Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đời sống của công nhân Đức vô cùng khổ cực. Ngoài ách bóc lột tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân Đức vẫn phải đeo trên vai mình gánh nặng của ách thống trị phong kiến, vì vậy, công nhân đã nhiều lần đứng dậy đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Sơlêdin năm 1844. Tuy thất bại, sự kiện Sơlêdin chứng tỏ rằng giai cấp công nhân ở Đức cũng như ở Anh và Pháp đã bước đầu tiến hành đấu tranh cho quyền lợi giai cấp của mình. Cuộc khởi nghĩa Sơlêdin được sự đồng tình của công nhân các quốc gia Đức, Tiệp và nhiều nơi khác, Nó có tác dụng góp phần vào việc làm thức tỉnh và đoàn kết giai cấp công nhân Đức.
Đáp án cần chọn là: A

6.
Nước Nga năm 1917 có 2 cuộc cách mạng:
- Đầu thế kỉ XX, nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân khó khăn, Nga hoàng tham gia chiến tranh TG thứ I.
- Nhân dân Nga tiến hành cách mạng tháng 2 lật đổ Nga, nhưng sau khi Nga hoàng bị lật đổ nước Nga tồn tại 2 chính quyền.
- Chính phủ tư sản vẫn theo đuổi chiến tranh TG thứ I, Lê Nin lãn đạo nhân dân Nga tiến hành cách mạng tháng 10 để lật đổ chính phủ tư sản.
------>nên năm 1917 nước Nga có 2 cuộc cách mạng.
Ý nghĩa LS cách mạng tháng 10:
- Đối với nước Nga:
+ Làm thay đổi vận mệnh của nước Nga, đưa người lao đọng lên nắm chính quyền.
+Xây dựng chế độ mới XH-CN.
- Đối với TG:
+ Để lại bài học quý báo cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Cổ vũ các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi.
c4 trong sách lịch sử 8 trang 37
chắn chắc luôn thầy mink bảo đó

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
Dù tôi có đưa ra ít ví dụ hơn nữa, thì mọi người vẫn phải đồng ý với tôi rằng: công nhân Anh không thể cảm thấy hạnh phúc trong tình cảnh của họ, cái tình cảnh mà ở đó, cả cá nhân cũng như toàn bộ giai cấp đều không thể sống, cảm giác và suy nghĩ như con người. Vì thế, công nhân phải đấu tranh, để thoát khỏi cái tình cảnh chỉ xứng với súc vật ấy, để có được một tình cảnh tốt hơn, hợp với con người hơn. Và họ không thể làm thế, nếu không tấn công vào lợi ích của giai cấp tư sản, lợi ích đó chính là ở chỗ bóc lột công nhân. Nhưng giai cấp tư sản lại bảo vệ lợi ích của mình, với tất cả sức mạnh mà tài sản và chính quyền của chúng cho phép. Khi công nhân vừa mới tỏ ra muốn thoát khỏi tình cảnh hiện tại, thì lập tức người tư sản trở thành kẻ thù công khai của họ.
Hơn nữa, công nhân lúc nào cũng thấy giai cấp tư sản coi họ như đồ vật và tài sản của chúng, chỉ điều này cũng đủ làm cho công nhân trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản. Tôi đã đưa ra hàng trăm ví dụ, và có thể đưa ra hàng trăm ví dụ nữa, để chứng minh rằng: trong điều kiện hiện nay, chỉ nhờ có việc căm thù và chống lại giai cấp tư sản, thì công nhân mới cứu vãn được phẩm giá con người của mình. Công nhân Anh có năng lực chống lại sự bạo ngược của bọn hữu sản một cách cực kì mãnh liệt; đó là nhờ họ tự giáo dục mình, đúng hơn là nhờ họ không được giáo dục, cũng như nhờ dòng máu nóng của người Ireland hòa trộn bên trong họ.
Công nhân Anh không còn là người Anh theo nghĩa thông thường: không phải thứ con buôn luôn tính toán như đồng bào tư sản của mình, anh ta giàu tình cảm hơn nhiều; ở anh ta, tính khí lạnh lùng của người miền Bắc đã bị át đi, bởi lòng nhiệt tình sôi nổi đã phát triển và chi phối anh ta, mà không bị trở ngại. Việc rèn luyện lí trí đã phát triển mạnh mẽ tính ích kỉ của người tư sản Anh, đã khiến sự ích kỉ trở thành nét tiêu biểu của y, làm cho toàn bộ tình cảm của y chỉ tập trung vào việc chạy đua kiếm tiền; công nhân không có sự rèn luyện lí trí ấy, thế nên nhiệt tình của họ cũng mạnh mẽ và kịch liệt như ở người nước ngoài. Ở công nhân, những đặc trưng dân tộc của người Anh đã mất đi.
