K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Trong đoạn thơ trích từ bài Một khúc ca, nhà thơ Tố Hữu viết:

“Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Lẽ nào vay mà không có trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

Qua những hình ảnh gần gũi và ngôn ngữ giản dị, Tố Hữu đã thể hiện một quan niệm sống cao đẹp: sống là để cho đi, là cống hiến, chứ không chỉ để nhận riêng phần mình.

Theo Tố Hữu, bất cứ sự sống nào tồn tại trên đời cũng phải có ích. Con chim sống là để hót, làm vui cho đời; chiếc lá sống là để xanh, góp phần làm đẹp và nuôi dưỡng cây. Con người cũng vậy, sống không chỉ để thụ hưởng mà phải biết đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội. Đó là trách nhiệm, là đạo lý làm người.

Quan niệm “sống là cho” đề cao lối sống vị tha, biết sẻ chia và sống vì người khác. Trong một xã hội văn minh, những người biết cống hiến luôn được trân trọng và yêu quý. Họ sống không chỉ vì bản thân mà còn vì tập thể, vì tương lai của cộng đồng. Ngược lại, nếu sống ích kỷ, chỉ biết nhận mà không biết cho đi, con người sẽ trở nên nhỏ bé và cô đơn giữa cuộc đời rộng lớn.

Quan điểm sống của Tố Hữu mang giá trị giáo dục sâu sắc, đặc biệt với thế hệ trẻ ngày nay. Mỗi người, dù ở vị trí nào, cũng có thể cho đi – bằng hành động, tấm lòng, hay trí tuệ. Việc giúp đỡ bạn bè, tham gia công tác xã hội, học tập tốt để sau này góp phần xây dựng đất nước – đó chính là sống đẹp, sống có ích.

Tóm lại, quan niệm sống mà Tố Hữu thể hiện trong đoạn thơ là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: hãy sống để cống hiến, để góp phần làm cho cuộc đời này tốt đẹp hơn. Sống là cho đi – đó mới là cách sống ý nghĩa và bền vững nhất.

bạn tk

26 tháng 7

Suy nghĩ về quan niệm sống của Tố Hữu trong đoạn thơ “Một khúc ca”

Trong bài thơ “Một khúc ca”, Tố Hữu đã để lại những câu thơ sâu sắc về lẽ sống cao đẹp của con người:

“Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã khẳng định một quan niệm sống đầy nhân văn: sống là để cống hiến, để mang lại giá trị cho cuộc đời chứ không phải chỉ biết hưởng thụ hay nhận riêng về mình. Hình ảnh "con chim", "chiếc lá" mang tính biểu tượng cao. Chim sinh ra để hót, lá sinh ra để xanh, con người sinh ra cũng phải có ích cho cộng đồng. Không ai sống trong thế giới này mà chỉ "vay" mà không có "trả", chỉ nhận mà không cho đi. Sống là sự sẻ chia, là trách nhiệm với người khác, là ý thức về sự gắn bó với cộng đồng và đất nước.

Quan niệm sống ấy rất phù hợp với đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Lá lành đùm lá rách" của dân tộc Việt Nam. Nó nhắc nhở mỗi chúng ta hãy biết sống đẹp, sống có lý tưởng và sống vì người khác. Trong cuộc sống hiện đại, khi mà chủ nghĩa cá nhân có xu hướng lên cao, thì lời thơ của Tố Hữu lại càng có giá trị thức tỉnh: đừng chỉ chăm lo cho bản thân mà quên mất cộng đồng quanh mình.

Thực tế đã chứng minh, những con người sống vì người khác luôn để lại dấu ấn tốt đẹp. Họ có thể là bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch, là thầy cô ngày ngày miệt mài gieo con chữ, là những người bình thường nhưng sẵn sàng giúp đỡ người lạ khi gặp hoạn nạn. Chính họ là minh chứng rõ ràng nhất cho lẽ sống “cho đi” mà Tố Hữu gửi gắm.

Từ quan niệm sống ấy, bản thân em nhận ra rằng: sống đẹp không cần điều gì to tát, mà bắt đầu từ những việc nhỏ hằng ngày – như biết giúp đỡ người khác, chia sẻ với bạn bè, làm tròn trách nhiệm của mình. Chỉ khi biết cho đi, con người mới sống có ý nghĩa và hạnh phúc thật sự.

Tham khảo

15 tháng 12 2016

Bài này ở đâu ra vậy bạn?lolang

17 tháng 1 2017

thơ hả bạn???

