Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Một nhóm học sinh đi chung trên một chiếc xe máy, đang chạy xe trên đường thì bị cảnh sát thổi, cả nhóm dừng lại.
Cảnh sát hỏi:"Tại sao mấy đứa dám tống ba mà lại không đội nón bảo hiểm vậy hả? Có biết như vậy là vi phạm luật giao thông hay ko?"
Cả nhóm hốt hoảng quay lại nhìn phía sau và hét lên:"Chết cha còn thằng thứ tư đâu mất tiêu rồi!!!"
Cảnh sát: !!!???Bật ngửa
Dựng lên truyện " Côn hổ có nghĩa " mà không phải con người có nghĩa vì :hổ là một loài thú dữ,tàn ác,ăn thịt thú rừng và thậm chí ăn thịt cả con người.Nhưng con hổ trong truyện lại là một con hổ có nghĩa,có thình.Ở đây người ta muốn mượn hình tượng con hổ là để răn dạy con người : Sống ở đời phải có tình,có nghĩa với nhau.
Từ xa xưa, chúng ta vẫn coi hổ là loài vật hung dữ nhất, là chúa sơn lâm, chuyên đi ăn thịt các con vật khác. Dựng truyện " Con hổ có nghĩa" để nói lên rằng con hổ hung dữ mà có nghĩa nhưu vậy huống chi con người.
Để đón chào 1 thành viên mới là bút bi, họ nhà bút đều tề tựu trên bàn học: nào bút lông,bút chì...đều có mặt đông đủ.Trong đám đông, ông bút lông lên tiếng :" Hôm nay để đón chào thành viên mới là bút bi, đề nghị mọi người hoan nghênh chào đón". Từ trong đám đông, bút bi bẽn lẽn bước ra lên tiếng:" Chào mọi người. Em là bút bi, em rất vui khi dc gia nhập vào dòng họ bút của mình...Sau đây,em xin tự giới thiệu về bản thân:
" Em được biết,từ xưa, các nhà nho thường dùng bút lông ngỗng chấm mực Tàu để viết nên những nét chữ rồng bay,phượng múa. Rồi được cải tiến hơn, con người dùng gỗ làm cán bút,sắt làm đầu bút.Và cũng từ loại bút thô sơ ấy,chị bút máy,rồi đến em là bút bi dc ra đời...
Bây giờ,do tiện lợi và có nhiều mẫu mã nên em thường dc con người ưa chuộng và sử dụng rộng rãi.Bố của em nguyên là một nhà báo người Hungari tên Luizo Biro.Em dc ra đời vào năm 1938 ở bên châu Âu nhưng mãi đến thế kỉ XX họ bút bi nhà em mới du nhập sang VN và trở nên phổ biến.
Em cao khoảng 15 cm, dk khoảng 1cm...
_Thế còn bộ phận bên trong như thế nào?Chắc em cũng có 2 bộ phận như bọn anh hả?_Anh bút mực cất tiếng hỏi.
Vâng,em có cấu tạo cũng gồm 2 bộ phận chính là bên ngoài và bên trong.Bút bi nói tiếp.Bên ngoài: Mình em gồm nắp và thân.Thân em là 1 hình trụ rỗng,bên trong làm bằng nhựa và thường dc trang trí bắt mắt,đôi khi là những dòng chữ hay hình nhân vật hoạt hình xinh xắn.Màu thân của em phụ thuộc vào màu mực bên trong.Phần dưới chỗ tay cầm,con người thường dùng cao su để lam thành các vòng nổi len hoặc có đai to hơn để khi viết sẽ êm tay.Ở phần đầu bút dc vót nhọn ôm lấy ngòi.Phần trên cùng là nắp,có chỗ để cài vào túi áo hoặc sách vở.
Bên trong người em có chứa 1 ống chứa mực đặc sánh dc làm bằng nhựa dẻo. Trên thân có 2 nấc nhỏ dc làm bè ra sg sg với nhau.Độ cao,thấp,to,nhỏ của nấc tùy thuộc độ dài và chiếc lò xo = sắt có độ đàn hồi gắn trg ruột bút dưới 2 chiếc nấc ấy.Phần đầu làm = thép ko rỉ. Ở đầu em có những cái rãnh nhỏ xíu để khi viết mực chảy ra dễ dàng,ở bên trg là 1 viên bi nhỏ mà ngày nay người VN vẫn phải nhập bên nc ngoài về.Khi viết viên bi xoay tròn để mực thấm ra giấy.Vì thế khi sử dụng,họ bút bi nhà em sẽ viết dc rất nhanh nhưng lại dễ bị hư chữ...
Họ bút bi nhà em giờ có nhiều chủng loại nào là bi xanh, bi đỏ...
(Sau đó em có thể thêm phần ưu,nhược điểm của bút để hoàn thành bài viết. Ưu: tiện lợi, ko phải bơm mực thường xuyên. Khuyết: Hay hết mực nên hs phải mang theo 2 cây để thay.Và nếu rớt mạnh sẽ bể bi...)
... Mọi người hô vang tên bút bi khi bút bi tự giới thiệu xong về mình.
Để kết thúc buổi gặp, ông bút lông lên tiếng : Họ nhà bút chúng ta tuy có thể sau này sẽ bị giảm vai trò do thời đại vi tính đang lên ngôi. Nhưng tôi tin cây bút sẽ ko thể thiếu đối với con người.
Ngẫm lại lời của ông bút lông, mọi người ai cũng vui khi biết mình luôn mang một trách nhiệm cao cả...
Tôi là một cây bút chì--một cây bút chì bằng gỗ, tầm thường và quen thuộc với những em học sinh và người lớn biết đọc và biết viết.
Viết vừa là nghề chính vừa là nghề phụ và là thú vui của tôi. Đó là những việc tôi làm. Có thể bạn đang thắc mắc là tại sao tôi lại viết về gia phả của mình. Xem nào, để bắt đầu, phải nói là câu chuyện đời tôi là một chuyện rất thú vị. Và thứ nữa, tôi là một bí ẩn--còn bí ẩn hơn cả một cái cây hay một buổi hoàng hôn, hay ngay cả một tia chớp. Nhưng, buồn thay, những người dùng tới tôi vẫn thản nhiên sử dụng và chẳng buồn tìm hiểu nguồn gốc của tôi như thế nào, cứ như thể sự hiện hữu của tôi chỉ là một tình cờ ngẫu nhiên và chẳng có căn nguyên chi hết. Cái thái độ rẻ rúng ấy đẩy tôi xuống hạng những đồ vật hạng xoàng. [Nhưng] Đó là một loại sai lầm khủng khiếp mà nhân loại không thể tồn tại lâu dài được mà không gặp nguy hiểm. Lý do là vì, như nhà thông thái G. K. Chesterton đã nói: "Chúng ta bị héo tàn đi vì thiếu sự tò mò, chứ không phải vì thiếu những điều kỳ diệu."