Như ta đã thấy, ngoài việc đấu tranh chống lại tình cảnh của mình, thì công nhân không có chỗ nào khác để biểu lộ nhân cách của mình nữa; thế nên đương nhiên là chính trong sự phản kháng ấy, công nhân đã biểu hiện những điều tốt đẹp nhất, cao quí nhất, nhân đạo nhất. Ta sẽ thấy là toàn bộ lực lượng và hoạt động của công nhân đều nhằm vào hướng này, và cả những cố gắng để có được một nền giáo dục xứng đáng với con người đều có quan hệ trực tiếp với điểm ấy. Dĩ nhiên, ta phải nói đến một vài hành vi cá biệt có tính bạo lực, thậm chí là thô bạo, nhưng không bao giờ nên quên rằng: ở Anh đang diễn ra một cuộc chiến tranh xã hội công khai; và nếu giai cấp tư sản thích dùng chiêu bài hòa bình, thậm chí là bác ái, để tiến hành cuộc chiến ấy một cách đạo đức giả, thì chỉ có vạch trần sự thật, lột bỏ cái mặt nạ đạo đức giả ấy, mới có lợi cho công nhân; bởi vậy, ngay cả những hành động bạo lực dữ dội nhất của công nhân, để chống lại giai cấp tư sản và tay sai của nó, cũng chỉ là biểu hiện công khai, không che đậy, của cái mà giai cấp tư sản đã làm một cách kín đáo và lén lút đối với công nhân.
Công nghiệp phát triển chưa được bao lâu, thì cuộc đấu tranh của công nhân chống giai cấp tư sản đã nổ ra, và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ở đây tôi không thể nói tỉ mỉ về ý nghĩa lịch sử của những giai đoạn ấy đối với sự phát triển của nhân dân Anh; đấy là chủ đề của một tác phẩm khác. Tôi chỉ thuật lại những sự kiện cần thiết, để nói rõ tình cảnh của giai cấp vô sản Anh.
Hình thức đầu tiên, thô sơ và ít hiệu quả nhất của sự đấu tranh là phạm tội. Công nhân phải sống nghèo khổ, bần cùng, lại thấy đời sống của kẻ khác khá hơn mình; anh ta không hiểu: tại sao mình lao động cho xã hội nhiều hơn bọn nhà giàu ăn không ngồi rồi, mà phải chịu thiếu thốn như thế. Và sự đói khổ đã thắng lòng tôn kính cổ truyền của anh ta đối với quyền sở hữu, do đó anh ta ăn cắp. Ta đã thấy: cùng với sự phát triển của công nghiệp, những vụ phạm tội ngày càng tăng, số người bị bắt hàng năm tăng theo cùng tỉ lệ với số hàng bông được tiêu dùng.
Công nhân đã sớm nhận ra là làm thế thì chẳng ích gì. Việc phạm tội chỉ là hành động đơn thương độc mã chống lại chế độ xã hội hiện tồn, với tư cách cá nhân; mà xã hội có thể dùng mọi sức mạnh để đối phó, và áp đảo kẻ địch đơn độc bằng ưu thế tuyệt đối. Hơn nữa, trộm cắp là hình thức đấu tranh thô sơ và vô ý thức nhất; thế nên riêng một việc đó không thể trở thành biểu hiện chung của dư luận công nhân, dù họ vẫn ngầm tán thành. Sự chống đối của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản chỉ bắt đầu, khi công nhân dùng bạo lực để chống lại việc sử dụng máy móc, việc này đã xảy ra ở buổi đầu của cách mạng công nghiệp. Những nhà phát minh đầu tiên, như Arkwright và những người khác, đã bị thứ bạo lực ấy hãm hại, còn máy móc của họ thì bị phá hủy; về sau lại nổ ra nhiều cuộc nổi dậy chống sử dụng máy móc, nó hầu như giống hệt với những cuộc bạo loạn của công nhân in vải hoa ở Bohemia tháng Sáu 1844: máy móc và công xưởng đều bị phá hủy.
Hình thức phản kháng ấy cũng có tính cô lập, bị hạn chế ở những khu vực cá biệt, chỉ nhằm vào một mặt của các quan hệ xã hội hiện hành. Hơn nữa, ngay khi công nhân vừa giành được thắng lợi chốc lát, thì toàn bộ sức nặng của quyền lực xã hội liền đè lên những kẻ phạm tội không có gì tự vệ, và mặc sức trừng phạt họ, còn máy móc thì lại vẫn được dùng. Phải tìm ra một hình thức đấu tranh mới.