9 tháng 11 2016

ai jup e vs

 

14 tháng 11 2016

cậu đã làm bài này chưa

I. Đọc hiểu (3.0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới:             (1) Enrico, hãy nhớ điều này: mỗi khi con gặp một cụ già, một kẻ khó, một người đàn bà đang bế con, một người què chống nạng, một người đang còng lưng gánh nặng, một gia đình đang tang tóc, con đều phải nhường bước cung kính. Chúng ta phải kính trọng: tuổi già, nỗi khổ, tình...
Đọc tiếp

I. Đọc hiểu (3.0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới:

            (1) Enrico, hãy nhớ điều này: mỗi khi con gặp một cụ già, một kẻ khó, một người đàn bà đang bế con, một người què chống nạng, một người đang còng lưng gánh nặng, một gia đình đang tang tóc, con đều phải nhường bước cung kính. Chúng ta phải kính trọng: tuổi già, nỗi khổ, tình mẹ con, kẻ tật nguyền, sự vất vả và cái chết.

            (2) Mỗi khi con thấy một kẻ sắp bị xe húc phải, nếu là một người lớn thì con phải thét lên báo cho người ta tránh, nếu là một em bé thì con hãy chạy đến cứu ngay. Thấy một đứa bé đứng khóc một mình, hãy hỏi tại sao nó khóc và an ủi nó, nếu con có thể làm được. Người già rơi cái gậy, con hãy nhặt lên cho người ta. Nếu hai đứa trẻ đánh nhau, con hãy can ngay chúng ta. Nhưng nếu là hai người lớn thì con hãy tránh xa ra, để khỏi phải chứng kiến cảnh hung dữ thô bao, làm cho tấm lòng thành ra sắt đá. (…) Con không được nhạo báng ai hết, đừng chen lấn ai hết, đừng la hét, phải tôn trọng trật tự của đường phố. Ở đâu mà con thấy cảnh thô lỗ diễn ra ngoài đường phố thì con chắc chắn sẽ thấy cảnh thô lỗ diễn ra trong các gia đình vậy.

         (Trích Edmondo De Amicis, Những tấm lòng cao cả,

NXB Văn học, Hà Nội, 2002)

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.

Câu 2. Theo tác giả, chúng ta cần phải kính trọng những điều gì?

Câu 3. Chỉ ra và phân tích hiệu quả của phép điệp cấu trúc được sử dụng trong đoạn (2)?

Câu 4. Thông điệp nào có ý nghĩa nhất với anh/chị? Vì sao?

26
15 tháng 5 2021

Gợi ý trả lời

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ là: biểu cảm.

Câu 2: Theo tác giả, chúng ta cần phải kính trọng những điều sau: : tuổi già, nỗi khổ, tình mẹ con, kẻ tật nguyền, sự vất vả và cái chết.

Câu 3:

Điệp cấu trúc “nếu là … con hãy (con phải) được lặp lại 4 lần có tác dụng:

- Nhấn mạnh lời cha dạy con có cách ứng xử phù hợp với những tình huống có thể gặp trong cuộc đời để con trở thành một người tử tế, biết quan tâm, không bị ảnh hưởng bởi cái xấu.

- Tạo sự liên kết, logic cho văn bản.

Câu 4:

Thông điệp:

 Phải biết giúp đỡ những người gặp hoạn nạn.

16 tháng 5 2021

Câu 1:

Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là: biểu cảm

Câu 2:

Theo tác giả, chúng ta cần phải kính trọng những điều: tuổi già, nỗi khổ, tình mẹ con, kẻ tật nguyền, sự vất vả và cái chết

Câu 3:

Phép điệp cấu trúc: nếu là….con hãy.

Được lặp di lặp lại 4 lần có tác dụng:

- Nhấn mạnh lời cha dạy con có cách ứng xử phù hợp với những tình huống có thể gặp trong cuộc đời để con trở thành 1 người tử tế, biết quan tâm, không bị ảnh hưởng bởi cái xấu

- Tạo sự liên kết, logic cho văn bản

Câu 4:

Theo em, thông điệp có ý nghĩa nhất là: phải biết giúp đỡ những người gặp hoạn nạn. Vì khi chúng ta mở rộng tấm lòng, chia sẻ với người khác những niềm vui,nỗi buồn của mình, học cách lắng nghe, đồng cảm, sẻ chia với những buồn vui, khó khăn của người khác. Khi đó, ta sẽ thấy yêu đời và yêu người hơn, cuộc sống này ấm áp yêu thương và đáng sống biết bao.

mọi người hãy xem bài em có đúng k ạNghị luận xã hội - Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu có viết: Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”“Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Vì đời người chỉ sống có một lần”. Vậy phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ...
Đọc tiếp

mọi người hãy xem bài em có đúng k ạ

Nghị luận xã hội - Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu có viết: Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

“Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Vì đời người chỉ sống có một lần”. Vậy phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn?”. Để trả lời với tất cả chúng ta câu hỏi đó, trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu đã tâm sự bằng những câu thơ giản dị mà rất sâu sắc: Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