Tôi, Cây Bút Chì, dù có bề ngoài đơn giản, đáng để cho các bạn phải kinh ngạc, vâng, đó là điều mà tôi sẽ cố thuyết phục các bạn. Thực ra, nếu bạn có thể hiểu tôi--không, đối với nhiều người, đây quả là một đòi hỏi quá đáng--hay nếu bạn có thể cảm nhận sự huyền diệu được hình tượng hóa qua bản thân tôi, thì bạn có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được sự tự do đang bị mất dần đi. [Cuộc đời tôi] là một bài học thâm thúy. Và bản thân tôi có thể dạy bài học này hay hơn một chiếc xe hơi hay một cái máy bay, hay một cái máy rửa chén, bởi vì, thực ra, tôi có một bề ngoài đơn giản.
Đơn giản? Đúng thế! Nhưng tôi dám cá là không có một cá nhân nào trên trái đất này biết cách chế tạo ra tôi. Nói nghe có vẻ lập dị, phải không các bạn? Nhất là khi ta thấy có vào khoảng một tỷ rưỡi cây bút chì được chế tạo hàng năm tại nước Mỹ.
Xin bạn hãy cầm tôi lên và ngắm nghía xem. Bạn thấy gì nào? Chẳng có gì hấp dẫn đôi mắt cả--một chút gỗ, chút sơn, cái nhãn hiệu, than chì, chút kim loại, và một cục tẩy.
Nếu như bạn không thể truy nguyên gia phả của bạn từ nhiều đời trước, thì đó cũng là điều bất khả cho tôi để kể tên và giải thích tất cả những tiền nhân của mình. Nhưng tôi cũng cố kể ra một số đủ để lấy le với bạn về cuộc đời phong phú và phức tạp của tôi.
Cây gia phả của tôi bắt đầu, thực ra, là một cái cây, chính là một cây tuyết tùng có thớ gỗ thẳng, mọc tại miền bắc của tiểu bang California và tiểu bang Oregon. Bây giờ bạn hãy thử tưởng tượng ra tất cả những nào cưa, nào xe vận tải, dây chão và vô số những dụng cụ khác nhau để đốn những cây tuyết tùng xuống và kéo ra lề đường. Hãy thử nghĩ đến tất cả những người thợ và vô vàn những kỹ thuật cần thiết tạo nên nghề thợ rừng: đào mỏ lấy quặng sắt, luyện thép và chế biến thành lưỡi cưa, lưỡi búa, động cơ; việc trồng những cây gai dầu và quá trình chế biến thành những sợi dây chão to lớn và chắc chắn; rồi những trại cưa có phòng ngủ và phòng ăn và bếp núc cho nhân viên. Có cả hàng ngàn người không ai biết đến đã góp phần vào tạo nên một ly cà phê buổi sáng cho những người thợ rừng.
Những thân gỗ sau khi đốn xong được chuyên chở bằng xe lửa tới một nhà máy cưa ở San Leandro, bang California. Bạn có thể tưởng tượng ra những người chế tạo ra những toa xe lửa, đường rầy và những kỹ sư hỏa xa đã chế tạo và xây dựng ra những hệ thống thông tin phụ thêm vào đó? Những điều này thuộc về vô số tiền nhân của tôi.
Bây giờ hãy xem đến nhà máy xẻ gỗ ở San Leandro. Những thân gỗ tuyết tùng được xẻ thành những lát gỗ mỏng và cưa thành những thanh gỗ có chiều dài bằng cây bút chì, dầy khoảng 0.6 phân. Rồi lại còn có những lò nướng và nhuộm màu cho những thanh gỗ này như kiểu phụ nữ thoa phấn lên mặt. Người ta muốn tôi có màu sắc đẹp đẽ chứ không phải màu trắng nhợt nhạt của gỗ. Xong rồi những thanh gỗ này được thoa sáp và nướng khô thêm một lần nữa. Bao nhiêu kỹ thuật đã đổ vào việc chế tạo nên lò nướng và máy nhuộm, vào việc tạo ra sức nóng, điện lực và ánh sáng, động cơ, dây cu-roa, và những vật dụng cần thiết khác trong một nhà máy cưa? Phải kể luôn những người thợ quét dọn nhà máy nữa chứ? Vâng, và phải kể luôn những người đã đổ bê-tông làm nên cái đập thủy điện cho Công ty Điện lực và Khí đốt thiên nhiên Thái Bình Dương, tức là công ty cung cấp điện cho nhà máy cưa này.
Cũng đừng nên quên những bậc tổ tiên hiện tại và quá khứ của tôi đã góp phần vào việc chuyển vận sáu mươi toa xe chở những thanh gỗ đi khắp nước.
Rồi vào đến xưởng làm bút chì--gồm có bốn triệu đô-la tiền máy móc và nhà cửa, tất cả vốn liếng tích lũy từ bao nhiêu tổ tiên của tôi ky cóp để dành--mỗi thanh gỗ được xẻ 8 cái rãnh bằng một cái máy rất phức tạp, sau đó một cái máy khác đặt chì vào những thanh gỗ khác, rồi được trét keo và đặt chồng lên nhau như những miếng bánh sandwich kẹp chì vậy. Tôi và 7 anh em khác được "đẻ" ra từ cái bánh mì kẹp chì này.
Cái "ruột" chì của tôi, gọi như vậy chứ thật ra chẳng có chút chì nào cả, cũng rất phức tạp. Bột than (chì) được lấy lên từ mỏ ở Ceylon. Hãy nghĩ đến những người thợ mỏ và những người thợ làm bao nhiêu những vật dụng khác và những người thợ làm bao giấy đựng bột than chì để chuyên chở, rồi những người thợ làm dây để buộc những bao này lại, rồi những công nhân bốc vác những kiện hàng này lên tàu thủy, rồi những người thợ đóng tàu thủy nữa. Ngay cả những người giữ hải đăng và những người tài công lái tàu ra vào hải cảng cũng góp phần vào việc sinh sản ra tôi.