Khi đó, nghị viện cũ (trước khi cải cách), do đảng Tory nắm, đã thông qua một đạo luật để giúp công nhân; nó sẽ chẳng bao giờ được Hạ viện sau này thông qua, khi mà dự luật cải cách đã thừa nhận sự đối lập giữa tư sản với vô sản, và đưa giai cấp tư sản lên hàng thống trị. Được thông qua năm 1824, nó đã xóa bỏ mọi đạo luật trước kia cấm công nhân liên kết lại để bảo vệ lợi ích của mình. Thế là công nhân cóquyền lập hội, một quyền mà trước kia chỉ quí tộc và tư sản mới có. Thực ra thì trong công nhân vẫn thường có những hội bí mật, nhưng chúng không thể có thành tích gì đáng kể. Như ở Scotland, theo Symons ("Nghề thủ công và thợ thủ công", tr. 137 và các trang sau), năm 1812 đã có tổng bãi công của thợ dệt ở Glasgow, do một hội bí mật tổ chức. Năm 1822 lại có bãi công, có hai công nhân, vì không chịu vào hội nên đã bị coi là phản bội giai cấp mình; họ đều bị tạt acid sulfuric vào mặt, do đó bị mù. Năm 1818, hội thợ mỏ ở Scotland đã đủ mạnh để tiến hành tổng bãi công. Mỗi hội viên của hội này đã thề trung thành và giữ bí mật, có danh sách hội viên, quĩ hội, sổ sách và các chi hội địa phương. Nhưng tính chất bí mật của toàn bộ hoạt động đã gây trở ngại cho sự phát triển của các hội ấy. Đến năm 1824, công nhân có quyền tự do lập hội, thì những hội ấy lan rộng rất nhanh trên khắp nước Anh, và có ảnh hưởng lớn. Trong mọi ngành lao động đều thành lập các công liên như thế, với chủ trương công khai là bảo vệ từng công nhân riêng lẻ, chống sự bạo ngược và nhẫn tâm của giai cấp tư sản. Mục đích của những công liên ấy là: qui định tiền lương, thương lượng với giới chủ trên tư cách là một lực lượng, điều chỉnh tiền lương theo lợi nhuận của chủ, tăng lương khi có thể, và giữ một mức lương bằng nhau cho một nghề ở mọi nơi. Do đó, họ thường đấu tranh đòi các nhà tư bản thực hiện một mức lương chung, và tuyên bố bãi công với người nào không chấp nhận mức đó. Thứ nữa, công liên hạn chế việc tuyển thợ học việc, để giữ vững nhu cầu về nhân công của bọn tư bản, từ đó giữ vững tiền lương; cố gắng hết sức chống các thủ đoạn hạ thấp tiền lương của chủ xưởng, như việc dùng máy móc và công cụ mới, v.v.; cuối cùng là giúp tiền cho công nhân thất nghiệp. Việc này được tiến hành trực tiếp bằng tiền quĩ, hoặc gián tiếp bằng việc cấp một cái thẻ xác nhận là "người trong hội" cho mỗi công nhân; người có thẻ đó, khi đi từ nơi này tới nơi khác, sẽ được bạn cùng nghề giúp đỡ và chỉ cho nơi nào dễ tìm việc. Cảnh sống lang thang đó của công nhân được gọi là "the tramp", còn anh công nhân đi lang thang ấy được gọi là tramper. Để đạt những mục đích nói trên, công liên cử một chủ tịch và một thư kí ăn lương, vì rõ ràng là không chủ xưởng nào thuê những người ấy; và lập một ban chấp hành, để thu hội phí hàng tuần, đảm bảo rằng số tiền ấy được dùng đúng với mục đích của công liên. Khi có thể và có lợi, các công liên ở từng khu liên kết thành một liên hiệp công liên, có tổ chức hội nghị đại biểu định kì. Trong vài trường hợp riêng biệt, người ta đã thử tập hợp mọi công nhân của một ngành vào một công liên lớn của cả nước Anh; cũng có nhiều lần, đầu tiên là vào năm 1830, người ta đã thử lập một liên hiệp công nhân thống nhất toàn quốc, đồng thời mỗi ngành nghề vẫn giữ tổ chức riêng của mình. Nhưng các liên hiệp ấy không tồn tại lâu, thậm chí rất ít được thành lập; vì phải có một cao trào đặc biệt rộng khắp, thì chúng mới có thể ra đời và hoạt động hiệu quả.