Tố Hữu muốn khẳng định trước hết sống phải có ích cho đời. Là con chim không chỉ biết kêu mà cao hơn nữa phải biết cất tiếng hót ca lanh lảnh hót cho đời, tạo nên những bản nhạc rộn rã tươi vui cho đất trời. Cũng như vậy, đã là chiếc lá thì chiếc lá phải xanh tươi đưa lại sức sống cho cây cối, làm mát mắt cho đời và hút nhiều thán khí, nhả ra nhiều ô-xy đem lại sự sống cho con người và muôn loài vật trên trái đất này. Ngay cả những sinh vật hết sức nhỏ bé như thế, mà chúng còn biết hiến dâng những gì tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất giúp ích cho đời. Vậy, chúng ta là những con người “Chúa tể của trần gian, kiểu mẫu của muôn loài” (Sêch-xpia), là “Hoa của đất” (tục ngữ), là động vật duy nhất có trí tuệ và tâm hồn, chúng ta phải làm gì và sống ra sao đây để cùng muôn loài tô điểm cho quê hương, đất nước, cho “Trái đất này là ngôi nhà của chúng mình” ngày một tươi đẹp hơn.

Muốn sống cho xứng đáng tên gọi thiêng liêng cao quý của mình “Con người! Ôi hai tiếng ấy vang lên mới tự hào và kiêu hãnh làm sao!” (Gor –ki), mỗi chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Nghĩa là phải biết ứng xử một cách đẹp đẽ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, với quê hương đất nước. Nói như Tố Hữu, lẽ sống đẹp là lẽ sống có “vay” thì có “trả”, có “nhận”, thì phải có “cho”, phải cống hiến hy sinh sức lực, tâm trí, thậm chí là cả sự sống của mình cho đời, để đời ngày một “đàng hoàng”, “tươi đẹp hơn”.
Mỗi chúng ta giờ đây được sống trên đời, hít thở khí trời, đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, chúng ta đã được nhận quá nhiều từ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà tổ tiên, từ tình yêu thương đùm bọc của bà con, đồng bào, từ sự hy sinh của biết bao anh hùng liệt sĩ đã đổ máu xương để xây dựng quê hương và giữ gìn đất nước thanh bình tươi đẹp như hôm nay… Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã được thừa hưởng biết bao thành quả của người đi trước để lại và người khác đem cho. Như thế là chúng ta đã “vay”, đã “mắc nợ” người thân, nhân dân, đất nước nhiều rồi! Là con người vốn giàu nhân cách và lòng tự trọng, lẽ nào chúng ta nhắm mắt ăn quỵt được sao? Không! Chúng ta phải “trả”, hơn nữa phải “cho” nhiều hơn những gì mà chúng ta đã “vay”, đã “nhận”. Đó là hành động vừa đúng với nhân tâm, vừa hợp với Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”. Cách đây hơn nửa thiên niên kỷ, thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, một người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam nhất trong lịch sử quá khứ cũng từng đã viết “Ăn lộc phải đền ơn kẻ cấy cày”, đó sao?

Trong sự nghiệp xây dựng chính quyền và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, ở Việt Nam ta đã có biết bao con người sống rất đẹp cho đạo lý, lẽ sống “trả”, “vay” đó, như Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Viết Xuân, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Trỗi, Lý Tử Trọng, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc,…Họ sẵn sàng “cho” cả cuộc đời, sẵn sàng đổ máu mình cho Tổ quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do. “Và em nữa. Lưng đèo Mụ Gia, ai biết tên em? Chỉ biết cô gái nhỏ anh hùng. Sống chết từng đêm; Mà lòng thanh thản lạ: Đâu phải hy sinh, em vinh dự vô cùng”. (Tố Hữu – gửi TNXP).

Noi theo những tấm gương cao đẹp đó, giờ đây, những người đang sống lại tiếp tục hy sinh, cống hiến tâm trí và sức lực của mình để làm giàu cho Tổ quốc:

“Ta lại hành quân như năm nào đánh Mĩ

Những sư đoàn không súng, lại xung phong

Ta lại thắng như những chàng dũng sĩ

Biến và hoang vu, thành cơm áo hoa hồng.”

(Tố Hữu).

Hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta có biết bao con người đã “cho” đi những giọt mồ hôi thấm đẫm tâm não để “nhận” lại những công trình khoa học, những sản phẩm lao động; hoặc “cho” đi những giọt máu đào nhân đạo để cho người bệnh có nụ cười ngọt ngào, vì sự sống được hồi sinh; hoặc “cho” đi những đồng tiền mà mình tiết kiệm được để cho những người nghèo, cơ nhỡ có những điều kiện vật chất tối thiểu để hướng cuộc đời về phía tương lai.