Bột than chì được trộn với đất sét lấy từ Mississippi có chứa dung dịch ammoniac và được dùng trong quá trình tinh luyện. Rồi thì những hóa chất lỏng khác được thêm vào như chất mỡ sulfate--một loại mỡ động vật có phản ứng hóa học với axit sulfuric. Sau khi chảy qua vô số máy móc, hợp chất này cuối cùng được bơm ra thành những sợi dài, giống như từng thỏi xúc-xích, được cắt đúng cỡ và nướng thêm vài giờ với nhiệt độ 1010 độ C. Nhằm gia tăng độ cứng và trơn láng của những thỏi "chì," chúng được nhúng vào một hợp chất nóng gồm có chất sáp làm nến lấy từ Mexico, sáp paraffin, và mỡ động vật được hy-drô hóa.
Cái vỏ gỗ tuyết tùng của tôi được sơn sáu lớp sơn láng. Bạn có biết loại sơn láng (làm sơn mài) có bao nhiêu chất không? Ai có thể nghĩ rằng những người nông dân trồng cây thầu dầu và những người thợ ép thầu dầu cũng dự phần trong tiến trình này? Nhưng mà thật như vậy đó. Ngay cả tiến trình pha sơn thành màu vàng đẹp đẽ cũng cần tay nghề của vô số bao nhiêu người.
Hãy xem đến cái nhãn hiệu. Đó là một lớp màng mỏng tạo nên bởi than đen trộn với nhựa cây và được hơ nóng. Bạn có biết người ta lấy nhựa cây như thế nào không?
Tôi có một chút xíu kim loại--cái vòng bịt đuôi cây bút chì--làm bằng thau. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người thợ mỏ kẽm và đồng và những người có tay nghề tạo nên những tấm thau sáng loáng từ những sản phẩm đó của thiên nhiên. Còn cái vòng màu đen trên cái vòng bằng thau đó làm bằng chất kền màu đen. Kền màu đen là cái gì và dùng nó như thế nào đây? Để biết được tại sao ở giữa cái vòng bịt bằng thau đó lại không có vòng kền màu đen cũng phải mất thêm cả bao nhiêu trang nữa để giải thích.
Rồi đến cái vương miện của tôi, vẫn thường được gọi nôm na là "cái mấu," tức là chỗ giữ cục tẩy để người ta xóa đi những chỗ viết sai. Cái chất gọi là "factice" chính là cái chất "tẩy" đi những chỗ viết sai. Cái chất này cũng giông giống như chất cao-su, nhưng thực ra là hợp chất của dầu hạt cải Canola trộn với chất sulfur chloric. Chất cao-su, trái với những gì ta nghĩ, không "tẩy" được và chỉ dùng để dính hợp chất này lại mà thôi. Rồi còn vô số những hóa chất và chất xúc tác khác. Còn thêm chất đá bọt đến từ Ý đại lợi và chất phẩm màu để nhuộm cái mấu là từ hợp chất cadmium sulfide.
Còn có ai muốn thử với điều tôi khẳng định ban đầu là không có một người duy nhất nào trên trái đất biết cách làm ra tôi không?
Thực ra, hàng triệu người đã góp tay vào việc cấu tạo nên tôi, nhưng mà không có ai biết được những người khác. Bạn cũng có thể nói rằng tôi đã nói phóng đại khi liên kết một người hái trái cà phê ở xứ Ba-tây xa lắc và những người trồng thực phẩm ở chỗ nào đó với sự cấu tạo ra tôi. Nhưng tôi vẫn giữ lập trường. Đó là, không có một người duy nhất nào trong số những triệu người này, kể cả ông chủ xếp sòng của công ty sản xuất bút chì, là người đã đóng góp hơn một phần nho nhỏ cách thức tạo ra tôi. Sự khác nhau giữa người thợ mỏ ở Ceylon và người thợ rừng ở Oregon là sự khác nhau về cách thức. Cả hai người thợ này không thể thiếu được, cũng như nhà hóa học trong xưởng hay người công nhân tại giếng dầu hỏa (sáp paraffin làm từ dầu hỏa) cũng không thể thiếu được.
Đây cũng là một sự kiện đáng ngạc nhiên nữa. Đó là, tất cả những người dính dáng đến tiền thân của tôi, từ người công nhân làm việc ở giếng dầu hỏa, đến nhà hóa học, hay người thợ mỏ đào than chì và đất sét, hay bất cứ ai chế ra tàu thủy, xe lửa, hay xe vận tải, hay những người thợ chạy cái máy làm "vương miện" cho tôi, hay ông chủ tịch hãng làm bút chì...làm những công việc của họ...đều không cần đến tôi. Mỗi người trong số những người này không cần tôi bằng một em bé đang học lớp một. Thực ra, có một số người trong hằng hà sa số những người này chưa bao giờ thấy một cây bút chì chứ đừng nói gì đến sử dụng nó. Động lực để họ làm việc là điều gì khác chứ không phải tôi. Có lẽ phải nói như thế này: Mỗi người trong số hàng triệu người này thấy rằng họ có thể trao đổi một tí ti kiến thức về cách thức chế tạo đồ dùng và dịch vụ của họ với những nhu cầu khác mà họ cần. Tôi có thể không nằm trong danh sách những nhu cầu của họ.
Có một sự kiện còn đáng ngạc nhiên hơn: sự vắng bóng của một nhà tổng đạo diễn, một người chỉ đạo và ra mệnh lệnh điều khiển vô vàn những hoạt động kể trên để tạo ra tôi. Ta không tìm được dấu tích của một người như vậy. Thay vào đó, ta thấy có một Bàn Tay Vô Hình đang điều động mọi sự. Đó cũng chính là sự bí ẩn tôi nói tới lúc ban đầu.
Người ta thường nói là "Chỉ có Thượng đế mới có thể tạo ra một cái cây." Tại sao ta đồng ý với câu nói này? Chẳng phải vì ta nhận thức được là con người không thể tạo ra được một cái cây hay sao? Thực ra, liệu ta có thể mô tả được một cái cây hay không đã? Ta không thể làm được điều này ngoài một số những miêu tả hời hợt. Ta có thể nói, thí dụ như thế này, là một cấu trúc phân tử nào đó đã thể hiện thành một cái cây. Nhưng có một bộ óc con người nào đã có thể ghi chép lại, chứ đừng nói đến việc chỉ đạo, những thay đổi liên tục trong những phân tử đã diễn ra trong đời sống của một thân cây không? Đó là một kỳ tích không thể nào tưởng tượng nổi!