Để thực hiện mục đích của mình, các công liên thường dùng những biện pháp sau: nếu có một vài chủ xưởng không thừa nhận mức lương do công liên qui định, thì công liên cử một đoàn đại biểu tới gặp họ, hoặc gửi cho họ một đơn thỉnh nguyện (ta thấy là công nhân biết coi trọng quyền lực chuyên chế tuyệt đối của chủ xưởng trong vương quốc nhỏ của y). Nếu làm thế không có kết quả, thì công liên ra lệnh đình công: tất cả công nhân giải tán về nhà. Nếu chỉ có một vài chủ xưởng không chịu theo mức lương do công liên đề xuất, thì cuộc bãi công đó (gọi là turn-out hoặc strike) chỉ là cục bộ; nếu tất cả các chủ xưởng trong một ngành đều làm thế, thì cuộc bãi công trở thành tổng bãi công. Đó là những thủ đoạn hợp pháp của công liên: chỉ là hợp pháp nếu cuộc bãi công được báo trước, thực tế thì không phải lúc nà...

2. sự kiện tiêu biểu : khởi nghĩa Xipay , Đảng Quốc Đại ...
Ấn Độ là nước lớn thứ hai ở châu Á, với diện tích gần 3,3 triệu km2, dân số 1 tỉ 20 triệu người (năm 2000). Thắng lợi của Liên Xô và các nước đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã cổ vũ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi, Mĩ Latinh trong đó có Ấn Độ. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, giành độc lập của Ấn Độ phát triển mạnh mẽ.

Năm 1885, quan quân triều đình nổi dậy tấn công Pháp ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chạỵ ra Tân Sở thuộc Quảng Trị; tại đây Tôn Thất Thuyệt mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu Cần Vương kêu gọi người Việt nổi dậy đánh Pháp giúp vua. Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra trong đó tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa ở Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo... Phong trào vẫn tiếp tục phát triển cả sau thời gian vua Hàm Nghi bị Pháp bắt giữ (năm 1888); nó chỉ thực sự chấm dứt khi lãnh đạo cuộc nổi dậy ở Hương Khê là Phan Đình Phùng chết cuối năm 1895.
-Diến biến:
- Diễn biến
+ 13/7/1885: Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cùng chống Pháp
+ gd1(1885-1888): phong trào bùng nổ khắp cả nước, sôi động nhất là các tỉnh Trung Kì và Bắc Kì
+ gd2(1889-1896): quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn, có quy mô và trình độ tổ chức cao hơn
- Kết quả
+ (11/1888): Vua Hàm Nghi bị bắt và đi đày sang An-giê-ri
+ (1889-1896): Có quy mô và trình độ tổ chức cao hơn
- Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh trong cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Câu 2:
Nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa Yên Thế :
- Kinh tế nông nghiệp sa sút, đời sống nông dân đồng bằng Bắc Kì vô cùng khó khăn, một bộ phận phải phiêu tán lên Yên Thế, họ sẵn sàng nổi dậy đấu tranh bảo vệ cuộc sống của mình.
- Khi Pháp thi hành chính sách bình định, cuộc sống bị xâm phạm, nhân dân Yên Thế đã đứng dậy đấu tranh
* Giai đoạn 1 (1884->1892)
- Nghĩa quân còn hoạt động riêng lẽ, thủ lĩnh là Đề Nắm sau là Đề Thám (Hoàng Hoa Thám)
* Giai đoạn 1893-> 1892
-Thời kỳ nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở
-Do tương quan lực lượng nghĩa quân đã hai lần hòa giải với Pháp
- Tranh thủ thời gian hòa giản lần tứ 2; nghĩa quân đồn điền tích lũy lương thực và liên lạc vs nhiều nhà yêu nước: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
* Giai đoạn 3:
Pháp tấn công quy mô lên Yên Thế, lực lượng nghĩa quân hao mòn dần
- 10/2/1913, Đề Thám hy sinh, phong trào Yên Thế tất bại
- Nguyên nhân khởi nghĩa lâu dài do phần nào kết hợp được vấn đề dân tộc và dân chủ (ruộng ất) cho dân
- Là phong đấu tranh lớn nhất của nông dân cuối thế kỷ XIX.
- Thể hiện ý chí, sức mạnh của nông dân.
- Làm chậm quá trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp.
- Nông dân cần có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo.
* Diễn biến:
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Liền theo đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh.