Bên cạnh biết bao con người ngày đêm miệt mài học tập, lao động, cống hiến tài năng sức lực cho xã hội, đất nước, thì có một bộ phận không nhỏ của thanh niên lại chỉ biết “vay” và “nhận”, thậm chí còn “nhận” quá nhiều mà không chịu “trả”. Họ đua đòi theo con đường ăn chơi hưởng lạc: đến với vũ trường, tìm đến “nàng tiên nâu”. “cái chết trắng”, để tiêu vèo hết cuộc đời trong chốc lát, vi những thú vui vô nghĩa, mà không hề biết hổ thẹn. Những người có lối sống ích kỷ và bất nhân, vô ơn bạc nghĩa ấy thật đáng phê phán, lên án, phỉ nhổ.

Như vậy, mấy câu thơ giản dị của Tố Hữu đã thể hiện một lẽ sống biết “vay”-“trả”; “cho”-“nhận” đúng lương tâm và đạo lí rất đẹp của người Việt Nam xưa nay. Hiểu được lẽ sống đó, mỗi chúng ta, ở từng cương vị cuộc sống khác nhau, hãy cống hiến hết sức mình, hãy “cho” thật nhiều và gắng làm “Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời” như nhà thơ Thanh Hải đã viết:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

5
29 tháng 10 2016

Bài làm hay

1 tháng 11 2016

cam on

Mọi người đánh giá giúp mình bài văn này nha 日本という国の紹介(Nihon to iu kuni no shoukai — Giới thiệu về đất nước Nhật Bản)        Nhật Bản là một quốc gia quần đảo nằm ở khu vực Đông Á, nổi bật với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống lâu đời và hiện đại phát triển. Với vị trí địa lý chiến lược, nền văn hóa đa dạng phong phú, hệ thống giáo dục tiên...
Đọc tiếp

Mọi người đánh giá giúp mình bài văn này nha
日本という国の紹介

Nihon to iu kuni no shoukai — Giới thiệu về đất nước Nhật Bản

        Nhật Bản là một quốc gia quần đảo nằm ở khu vực Đông Á, nổi bật với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống lâu đời và hiện đại phát triển. Với vị trí địa lý chiến lược, nền văn hóa đa dạng phong phú, hệ thống giáo dục tiên tiến, cùng với các giá trị truyền thống và tín ngưỡng đặc sắc, Nhật Bản không chỉ thu hút sự quan tâm của người dân trên toàn thế giới mà còn góp phần tạo nên một xã hội phát triển, văn minh và độc đáo. Qua bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu tổng quan về vị trí địa lý, văn hóa, giáo dục, truyền thống, tôn giáo và con người của đất nước mặt trời mọc này.

       Nhật Bản nằm ở khu vực Đông Bắc châu Á, thuộc vùng Đông Á, với phạm vi tọa độ từ khoảng 24° đến 46° vĩ độ Bắc và từ 123° đến 146° kinh độ Đông. Phạm vi tọa độ này cho phép Nhật Bản trải dài trên nhiều vùng khí hậu khác nhau, từ khí hậu cận nhiệt đới ở phía Nam đến khí hậu ôn đới ở phía Bắc, tạo nên sự đa dạng về tự nhiên và sinh thái.

       Về vị trí địa lý, Nhật Bản là một quốc gia quần đảo, gồm hơn 6.800 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó bốn đảo chính là Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku chiếm phần lớn diện tích đất liền. Các đảo này kéo dài theo hướng Bắc – Nam, tạo thành dải đất hẹp dọc theo rìa phía Tây của Thái Bình Dương. Vị trí này giúp Nhật Bản có vai trò chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Á, là cầu nối giao thương giữa các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, và các nước phương Tây.

     Tokyo, thủ đô của Nhật Bản, không chỉ là trung tâm chính trị mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa và công nghệ hàng đầu của đất nước. Với dân số hơn 14 triệu người trong khu vực đô thị, Tokyo là một trong những thành phố đông dân nhất thế giới, nổi bật với sự hiện đại, các tòa nhà chọc trời, hệ thống giao thông công cộng phát triển và các trung tâm thương mại sầm uất.

      Bên cạnh Tokyo, Nhật Bản còn có nhiều thành phố lớn khác đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và văn hóa như Osaka, Kyoto, Yokohama và Nagoya. Osaka nổi tiếng với nền ẩm thực đa dạng và nền công nghiệp phát triển, còn Kyoto là trung tâm văn hóa và lịch sử với nhiều đền đài, di tích truyền thống. Yokohama là cảng biển lớn nằm gần Tokyo, đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, trong khi Nagoya là trung tâm công nghiệp và sản xuất ô tô hàng đầu.

     Các thành phố lớn này cùng với thủ đô Tokyo tạo thành mạng lưới đô thị phát triển, góp phần thúc đẩy sự thịnh vượng và đổi mới không ngừng của Nhật Bản.