Tôi, Cây Bút chì, là một sự kết hợp phức tạp của nhiều điều kỳ diệu: một cái cây, kẽm, đồng, bột than, vân vân. Nhưng thêm vào trong những điều kỳ diệu đã thể hiện trong thiên nhiên còn có một điều kỳ diệu hơn nữa: sự phối hợp những năng lực sáng tạo của con người--hàng triệu những kiến thức nhỏ bé được phối hợp một cách tự nhiên và tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu và ước muốn của con người mà không có một bàn tay đạo diễn nào của con người cả! Vì chỉ có Thượng Đế mới tạo ra được một cái cây, tôi khẳng quyết là chỉ có Ngài mới tạo ra tôi. Con người chẳng có thể làm gì hơn là sắp xếp hàng triệu những phương thức sản xuất lại cũng như Ngài đã phối hợp những phân tử lại để tạo ra một cái cây.
Đó chính là những điều tôi muốn nói khi viết rằng: "nếu bạn có thể cảm nhận sự huyền diệu được hình tượng hóa qua bản thân tôi, thì bạn có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được sự tự do đang bị mất dần đi." Vì, nếu ta ý thức được rằng những phương thức sản xuất này sẽ, một cách tự nhiên và tự động, sắp xếp lại thành những công thức sản xuất đầy sáng tạo để đáp ứng những nhu cầu của con người--nghĩa là không có sự hiện diện của chính quyền hay một sự chỉ đạo mang tính cưỡng bách nào--thì con người sẽ thủ đắc được phần tử tuyệt đối cần thiết cho tự do: Niềm tin vào những con người tự do. Tự do sẽ không thể nào hiện hữu được nếu thiếu niềm tin này.
Một khi mà nhà nước có được độc quyền về một hoạt động sáng tạo, thí dụ như phân phát thư tín, thì hầu hết người ta sẽ nghĩ rằng thư tín sẽ không thể nào được phân phối một cách hữu hiệu bởi những người hoạt động một cách tự do. Và đây là lý do: Mỗi người trong chúng ta nhìn nhận rằng mình không biết mọi cách thức liên quan đến việc phát thư, đồng thời cũng nhận thức rằng không một cá nhân nào có thể biết hết được. Đó là những nhận thức đúng đắn. Không một cá nhân nào có thể biết được hết mọi cách thức phân phối thư tín cho toàn quốc, cũng như không có ai biết hết mọi cách thức làm ra cây bút chì. Và, khi mà ta không có niềm tin vào con người tự do--niềm tin rằng hàng triệu những phương thức sản xuất nho nhỏ sẽ tự động và tự nhiên phối hợp lại để tạo ra sản phẩm--thì người ta không thể nào mà không kết luận, một cách sai lầm, rằng thư tín chỉ có thể được phân phối bởi và qua sự "đạo diễn" của nhà nước.
Nếu Tôi, Cây Bút Chì, chỉ là một đồ vật được dùng làm bằng chứng cho sự sáng tạo của con người khi họ được tự do để thử nghiệm, thì lập luận của những người thiếu niềm tin sẽ tương đối đứng vững. Nhưng, có vô số bằng chứng như vậy trên mọi lãnh vực. Việc phân phối thư từ coi vậy chứ thực đơn giản khi ta so sánh với, thí dụ, việc ráp một chiếc xe hơi hay một cái máy tính hay một cái máy xay lúa hay một cái máy tiện hay hàng chục ngàn những điều khác nữa. Phân phối ư? Trên lãnh vực này khi người ta được tự do thử nghiệm, đã gởi giọng nói của con người vòng quanh trái đất trong vòng không tới một giây đồng hồ; họ đã chuyển đi hình ảnh và tiếng nói trực tiếp tới nhà khi sự việc đang xảy ra; họ đã chuyển 150 hành khách từ Seattle tới Baltimore[1] dưới 4 tiếng đồng hồ; họ đã chuyển xăng dầu từ Texas tới New York bằng một giá rẻ không ngờ và chẳng cần trợ cấp của chính phủ; họ đã chuyển 4 ký dầu hỏa từ Vịnh Ba Tư tới bờ phía đông nước Mỹ với một giá rẻ hơn là bưu phí gửi một lá thư qua bên kia đường.
Bài học mà tôi muốn truyền đạt như thế này: Hãy để cho tất cả những năng lực sáng tạo được tự do. Xã hội chỉ cần được tổ chức để hoạt động hài hòa với bài học này. Hãy để bộ máy pháp luật của xã hội dẹp bỏ hết những chướng ngại cho sự tự do càng nhiều càng tốt. Hãy để cho những phương thức sản xuất đầy sáng tạo được tự do tuôn chảy. Hãy có niềm tin là những con người tự do sẽ tương tác hài hòa với Bàn Tay Vô Hình. Niềm tin này sẽ được xác lập. Tôi, Cây Bút Chì, dù bản thân tôi rất ư là đơn giản đã thể hiện được sự kỳ diệu của sự sáng tạo ra tôi; đó là một bằng chứng hùng hồn cho thấy đây là một niềm tin thực tiễn và thực tế, cũng có thực như trời nắng, trời mưa, cây tuyết tùng, và trái đất của chúng ta.
Tham khảo:
Lần thứ năm ông lão ra biển nhờ cá vàng giúp đỡ cũng là lần biển nổi cơn dông tố kinh khủng nhất như để phản đối lòng tham vô đáy của mụ vợ.Cá vàng thương ông lão vị ân nhân tốt bụng của mình .
Sự tham lam đã làm cho mụ vợ mờ mắt , đối xử tệ bạc với ông chồng . Tưởng rằng đã thỏa mãn nhưng bà lại quát mắng ông lão và kêu ông phải đi ra biển lần nữa . Lần này không bình thường như trước , ba muon lam Long Vương ngự và bắt cá vàng phải hầu hạ bà ta , nhưng mụ không biết rằng cá vàng đã rất tức giận và không đáp ứng nhu cầu của mụ nữa . Ông lão vẫn ngồi ngoài biển kiên trì cho cá vàng . Một lúc sau , cá vàng hiện lên nhìn ông lão với ánh mắt thông cảm và nói :
- ông lão ạ ! tôi rất biết ơn ông vì đã giúp tôi , nếu không có ông thì tôi đã không thể vùng vẫy trên biển này nữa , bây giờ ông hãy làm theo lời của tôi .
Theo lời ca vang chỉ dẫn , ông lão trở về nói mụ vợ đang làm nữ hoàng . Thấy lão trở về mà mình chưa là Long Vương mụ tức giận . Ông lão bình tĩnh nói với mụ rằng :
- mụ đừng đòi hỏi gì nữa , hãy yên vị làm nữ hoàng sang trọng đi.
