truyện kế thừa truyện cổ tích thần kỳ về nhân vật bất hạnh nhưng không kết thúc có hậu (Trương Chi , Sự tích chim hít cô , Sự tích chim quốc...).
c.Nhóm truyện có nội dung phê phán những thói xấu, những hành vi độc ác của con người : bất hiếu, khoe giàu, hách dịch...( Ðứa con trời đánh , Gái ngoan dạy chồng ...)
d.Nhóm truyện về người thông minh :
Nhân vật dùng sự thông minh của mình để phân xử, ứng xử (Xử kiện tài tình , Em bé thông minh ...) Nhân vật dùng mẹo lừa để thể hiện trí thông minh (Cái chết của bốn ông sư, Nói dối như Cuội...).
e.Nhóm truyện về người ngốc nghếch :
Nhân vật chính ngốc nghếch thực sự, hành động máy móc, đôi khi gặp may mắn nên thành công, nhưng thông thường phải trả giá đắc cho hành vi ngu xuẩn của mình ( Chàng ngốc được kiện , Làm theo vợ dặn...)
Nhân vật giả vờ ngốc để đạt được mục tiêu nào đó. Ðây là dạng đặc biệt của nhân vật thông minh Nhân vật chẳng những không ngốc mà còn đóng vai chàng ngốc thành công (Làm cho công chúa nói được).
III.NỘI DUNG TRUYỆN CỔ TÍCH :
1.Những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội :
Truyện cổ tích phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng tư nhưng lại phổ biến trong toàn xã hội có giai cấp : xung đột giữa anh em trai (Cây khế, Hầm vàng hầm bạc),xung đột giữa chị em gái (Sọ Dừa, Chàng Dê).xung đột giữa dì ghẻ con chồng, giữa chị em cùng cha khác mẹ (Tấm Cám),xung đột giữa con ruột và con nuôi (Thạch Sanh),xung đột có tính bi kịch về hôn nhân, gia đình (Trầu cau, Ba ông Bếp, Sao hôm - sao mai, Ðá vọng phu).
Những xung đột xã hội diễn ra bên ngoài gia đình được phản ánh muộn hơn, ít tập trung hơn. Do vậy ít tác phẩm tiêu biểu hơn (Cái cân thủy ngân, Của trời trời lại lấy đi , Diệt mãng xà).Một số truyện chứa đựng cả xung đột gia đình và xung đột xã hội (Thạch Sanh).
Dù gắn với đề tài gia đình hay đề tài xã hội, ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh được những xung đột, mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa các tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phụ quyền thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và " bề dưới, đàn anh và đàn em.
Truyện cổ tích có khuynh hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật bề dưới, đàn em , lên án nhân vật " bề trên " , " đàn anh " (trong thực tế không phải người em, người con nào cũng tốt , người mẹ ghẻ , người anh trưởng nào cũng xấu) nghĩa là chống cái bất công, vô lý của xã hội phụ quyền nói chung (không đi vào từng số phận riêng) , thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả.
2.Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân :
Truyện cổ tích cho thấy sự bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Nhân vật đàn em, bề dưới càng có đạo đức bao nhiêu, càng thật thà bao nhiêu thì càng thiệt thòi bấy nhiêu. Ðây là thực trạng của xã hội có giai cấp và có áp bức giai cấp.
Tác giả dân gian , trong cổ tích , đã giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng. Họ nhờ vào lực lượng thần kỳ và nhân vật đế vương. Lực lượng thần kỳ là phương tiện nghệ thuật giúp tác giả dân gian đạt tới một xã hội lý tưởng , một xã hội có đạo lý và công lý. Lực lượng thần kỳ đứng về phía thiện, trợ giúp cho nhân vật đau khổ, đưa họ tới hạnh phúc. Trong quá trình đó, lực lượng thần kỳ cũng giúp nhân vật cải tạo xã hội. Nhân vật đế vương vừa là phương tiện nghệ thuật vừa là biểu tượng cho lý tưởng xã hội của nhân dân. Vua Thạch Sanh, hoàng hậu Tấm là hiện thân của một xã hội tốt đẹp , xã hội lý tưởng.
3.Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân :
Triết lý sống của tác giả dân gian trong truyện cổ tích trước hết là chủ nghĩa lạc quan .Tinh thần lạc quan trong cổ tích chính là lòng yêu thương quý trọng con người, từ đó mà yêu đời , tin vào cuộc đời
( cho dù cuộc sống hiện tại đầy khổ đau , người ta vẫn luôn hướng về cuộc sống ngày mai tốt đẹp )
Kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy của tinh thần lạc quan, nhưng không phải là biểu hiện duy nhất.