     Địa hình Nhật Bản chủ yếu là đồi núi và đất cao nguyên, chiếm khoảng 70% diện tích toàn quốc. Quốc gia này nổi tiếng với nhiều dãy núi cao và núi lửa hoạt động, trong đó núi Fuji – ngọn núi cao nhất Nhật Bản với độ cao 3.776 mét – là biểu tượng thiên nhiên nổi bật và được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.

     Các vùng đất thấp và đồng bằng hẹp tập trung chủ yếu ở ven biển, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng Kanto, nơi đặt thủ đô Tokyo, và đồng bằng Kansai quanh Osaka và Kyoto. Địa hình đa dạng và phức tạp này đã ảnh hưởng đến quy hoạch đô thị, nông nghiệp cũng như đời sống của người dân Nhật Bản.

      Ngoài ra, vị trí trên vành đai lửa Thái Bình Dương khiến Nhật Bản thường xuyên phải đối mặt với các hiện tượng địa chất như động đất, sóng thần và núi lửa phun trào, tạo nên những thách thức lớn trong việc phát triển bền vững và bảo đảm an toàn cho người dân.

      Văn hóa Nhật Bản là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống lâu đời và những ảnh hưởng hiện đại, tạo nên một bức tranh đa dạng và độc đáo. Nhật Bản nổi tiếng với các nghệ thuật truyền thống như trà đạo, hoa cắm ikebana, nghệ thuật kiếm đạo (kendo), cùng các lễ hội đặc sắc như hanami (ngắm hoa anh đào) và matsuri (lễ hội truyền thống). Những giá trị này không chỉ phản ánh nét đẹp văn hóa mà còn thể hiện tinh thần tôn trọng thiên nhiên và con người.

     Về tín ngưỡng, Nhật Bản có sự hòa quyện giữa đạo Thần đạo (Shinto) và Phật giáo – hai tôn giáo lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người dân. Đạo Thần đạo, với các đền thờ thiên nhiên và nghi lễ tôn kính tổ tiên, được xem là tôn giáo bản địa, trong khi Phật giáo được du nhập từ Trung Quốc và Hàn Quốc từ nhiều thế kỷ trước, góp phần hình thành các giá trị triết học và tâm linh trong xã hội Nhật. Bên cạnh đó, các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo cũng có mặt nhưng với tỷ lệ nhỏ hơn.

     Sự giao thoa giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại trong văn hóa và tín ngưỡng tạo nên một Nhật Bản vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, vừa mở cửa đón nhận sự đổi mới và đa dạng văn hóa.

Ẩm thực Nhật Bản nổi tiếng thế giới nhờ sự tinh tế trong hương vị, sự cân đối trong dinh dưỡng và sự chăm chút trong cách trình bày. Các món ăn truyền thống như sushi, sashimi, tempura, ramen, và udon không chỉ thể hiện sự khéo léo trong kỹ thuật nấu nướng mà còn phản ánh tinh thần tôn trọng thiên nhiên và sự hài hòa của người Nhật.

Người Nhật đặc biệt chú trọng đến tính mùa vụ trong ẩm thực. Các nguyên liệu thường được lựa chọn theo mùa để đảm bảo độ tươi ngon và phù hợp với thời tiết, giúp cân bằng cơ thể. Chẳng hạn, mùa xuân thường có các món nhẹ nhàng, trong khi mùa đông ưa chuộng các món nóng như nabe (lẩu Nhật Bản) để giữ ấm.

Không chỉ có món ăn, nghi thức ăn uống ở Nhật Bản cũng phản ánh nét văn hóa đặc trưng. Việc nói “Itadakimasu” trước khi ăn và “Gochisousama deshita” sau khi ăn thể hiện lòng biết ơn đối với người nấu và thiên nhiên đã ban cho nguồn thực phẩm.

Sự phổ biến toàn cầu của các nhà hàng Nhật Bản cùng với việc UNESCO công nhận washoku (和食) – ẩm thực truyền thống Nhật – là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, càng khẳng định tầm quan trọng và giá trị độc đáo của nền ẩm thực này trong văn hóa Nhật Bản.

 

    Nền giáo dục Nhật Bản được đánh giá là một trong những hệ thống tiên tiến và hiệu quả nhất trên thế giới. Giáo dục ở Nhật Bản tập trung vào việc phát triển toàn diện, không chỉ về kiến thức mà còn về kỹ năng sống và đạo đức. Hệ thống giáo dục bao gồm ba cấp chính: tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, cùng với các trường đại học và cao đẳng có chất lượng cao.