Ngay tức khắc , ông bị đánh và lôi ra biển. Cá vàng hiện lên nói :
- ông lão ơi ! ông đừng buồn nữa . nếu mụ ta không biết trân trọng ông , không biết trân trọng những gì mụ ta đang có thì sẽ mất tất cả.Ông lão lủi thủi đi về , ông ngạc nhiên khi mụ vợ không là nữ hoàng nữa mà trở về căn nhà khi xưa với cái máng lợn sứt mẻ trước kia.Mụ vợ thấy hoang mang khi nhà đẹp , của cải , vật chất đã biến mất , bà lo lắng và nhờ ông lão dẫn ra biển gặp cá vàng . Van xin một lát , cá vàng có lòng nhân từ nên đã tha lỗi cho bà và nói kêu hai người hãy về nhà . Khi về nhà , trước mặt mụ ta là một cái máng lợn mới , một tấm lưới đánh cá lành lặn và một căn nhà rộng , đẹp. Mụ ta ngạc nhiên và sung sướng ,tha thiết cảm ơn cá vàng , cá vàng vẫy đuôi lặn xuống biển .
kể từ đó bà đã mất đi cái tính tham lam , mà chăm chỉ làm ăn , sống vui vẻ hòa hợp với ông lão , vợ chồng cũng không mơ tưởng đến những gì quá xa xôi nữa .
Không bằng lòng trước lòng tham vô đáy của mụ vợ ông lão đánh cá, cá vàng quẫy đuôi lặn xuống biển. Ông lão lại trở về nhà. Từ xa, ông đã nhìn thấy mụ vợ đang ngồi bên cái máng lợn sứt quen thuộc ngày nào. Mọi thứ đều trở lại như xưa.
Ông lão dừng lại, ngập ngừng không biết nên đi tiếp về nhà hay lại quay ra biển. Lúc này, lòng ông ngổn ngang và rối bời, ông cũng chưa biết sẽ phải nói gì với bà lão. Nhưng nhìn thấy vợ mình đang ngồi rầu rĩ bên cái máng lợn sứt, tự nhiên ông thấy thương bà lão quá. Ông tiến lại gần bà lão nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh và im lặng. Bà lão cũng ngồi im, không nói gì. Một lúc sau, bà lão quay sang, đôi mắt buồn rầu của bà nhìn ông và bà nói: "Ông đừng nói gì cả, trái tim nhân hậu của ông không bao giờ tôi quên. Tôi chỉ giận mình vì lòng tham đã trở nên mù quáng. Tôi đã không còn biết đâu là phải, đâu là trái nữa. Tôi thật đáng trách." Lòng ông lão trĩu nặng, ông không còn giận bà mặc dù có những lúc bà đối xử tàn tệ với ông, không coi ông là chồng. Nhưng ông chỉ muốn làm cho bà vui. Vì ông biết bà cũng chịu nhiều đau khổ. Bà đã đi quá đà và giờ lòng bà đầy hối hận. Bà tự dằn vặt và trách mình. Nếu bà cứ như thế này, chắc bà sẽ ốm mất. Ông thấy rất lo cho bà. Ông nhẹ nhàng đặt tay lên vai bà. Ông nói: "Bà đừng tự trách mình. Giờ đây, khi bà đã nhận ra được sai lầm của mình, bà sẽ không bao giờ mắc phải. Bà vẫn là bà lão yêu quý của tôi". Mắt bà lão rơm rớm. Bà quay sang nhìn ông và nói: "Tôi xin lỗi". Ông lão hiểu rằng, bà vợ của mình đã trở lại như xưa. Bà đã quay trở về với đúng bản chất của một bà lão hiền lành và đôn hậu. Một bà lão ở nhà chăm lo cho gia đình. Ông cảm thấy vô cùng sung sướng. Ông biết lòng ông không hề giận bà. Bà lão của ông chỉ vì lòng tham, lòng tham đã làm mờ mắt bà lão khiến bà không còn nhận ra được chính mình. Chỉ một chút nữa, bà lão đã đánh mất mình. Ông lão cũng buồn biết bao khi nhìn thấy điều đó. Vì ông biết tại ông quá chiều bà lão mà thôi. Nhưng mọi sóng gió đã qua, bên ông không còn là nữ hoàng quyền uy, không phải mụ vợ tham lam và quá quắt mà chỉ là bà lão hiền lành, chất phác. Ông quay sang mỉm cười, nụ cười đôn hậu và nhìn bà lão: "Mọi thứ đã qua rồi. Tôi và bà hãy coi như chưa có chuyện gì xảy ra, tất cả chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ thật đáng sợ. Bà vẫn luôn là bà lão chất phác, nhân hậu của tôi". Ông lão cười và nói đùa: "Cái máng lợn tuy sứt nhưng vẫn còn tốt chán. Đầy nhà còn không có cả cái máng lợn sứt nữa cơ. Dưới bàn tay chăm sóc của bà, lũ lợn sẽ được vỗ béo nhanh thôi. Và chúng ta sẽ có tiền mua cái máng mới".
Ông lão nghĩ: "Nhất định mai ta sẽ ra biển để cảm ơn cá vàng. Ta sẽ kể cho cá vàng nghe câu chuyện vừa rồi. Hẳn cá vàng sẽ rất vui.
I. Mở bài: giới thiệu người cần tả
Gia đình e gồm có bốn người, ba mẹ, em và chị của em. Gia đình e rất hạnh phúc và thương yêu em. Ba mẹ em là nông dan nên rất đổi bình dị và thân thương. Ba mẹ luôn làm lụng vất vả để lo cho chị em của em. Chị em là một sinh viên đang học tren thành phố. Chọ cũng là người xa nhà, sống thiếu thốn tình thương của ba mẹ, lâu lâu chị mới về quê thăm gia đình. Chính vì thế mà em rất yêu của của em.
II. Thân bài
1. Tả bao quát
- Chị em bao nhiêu tuổi?
- Chị em học ở đâu?
- Chị em học trường gì?
- Em thương chị em như thế nào?
2. Tả chi tiết
a. Tả hình dáng
- Dáng người cao, thon gọn cao 1m6
- Gương mặt đầy đặn, mũi cao, môi trái tim xinh đẹp
- Mái tóc dài đen mượt, khi làm việc nhà ở thường buộc tóc gọn sau gáy.
- Chị ăn mặc rất giản dị. Khi đi học chị thường mặc áo sơ mi. Ở nhà chị mặc đồ bộ cho tiện làm việc nhà.