Kết thúc bi thảm vẫn chứa đựng tinh thần lạc quan. Nhân vật chính chết hoặc ra đi biệt tích. Nhưng cái chết hoặc ra đi của nó để lại niềm tin vào phẩm giá con người, niềm tin vào cuộc đời.
Hầu hết truyện cổ tích đều gián tiếp hoặc trực tiếp nêu lên vấn đề đạo đức . Ðạo đức luôn gắn với tình thương , lấy tình thương làm nền tảng ( Ðứa con trời đánh , Giết chó khuyên chồng ...)
Niềm tin Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác vừa là triết lý sống lạc quan vừa là đạo lý, ước mơ công lý của nhân dân trong cổ tích.
IV.MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỆN CỔ TÍCH :
1. Cốt truyện:
Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện cổ tích là tính chất bịa đặt của câu chuyện kể. Cần nói thêm rằng, tính chất tưởng tượng của cốt truyện cổ tích ngoài nghĩa nói trên còn là tính khác thường" của sự kiện và hành động cổ tích.
Cốt truyện cổ tích thường được xây dựng theo một vài sơ đồ chung,có thể tìm thấy các kiểu cốt truyện quen thuộc như kiểudũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp, người xấu xí mà có tài...
2. Nhân vật
Nhân vật trong cổ tích là hành động của nó. Từ hành động của nhân vật ta có thể rút ra tính cách. Nhân vật cổ tích chưa được cá thể hóa, tâm lý hóa.
Trong kho tàng truyện cổ tích có những kiểu nhân vật (nhân vật bất hạnh, nhân vật tài giỏi...).
3. Các yếu tố cố định
Ðó là những motif trong truyện cổ tích: Những chi tiết nghệ thuật có mặt trong nhiều truyện cổ tích của nhiều dân tộc (vật báu mang lại hạnh phúc, Cái mâm thần, chém chằn tinh...). Các motif nầy là những đơn vị hợp thành của cốt truyện.
4. Thế giới cổ tích
Thế giới cổ tích có những yếu tố của thực tế hòa lẫn với yếu tố hư cấu tạo thành thế giới huyền ảo, thơ mộng. Ðể giải mã thế giới cổ tích thường người ta dựa vào dân tộc học.
Sự giống nhau giữa truyện truyền thuyết và truyện cổ tích là
+ Đều thuộc thể loại truyện dân gian.
+ Đều có yếu tố tưởng tượng hoang đường , kìa ảo.
Cả 2 cái đều có tính chất tự sự, mang phong cách cổ xưa và có phóng đại, giả tưởng nhưng hợp lí.
Truyện ngụ ngôn là truyện kể có tính chất thế sự, dùng cách ẩn dụ để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội.
Truyện cười là loại truyện kể vè những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui hoặc phê phán những thói hư,tật xấu trong xã hội
So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa truyền thuyết với truyện cổ tích.
a) Giống nhau:
- Đều là truyện dân gian.
- Có yếu tố tưởng tượng kì ảo.
- Có nhiều chi tiết giống nhau: sự ra đời thần kì, nhân vật chính có tài năng phi thường…
b) Sự khác nhau:
Truyền thuyết
- Kể về các nhân vật, sự kiện lịch sử và thể hiện thái độ, cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử được kể.
- Người kể, người nghe tin câu chuyện có thật (dù có yếu tố tưởng tượng kì ảo).
Truyện cổ tích
- Kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc.Thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, v v…
- Người kể, người nghe không tin câu chuyện là có thật (dù có yếu tố thực tế).
2a) Giống nhau:
- Đều là truyện dân gian.
- Đều chế giễu, phê phán những hành động, cách ứng xử trái với điều người ta muốn răn dạy.
- Có yếu tố gây cười.
b) Sự khác nhau:
-Mục đích:
Ngụ ngôn
+ Khuyên nhủ, răn dạy người ta một bài học cụ thể nào đó trong cuộc sống. Sử dụng cách nói ẩn dụ, ngụ ý.
Mục đích:
Truyện cười
+ Gây cười để mua vui hoặc phê phán, châm biếm những sự việc, hiện tượng, tính cách đáng cười.Sử dụng cách nói thẳng, trực tiếp.
bùi khánh huy trả lời rồi sao cậu ko chọn câu trả lời này