    Từ nhỏ, học sinh Nhật Bản được dạy tính kỷ luật, tự giác và tôn trọng tập thể, những giá trị này góp phần hình thành nên lối sống cộng đồng và sự hòa hợp trong xã hội. Ngoài chương trình học chính khóa, học sinh còn thường xuyên tham gia các hoạt động ngoại khóa, thể thao và câu lạc bộ, giúp phát triển kỹ năng mềm và tinh thần đồng đội.

     Ngoài ra, Nhật Bản đặc biệt chú trọng đến việc giảng dạy tiếng Anh và công nghệ thông tin nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng hội nhập với thế giới. Các trường đại học hàng đầu như Đại học Tokyo, Đại học Kyoto, cũng đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

     Nền giáo dục của Nhật Bản không chỉ góp phần nâng cao trình độ dân trí mà còn là một trong những yếu tố quan trọng giúp đất nước này duy trì sự phát triển bền vững và đổi mới liên tục.

     Tiếng Nhật là ngôn ngữ chính thức và phổ biến nhất tại Nhật Bản, được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, giáo dục và hành chính. Hệ thống chữ viết tiếng Nhật gồm ba thành phần chính: Hiragana, Katakana và Kanji, tạo nên sự phong phú và độc đáo trong ngôn ngữ này. Tiếng Nhật không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là phương tiện thể hiện văn hóa và truyền thống lâu đời của đất nước.

    Về thành phần dân tộc, Nhật Bản là một quốc gia tương đối đồng nhất với hơn 98% dân số là người Nhật bản địa. Ngoài ra, còn có một số nhóm dân tộc thiểu số như người Ainu ở vùng Hokkaido và người Ryukyuan ở quần đảo Okinawa, mỗi nhóm đều có nền văn hóa và truyền thống đặc trưng riêng. Mặc dù dân số Nhật Bản chủ yếu là người Nhật, sự đa dạng văn hóa trong các nhóm thiểu số góp phần làm phong phú thêm bản sắc quốc gia.

    Sự gắn kết dân tộc và tiếng Nhật là một phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển nền văn hóa đặc sắc của Nhật Bản trong suốt lịch sử.

     Tính đến cuối năm 2024, cộng đồng người Việt tại Nhật Bản đã đạt khoảng 634.000 người, trở thành cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại quốc gia này, chỉ sau người Trung Quốc . Con số này đã tăng mạnh so với khoảng 35.000 người vào năm 2007 .

      Người Việt tại Nhật Bản hiện diện ở hầu hết các tỉnh thành, đặc biệt tập trung ở các khu vực như Tokyo, Osaka, Yokohama, Kobe và Saitama. Cộng đồng này chủ yếu sinh sống và làm việc tại các khu công nghiệp, nhà máy, nông trại, cũng như trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, y tế và giáo dục .

       Đặc biệt, người Việt đã vượt qua người Trung Quốc để trở thành nhóm lao động nước ngoài lớn nhất tại Nhật Bản, với hơn 518.000 người tính đến tháng 10 năm 2023 . Trong đó, nhiều người tham gia chương trình thực tập sinh kỹ năng, kỹ sư, du học sinh và lao động tay nghề cao.

      Nhật Bản sở hữu một kho tàng công trình kiến trúc đa dạng, phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Các ngôi đền, chùa cổ kính như Đền Fushimi Inari ở Kyoto với hàng ngàn cổng torii đỏ rực, hay Chùa Kinkaku-ji – “Chùa Vàng” nổi tiếng thế giới, là biểu tượng văn hóa và tâm linh quan trọng, thu hút hàng triệu lượt khách tham quan mỗi năm. Bên cạnh đó, các lâu đài lịch sử như Lâu đài Himeji với kiến trúc độc đáo cũng góp phần làm nên nét đặc sắc của Nhật Bản.

Văn hóa tâm linh Nhật Bản gắn liền với đạo Thần đạo (Shinto) và Phật giáo, thể hiện qua các nghi lễ, lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Người Nhật tin tưởng vào sự tồn tại của các linh hồn tự nhiên và tổ tiên, coi trọng sự thanh tịnh và hài hòa với thiên nhiên. Những nghi lễ tại đền chùa, lễ hội mùa xuân và mùa thu là dịp để cộng đồng bày tỏ lòng biết ơn và cầu bình an.

Ngoài ra, Nhật Bản còn nổi tiếng với các truyền thuyết đô thị đầy bí ẩn và ly kỳ, góp phần làm phong phú thêm văn hóa dân gian. Các câu chuyện như “Kuchisake-onna” (Người phụ nữ với khuôn mặt bị rạch) hay “Teke Teke” (bóng ma nửa người chạy trên đường ray), Hachisakusama (Bà cao 8 thước), Kune Kune, Hanako-san (Hồn ma cô bé Hanako ám gian số 3 nhà vệ sinh nữ) được truyền tai nhau và trở thành phần không thể thiếu trong văn hóa đại chúng, đặc biệt là trong các bộ phim kinh dị và truyện tranh Nhật Bản.