- Chị có đôi mắt đen long lanh rất đẹp. Mỗi khi chị bảo ban em, ánh mắt ấy rất dịu dàng và thân thiện.
b. Tả tính tình
- Chị là người chu đáo, chỉnh chu trong công việc
- Chị học rất giỏi, luôn được ba mẹ và thầy cô yêu thương
- Chị có tính tình rất ôn hòa, nhã nhặn
- Chị luôn biết quan tâm đến mọi người trong gia dình và mọi người xung quanh
- Chị là người luôn nổ lực và biết vươn lên trong cuộc sống
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ về chị em
Chị em là một người hết sức đặc biệt. chị là người luôn quan tâm chăm sóc em, em rất yêu chị của em
Mở bài: Giới thiệu em bé được ta: Tên gì? Trai hay gái? Có quan hệ với em?
- Cu Ti là em ruột cùa tôi.
- Hôm nay là buổi tập đi đầu tiên, cả nhà tôi đều vui sướng khi thấy e đi được ba bốn bước.
Thân bài:
a) Tả hình dánq của em bé
- Bé được bao nhiêu tháng tuổi, có đặc điểm gì nổi bật? (bé được chín tháng tuổi, miệng toe toét cười để lộ mấy chiếc răng sữa thật dễ thương).
- Những đặc điểm về hình dáng: thân hình, da dẻ, khuôn mặt. mái tỏ đôi má, mòi, miệng, răng lợi, chân tay...
+ Khuôn mặt bé bầu bĩnh, khi cười do hống như trái táo chín.
+ Đôi mắt tròn long lanh.
+ Mái tóc ngắn cũn cỡn, thường choàng trên đầu một chiếc khăn màu trắng.
+ Đôi môi lúc nào cũng mọng và đỏ như được thoa son.
+ Cắm luôn có ngấn biểu hiện cho sự mập mạp của bé.
+ Hai tay luôn hoạt động, cầm được thứ gì là cho ngay vào mồm để gặm. Những ngón tay nhỏ xíu dễ thương.
- Quần áo bé thường mặc khi trời nóng, lạnh và ở nhà.
+ Thích mặc quần áo trắng, tất trắng
+ Thích đi giày vai.
b) Tính tình ngây thơ của bé
- Tập đi, tập nói:
(Lẫm chẫm đi được vài bước, hai tay giơ ngang như diễn viên tí hon đi trên dây thăng bằng. Vừa đi vừa cười híp cả mắt. Đang tuối tập nói nên bé bi bô suốt cả ngày. Thích bập bè những tiếng: ba, mẹ, bà)
- Sinh hoạt cùa bé:
Khỏe mạnh, ít bệnh, ít khóc nhè, thích tắm, thích nghe mẹ hát, thích chơi ô tô, tàu hỏa.
Kết hài: Cảm nghĩ của em về người tả.
Tôi rất yêu em bé, cùng mẹ giúp bé tập di, dạy hát và mong bé chóng lớn
Thạch sanh là một dũng sĩ xuất thân từ gia đình nghèo có cuộc sống và số phận đời gần gũi với nhân dân lao động. Chàng có tài năng xuất chúng và phẩm chất tốt đẹp được tiên trời phú để chiến đấu với lũ quái vật bảo vệ dân lành với lòng dũng cảm. Sự khoan dung trước tội ác của Lý Thông, nhân đạo và thể hiện sự hòa bình dân tộc trước tiếng vó ngựa của quân xâm lăng. Thạch Sanh là một con người tưởng tượng của nhân dân thể hiện niềm tin,mơ ước về đạo đức,công lí xã hội lí tưởng nhân đạo yêu hào bình của con người Việt Nam
Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp của người xưa. Đó là giấc mơ được tự do trong hôn nhân. Giấc mơ có cuộc sống vật chất đầy đủ, ấm no. Giấc mơ chiến thắng được bệnh tật. Giấc mơ chiến thắng được giặc ngoại xâm. Giấc mơ cái thiện chiến thắng cái ác. Niềm mơ ước lớn nhất của con người đó là: Mơ ước cái thiện thắng cái ác. Nhiều câu chuyện cổ tích thể hiện niềm mơ ước đó, tiêu biểu nhất là truyện “Thạch Sanh”. Trong truyện "Thạch Sanh" tiếng đàn là một chi tiết nghệ thuật mang nhiều ý nghĩa.
Thiện là cái tốt. Ác là cái xấu. Từ xưa, con người đã phân biệt thiện và ác như phân biệt ánh sáng và bóng tối. Thiện và ác mâu thuẫn gay gắt, như nước với lửa. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, người bình dân mơ ước: Cái thiện sẽ thắng cái ác. Trong truyện Thạch Sanh, Thạch Sanh đại diện cho cái thiện, Lí Thông dại diện cho cái ác.
Nhân vật Thạch Sanh rất gần gũi với đời thường, chàng được sinh trong một gia đình nông dân nghèo. Thạch Sanh mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Chàng kiếm sống bằng nghề đốn củi. Trong con người bình thường của Thạch Sanh có chứa đựng những yếu tố khác thường, tác giả dân gian khẳng định chàng được Ngọc Hoàng đầu thai, vì thế mà mẹ chàng mang thai đến ba năm mới sinh được chàng. Lớn lên Thạch Sanh được các thiên thần dạy võ nghệ và phép thần thông. Là người tốt nhưng cuộc đời của chàng lại phải trải qua nhiều gian truân, thử thách. Khi gặp thử thách Thạch Sanh lại lập nên những chiến công lớn.
Thử thách thứ nhất Thạch Sanh đã vượt qua, đó là: Chàng bị Lí Thông, người hàng rượu xảo quyệt độc ác nghĩ kế kết nghĩa anh em với Thạch Sanh, rồi lừa đưa Thạch Sanh đi nộp mạng cho Chằn Tinh. Sự việc diễn ra không như suy tính của mẹ con Lí Thông, Thạch Sanh đã diệt được Chằn Tinh, trừ hại cho dân. Diệt được Chằn Tinh, chàng có được bộ cung tên bằng vàng. Mẹ con Lí Thông lại lập mưu cướp công của Thạch Sanh để được hưởng vinh hoa phú quý. Thạch Sanh quay về sống nơi gốc đa. Sau này, Thạch Sanh đã nhận ra được bản chất xấu xa của mẹ con Lí Thông nhưng chàng đã tha thứ cho họ. Điều đó khẳng định người tốt thường có tấm lòng nhân hậu và bao dung.