Với mục tiêu xây dựng chế độ quân chủ lập hiến (tương tự như Nhật và Anh), Lương-Khang đã lôi kéo được vua Quang Tự tham gia vào kế hoạch lần này. Vua Quang Tự, một mặt thấy được ích lợi từ việc cải cách của Nhật, một mặt muốn nhờ tay Khang-Lương để lấy lại quyèn lực từ tay thái hậu Từ Hy, nên đã đồng ý tham gia và ủng hộ để 2 vị tiến hành cuộc cách mạng này.
Về bản chất và ý nghĩa, đây là một cuộc cách mạng không triệt để của các lực lượng tư sản TQ, mở đường cho TQ tiến lên thành một nước quân chủ lập hiến, làm tiền đề để phát triển cũng như tìm cách chống lại các thế lực ngoại xâm. Tuy thất bại nhưng cuộc cách mạng cũng cho thấy rằng các lực lượng tư sản trong nước đã có bước lớn mạnh, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc cách mạng tư sản lớn sau này.

- Phạm vi hoạt động: rộng lớn, diễn ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu là Trung, Bắc Kì, về sau chuyển về vùng trung du, miền núi.
- Lãnh đạo: gồm các văn thân sĩ phu yêu nước.
- Mục tiêu chung: đánh Pháp, giành lại độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, lập lại chế độ phong kiến.
- Lực lượng tham gia: các văn thân sĩ phu yêu nước và nông dân, đồng thời có các tộc người thiểu số.
- Hình thức đấu tranh: khởi nghĩa vũ trang.
- Kết quả: phong trào kéo dài hơn 10 năm, gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng cuối cùng đã thất bại.
-Ý nghĩa:+ Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động sự ủng hộ của đông đảo nhân dân; tranh thủ sự giúp đỡ mọi mặt của đồng bào.
+ Biết sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, khai thác sức mạnh tại chỗ, phát huy tính chủ động sáng tạo trong cách đánh, lối đánh của cuộc chiến tranh.

1. Những năm 60 của thế kỷ 19 ,trong khi thực dân pháp ráo riết mở rộng chiến tranh xâm lược thì triều đình huế đẫ thực hiện chính sách gì?
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, trong khi thực dân Pháp ráo riết mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Nam Kì, chuẩn bị tấn công đánh chiếm cả nước ta thì triều đình Huế vẫn tiếp tục thực hiện các chính sách nội trị, ngoại giao lỗi thời, lạc hậu khiến cho kinh tế, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương trở nên mục ruỗng ; nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đình trệ ; tài chính cạn kiệt, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt thêm.
Trong bối cảnh đó, các trào lưu cải cách duy tân ra đời.
Trước tình trạng đất nước ngày một nguy khốn, đồng thời xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, muốn cho nước nhà giàu mạnh, có thể đương đầu với cuộc tấn công ngày càng dồn dập của kẻ thù, một số quan lại, sĩ phu yêu nước thức thời đã mạnh dạn đưa ra những đề nghị, yêu cầu đổi mới công việc nội trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá... của nhà nước phong kiến.
2. Năm 1877 và 1882 Nguyễn Lệ Trạch dâng vua Tự Đức 2 bản thời vụ sách đề nghị cải cách vấn đề gì ?
Vào các năm 1877 và 1882 , Nguyễn Lộ Trạch còn dâng hai bản " Thời vụ sách " lên vua Tự Đức , đề nghị chấn hưng dân khí , khai thông dân trí , bảo vệ đất nước.
3. Chỉ huy cuộc khởi nghĩa 3 đình là ai?
Chỉ huy cứ điểm là Phạm Bành và Đinh Công Tráng.
4. Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương là cuộc khởi nghĩa nào?
- Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương.
5. Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công quân pháp ở đâu
Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công quân Pháp ở tòa Khâm Sứ và đồn Mang cá.
1.Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương khi nào ?
Năm 1885
Đáp án cần chọn là: A
Đời sống của công nhân Đức vô cùng khổ cực. Ngoài ách bóc lột tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân Đức vẫn phải đeo trên vai mình gánh nặng của ách thống trị phong kiến, vì vậy, công nhân đã nhiều lần đứng dậy đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Sơlêdin năm 1844. Tuy thất bại, sự kiện Sơlêdin chứng tỏ rằng giai cấp công nhân ở Đức cũng như ở Anh và Pháp đã bước đầu tiến hành đấu tranh cho quyền lợi giai cấp của mình. Cuộc khởi nghĩa Sơlêdin được sự đồng tình của công nhân các quốc gia Đức, Tiệp và nhiều nơi khác, Nó có tác dụng góp phần vào việc làm thức tỉnh và đoàn kết giai cấp công nhân Đức.