Sự kết hợp giữa kiến trúc cổ kính, tín ngưỡng truyền thống và những câu chuyện truyền thuyết đô thị đã tạo nên một Nhật Bản vừa huyền bí vừa đầy sức sống, làm say lòng du khách và người dân địa phương.

     Nhật Bản cũng nổi tiếng với nền văn hóa đại chúng đa dạng và ảnh hưởng sâu rộng ra toàn cầu. Anime và manga – những thể loại truyện tranh và phim hoạt hình – không chỉ phổ biến trong nước mà còn thu hút hàng triệu người hâm mộ trên thế giới. Âm nhạc J-pop với các nhóm nhạc thần tượng, ca sĩ tài năng cũng là một phần không thể thiếu trong đời sống giải trí của người Nhật và người yêu văn hóa Nhật toàn cầu. Văn hóa pop Nhật Bản đã trở thành cầu nối giúp nhiều quốc gia hiểu và yêu mến đất nước này hơn.

     Nhìn chung, Nhật Bản là một quốc gia đặc biệt với sự hòa quyện tinh tế giữa truyền thống và hiện đại. Từ vị trí địa lý độc đáo, địa hình đa dạng đến nền văn hóa phong phú và hệ thống giáo dục tiên tiến, Nhật Bản đã tạo nên một hình ảnh đất nước vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc, vừa không ngừng đổi mới và phát triển. Văn hóa tâm linh sâu sắc cùng những truyền thuyết đô thị độc đáo góp phần làm giàu thêm sự đa dạng và sức sống cho xã hội Nhật Bản. Không chỉ là một cường quốc kinh tế và công nghệ hàng đầu thế giới, Nhật Bản còn là điểm đến hấp dẫn với du khách quốc tế và là nguồn cảm hứng cho nhiều nền văn hóa trên toàn cầu. Việc hiểu và trân trọng đất nước này giúp chúng ta mở rộng tầm nhìn, tăng cường giao lưu văn hóa và xây dựng những mối quan hệ quốc tế bền vững trong tương lai.

1
14 tháng 9

Bài văn của bạn viết rất công phu và khá đầy đủ, có thể xem như một “bài tiểu luận tổng quan” về Nhật Bản. Mình xin góp vài nhận xét chi tiết để bạn tham khảo nhé:


### Điểm mạnh 🌸


1. **Nội dung phong phú, toàn diện**: Bài bao quát nhiều khía cạnh (địa lý, văn hóa, giáo dục, ẩm thực, tôn giáo, dân số, kiến trúc, truyền thuyết, văn hóa đại chúng…). Điều này giúp người đọc có cái nhìn đa chiều về Nhật Bản.

2. **Bố cục rõ ràng**: Mỗi đoạn đều tập trung vào một chủ đề riêng, dễ theo dõi.

3. **Ngôn ngữ học thuật, mạch lạc**: Văn phong nghiêm túc, giàu thông tin, thích hợp cho dạng bài giới thiệu hay nghiên cứu.

4. **Có số liệu cập nhật** (ví dụ: cộng đồng người Việt tại Nhật năm 2024) → làm bài có tính thời sự.

5. **Kết bài trọn vẹn**: Tóm gọn và khái quát lại toàn bộ nội dung, mở rộng ý nghĩa sang giao lưu văn hóa quốc tế.


### Điểm cần cải thiện ✍️


1. **Độ dài khá lớn**: Bài hơi “dàn trải”, có thể rút gọn hoặc chọn lọc bớt để tập trung vào những điểm nổi bật nhất. Nếu là bài viết nộp trên lớp, thầy/cô có thể thấy hơi quá tải.

2. **Một số ý bị trùng lặp nhẹ**: Ví dụ như phần về Thần đạo – Phật giáo được nhắc ở hai chỗ khác nhau (tín ngưỡng và văn hóa tâm linh). Bạn có thể gom lại để tránh lặp.

3. **Thiếu dẫn chứng so sánh/đối chiếu**: Bạn có thể thêm vài câu so sánh nhẹ (ví dụ, khác với Việt Nam, Nhật Bản…; hay so với phương Tây thì…) để làm nổi bật đặc trưng.

4. **Chưa có yếu tố cá nhân**: Nếu đây là bài văn theo kiểu “giới thiệu + cảm nhận”, bạn có thể chen thêm nhận xét, cảm nghĩ cá nhân (VD: “Điều khiến tôi ấn tượng nhất ở Nhật Bản là…”).

5. **Một số đoạn liệt kê hơi khô**: Có thể thêm dẫn dắt hoặc câu chuyển mượt hơn để văn phong tự nhiên hơn.