Thử thách lần thứ hai đối với chàng đó là Thạch Sanh đánh Đại Bàng cứu công chúa. Thạch Sanh dùng cung tên vàng làm vũ khí để bắn chim Đại Bàng cứu công chúa. Do tin người mà Thạch Sanh lại bị cướp công lần thứ hai. Sau khi cứu công chúa lên khỏi hang, Lí Thông cho người lấp cửa hang, Thạch Sanh bị nhốt lại dưới hang. Thật tàn nhẫn, bất nhân. Thật không công bằng khi một người làm mà kẻ khác được hưởng lợi. Nơi hang sâu, một lần nữa Thạch Sanh thể hiện dũng khí của mình. Chàng đã cứu được thái tử con vua Thủy Tề khỏi sự giam cầm của Đại Bàng. Thạch Sanh đúng là dũng sĩ tài năng. Chàng được vua Thủy Tề chiêu đãi và biếu tặng nhiều vàng bạc, châu báu. Chàng chỉ xin cây đàn rồi trở về gốc đa. Thạch Sanh đúng là con người thật thà, tài hoa, giàu lòng nhân ái, không tham bổng lộc.
Thử thách lần thứ ba Thạch Sanh đã vượt qua, chàng đã dùng tiếng đàn chữa bệnh cho công chúa Quỳnh Nga. Đang sống yên ổn, Thạch Sanh bị hồn Chằn Tinh, hồn Đại Bàng báo thù. Điều này làm ta liên tưởng đến cuộc sống đời thường đã từng có bao người dân lương thiện bị tai ương, bị vu oan. Chằn Tinh và Đại Bàng đã lấy trộm của cải của nhà vua đem giấu ở gốc đa rồi vu cáo cho Thạch Sanh. Người đời thường nói “Trong cái rủi lại có cái may”. Ở trong tù, Thạch Sanh mang đàn ra gảy. Công chúa đã nghe được tiếng đàn ai oán của Thạch Sanh. Tiếng đàn như tiếng nói chân chính của con người gặp oan trái đòi công lí. Phép màu nhiệm của tiếng đàn là đã khiến công chúa cười nói trở lại sau thời gian dài sống câm lặng:
“Đàn kêu: Ai chém chằn tinh
Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỡi Lí Thông mày
Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân?
Đàn kêu: Sao ở bất nhân
Biết ăn quả lại quên ân người trồng?”.
Tiếng đàn kì diệu còn có thêm một phép màu nhiệm, đó là: Giãi bày nỗi oan trái của Thạch Sanh. Âm thanh đó đã lọt đến tai của đức vua, người có quyền lực cao nhất trong xã hội lúc bấy giờ. Đức vua đã mang lại sự công bằng cho Thạch Sanh, người trừng trị kẻ có tội.
Trong truyện cổ tích thường có sự xuất hiện của yếu tố hoang đường kì ảo, như: Bụt có phép lạ, tấm thảm biết bay, tiếng đàn chữa được bệnh, một loài cây có thể cải tử hoàn sinh. Người bình dân gửi niềm mong ước vào các yếu tố thần kì. Vì sao ngày xưa con người không đặt niềm tin vào pháp luật, không đặt niềm tin vào những người được xem là trụ cột trong gia đình mà lại đặt niềm tin vào các thế lực siêu nhiên?
Người bình dân có thân phận thấp bé. Trong cuộc sống, chân lí luôn thuộc về kẻ mạnh. Truyện cổ tích Tấm Cám kể lại sự việc cô Tấm bị mẹ kế hãm hại. Vua biết, nhưng ông không làm gì để giúp Tấm. Trong xã hội phong kiến vua là người có quyền lực cao nhất. Vua phải mang lại sự công bằng cho dân chúng. Vua trong truyện Tấm Cám không mang được sự công bằng đến cho mọi người, không trừng trị được kẻ có tội. Ở truyện "Thạch Sanh", Lí Thông làm quan, là người có quyền hành nhưng tâm địa Lí Thông độc ác. Như vậy, vua quan có cũng như không. Trong gia đình, người mẹ, người anh được xem là trụ cột. Thế nhưng người mẹ kế, người anh cả lại đối xử không công bằng với chính những đứa con, những đứa em của mình. Thực tế cuộc sống quá nhiều bất công. Không thể đặt niềm tin vào những người thừa hành pháp luật. Không thể đặt niềm tin vào người thân. Vì vậy cho nên người bình dân đặt niềm tin của mình vào thần linh, vào các thế lực siêu nhiên. Người bình dân hi vọng thế lực siêu nhiên sẽ cứu giúp khi họ gặp khó khăn.
Nhờ cây đàn, món quà vô giá mà vua Thủy Tề ban tặng Thạch Sanh đã giãi bày được nỗi oan ức. Tiếng đàn Thạch Sanh là tiếng nói đòi công lí xã hội: “Cái thiện nhất định thắng cái ác”, “Ở hiền nhất định sẽ gặp lành.”, đó là ước mơ, là niềm tin lớn lao về sự công bằng của người dân lương thiện mỗi khi họ gặp nạn. Được kết hôn cùng công chúa, điều đó đã khẳng định đạo lí “Người làm việc nghĩa nhất định sẽ có ngày được đền ơn”. Còn Lí Thông “Gieo gió ắt sẽ gặt bão”. Được Thạch Sanh tha chết nhưng mẹ con Lí Thông về đến giữa đường bị sét đánh. Mẹ con Lí Thông chết hóa thành con bọ hung, loài côn trùng sống nơi nhơ bẩn. Đúng là trời không tha cho kẻ bất nhân. Điều này còn khẳng định thêm chân lí “Ác giả ác báo”. Con người tham lam, hèn nhác, độc ác, tàn nhẫn, xảo quyệt, bội bạc nhất định sẽ có ngày bị quả báo. Tôi tin vào công lí. Cuộc đời còn nhiều cái xấu nên con người cần phải có niềm tin. Vì có niềm tin mới giúp con người vượt qua được khó khăn.
Thạch Sanh thật thà, tốt bụng, dũng cảm, tài năng xứng đáng để nhà vua gả công chúa. Sự việc đó đã làm cho hoàng tử của các nước chư hầu tức giận. Thạch Sanh đã vượt qua thử thách này một cách kì diệu. Chàng đã chinh phục được các nước chư hầu bằng vũ khí kì lạ, đó là tiếng đàn. Dùng lời nói, dùng lí lẽ để thuyết phục kẻ thù, khiến kẻ thù từ bỏ vũ khí, đó cũng là niềm mong ước của người bình dân. Thạch Sanh đã thuyết phục được kẻ thù, bảo vệ được đất nước. Một lần nữa nhân cách Thạch Sanh tỏa sáng. Sau khi chiến thắng, chàng đã thết đãi những kẻ thua trận bằng niêu cơm kì diệu “Ăn mãi không vơi”. Sự việc đó khẳng định Thạch Sanh đúng là người giàu lòng nhân ái, là người tha thiết yêu hòa bình.
Thạch Sanh chính là biểu tượng tuyệt đẹp của con người Việt Nam trong lao động, trong chiến đấu, trong tình yêu và hạnh phúc gia đình.
Cuộc sống hiện tại, không có cây đàn thần kì, không có niêu cơm ăn mãi không hết, chỉ có tiếng nói và sức lao động của con người. Tiếng nói, sức lao động của con người mới chính là những yếu tố thần kì làm nên điều kì diệu.
Tôi có theo dõi thông tin, thiên đình đang vào hội. Ở chốn âm ti Lí Thông tự ứng cử. Lí Thông đang ráo riết vận động tranh cử để được mọi người bầu làm nghị viên đại diện cho đại biểu chốn âm ti.
Người như Lí Thông mà làm nghị viên đại diện cho chốn âm ti thì thật khổ cho những linh hồn tội lỗi.
Người sống có trách nhiệm với bản thân, sống có trách nhiệm với mọi người đó chính là những Thạch Sanh trong thời đại mới. Cuộc sống đã thay đổi nhưng con người vẫn còn mong đợi nhiều từ tiếng đàn của Thạch Sanh.
Đây bài học rút ra nhé bạn!
Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng mượn chuyện loài vật để nói bóng gió, kín đáo về chuyện của loài người. Từ cách nhìn nhận, đánh giá thế giới bên ngoài chỉ qua Cái miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, các tác giả dân gian ngầm phê phán những kẻ với sự hiểu biết hạn hẹp, nông cạn nhưng lại hay tỏ vẻ ta đây. Đồng thời, truyện cũng ngầm khuyên nhủ mọi người nên cố gắng mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết; không nên chủ quan, kiêu ngạo. Đừng để thiên hạ đánh giá mình là loại: “Ếch ngồi đáy giếng”.
Tối thứ bảy hàng tuần, tôi đều được bà kể cho nghe truyện ngày xưa. Trong đó có những câu chuyện ngụ ngôn tuy ngắn nhưng thật hay và bổ ích, giúp con người thấy được nhiều bài học trong cuộc sống. Hôm nay, bà đã kể cho tôi chuyện “Ếch ngồi đáy giếng”.
Bà nội tôi thuộc rất nhiều ca dao, tục ngữ, thành ngữ... Vì thế khi nói chuyện bả hay chêm vào đó những câu tục ngữ lạ mà tôi không hiểu. Những lúc như thế bà lại cặn kẽ giảng giải. Hôm nay, bà nói về câu tục ngữ “Ếch ngồi đáy giếng” chỉ những kẻ dù hiểu biết rất cạn hẹp nhưng lúc nào cũng huyênh hoang, tự đắc. Rồi để giải thích cho tôi hiểu hơn, bà kể lại cho tôi nguồn gốc câu thành ngữ ấy.
Ngày xưa, có một chú ếch sống trong một cái giếng nhỏ. Vì sống ở đó lâu ngày nên nó không biết thế giới ở ngoài kia ra sao. Xung quanh nó chỉ có vài con cua, ốc, nhái bé nhỏ... nên tưởng rằng mình là to là mạnh nhất. Ếch ta tự hào lắm về tiếng kêu ồm ộp của mình. Mỗi khi nó kêu làm vang động cá cái giếng nhỏ, khiến những con vật kia rất hoảng sợ. Ếch cứ ngỡ mình rất oai. Ngẩng mặt lên nhìn trời, nó thấy bầu trời chỉ bằng chiếc vung chứ không cao và rộng lớn như người ta thường đồn đại. Ểch ta kiêu hãnh lắm và cho rằng trời quá bé nhỏ còn nó mới xứng là một vị chúa tể. Suy nghĩ ấy đã làm cho ếch ta coi thường mọi vật. Trong cái nhìn của ếch thì chẳng có ai bằng nó cả. Thế nên, một năm trời mưa to, nước trong giếng dâng cao, đưa ếch ta ra ngoài. Quen cái nhìn cũ, quen cách nghĩ cũ, ếch huyênh hoang đi lại trên đường, đi khắp nơi như chốn không người. Theo thói quen, nó cất tiếng kêu ồm ộp và tưởng rằng ai cũng sợ như dưới đáy giếng kia. Nó đưa cặp mắt lên nhìn và vẫn cho rằng bầu trời bé tẹo như cái vung nên chẳng để ý gì đến xung quanh. Bỗng nó thấy tối sầm lại, không nhìn rõ gì nữa. Một vật gì rất lớn che mất tầm nhìn của nó. Nó đâu biết rằng đó là chân của một con trâu nên đã bị giẫm bẹp. Thế là hết đời một con ếch ngông nghênh.
Nghe câu chuyện bà kể, tôi thấy chú ếch con thật đáng chê trách. Những người trẻ, ít kinh nghiệm, hiểu biết nhưng lại là những người có tính cách hung hăng, huyênh hoang, ngông nghênh nhiều nhất. Có lẽ vì còn chưa hiểu biết nhiều nên họ mới làm những việc kém hiểu biết. Vì thế, những người trẻ tuổi phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không chỉ trong sách vở mà còn nhiều lĩnh vực khác, không chủ quan hay kiêu ngạo. Những tính cách đó chỉ làm hỏng một con người mà thôi, đôi khi còn làm cho người khác bị tổn thương nữa.
Bao giờ kể chuyện xong bà cũng giúp tôi rút ra những bài học quí báu, không cao sang, xa vời mà rất thực tế, gần gũi. Tôi luôn lắng nghe những điều bà dặn để áp dụng vào cuộc sống. Bản thân tôi cũng như tất cả mọi người, không ai là hoàn hảo nên luôn phải học hỏi lẫn nhau, những khiếm khuyết của mình sẽ được tri thức của người khác bổ sung và ngược lại. Do đó, không được giấu điểm yếu kém. Bà còn bảo tôi phải học thật chăm để không bị kém hiểu biết, có như thế mới không suy nghĩ hay hành động thiếu hiểu biết. Quả thực những điều bà dặn dò tôi đòi hỏi một sự cố găng nỗ lực và tự giác rất lớn nhưng dù thế nào tôi cũng không thể để mình như chú ếch ngồi đáy giếng được.
Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng của ông cha ta thật sâu sắc: Nói chuyện của loài vật nhưng mục đích là nói chuỵện loài người. Bất kì ai khi đọc truyện cũng sẽ tự rút ra được cho mình bài học cần thiết và bổ ích.