### Gợi ý chỉnh sửa 🌿


* Giữ lại khung chính: **địa lý – văn hóa – ẩm thực – giáo dục – con người – văn hóa đại chúng – kết luận**.

* Gom các phần “tín ngưỡng”, “văn hóa tâm linh”, “kiến trúc – truyền thuyết” thành một mục chung để tránh trùng lặp.

* Thêm một đoạn ngắn thể hiện **cảm nghĩ của bản thân** về Nhật Bản.


👉 Nhìn chung, đây là một bài viết **rất tốt, giàu thông tin, văn phong chặt chẽ**. Nếu dùng cho mục đích học tập thì bạn chỉ cần rút gọn và sắp xếp lại cho gọn mạch là đạt điểm cao.




Câu 5: Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, nêu tác dụng của biện pháp đó.Câu 6: Từ “tri kỉ” trong bài có ý nghĩa gì? Em hãy chép chính xác một câu thơ trong bài em đã học cũng sử dụng từ tri kỉ, ghi rõ tên tác giả tác phẩm. So sánh hai từ tri kỉ đó.Câu 7: Câu “Đồng chí!” thuộc vào kiểu câu nào? Tại sao?Câu 8: Em có nhận xét...
Đọc tiếp

Câu 5: Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, nêu tác dụng của biện pháp đó.

Câu 6: Từ “tri kỉ” trong bài có ý nghĩa gì? Em hãy chép chính xác một câu thơ trong bài em đã học cũng sử dụng từ tri kỉ, ghi rõ tên tác giả tác phẩm. So sánh hai từ tri kỉ đó.

Câu 7: Câu “Đồng chí!” thuộc vào kiểu câu nào? Tại sao?

Câu 8: Em có nhận xét gì về âm hưởng, giọng điệu của bài thơ? Các yếu tố: thể thơ, vần, nhịp đã góp phần tại nên âm hưởng của bài thơ như thế nào?

 

Câu 9: Hãy trình bày hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Mạch cảm xúc của bài thơ được triển khai theo trình tự nào? Nêu hiệu quả nghệ thuật của nó?

Câu 10: Hai câu đầu bài thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Biện pháp nghệ thuật đó có tác dụng như thế nào?

Câu 11: Bằng một đoạn thơ khoảng 12 câu theo phương thức Diễn dịch, em hãy trình bày cảm nhận của mình về khổ thơ vừa chép. Đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và lời dẫn trực tiếp.

 

6
4 tháng 5 2021

5, 

Biện pháp điệp từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” nhằm tạo nên sự đối ứng trong một câu thơ:

- Gợi lên sự khắc nghiệt, nguy hiểm của chiến tranh (hình ảnh súng sẵn sàng chiến đấu).

- Thể hiện sự chung sức, cùng nhau đoàn kết, chiến đấu.

6, 

Từ “tri kỉ” có nghĩa: thấu hiểu mình, hiểu bạn như hiểu bản thân mình.

Câu thơ trong bài Ánh trăng của Nguyễn Duy có chứa từ tri kỉ:

“Vầng trăng thành tri kỉ”

Từ tri kỉ trong bài Đồng chí diễn tả sự thấu hiểu giữa 2 người lính cùng chiến tuyến, cùng lý tưởng chiến đấu, cùng hoàn cảnh chiến đấu.

Từ tri kỉ trong bài Ánh trăng diễn tả sự đồng điệu thấu hiểu của trăng với con người, của con người với chính quá khứ của mình.

Tri kỉ trong bài "Đồng chí" tuy hai nhưng một.

7, 

Câu “Đồng chí!” là câu đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai chữ “đồng chí” và dấu chấm cảm, tạo thành nét điểm tựa và điểm chốt, như câu thơ bản lề nối hai phần của bài thơ.

Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm, xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về 2 tiếng mới mẻ, thiêng liêng đó.

→ Câu thơ giống như một ngôi sao sáng làm nổi bật và sáng bừng cả bài thơ, là kết tinh của 1 tình cảm cách mạng.

8, 

- Âm hưởng của bài thơ tươi vui, khỏe khoắn, khẩn trương khiến cho khung cảnh lao động trở nên nhộn nhịp, náo nức tới kì lạ.

- Cách gieo vần, nhịp kết hợp với thể thơ bảy chữ tạo tiết tấu, âm hưởng rộn rã.

- Lời thơ dõng dạc giọng điệu như khúc hát mê say hào hứng, cách gieo vần biến hóa linh hoạt.

- Vần trắc xen lẫn vẫn bằng, vần liền xen lẫn vần cách. Vần trắc tạo nên sức dội, sức mạnh. Tạo nên sự bay bổng làm nên âm hưởng sôi nổi, phơi phới, giàu sức sống.

9, 

 - Hoàn cảnh sáng tác: giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ của Huy Cận mới thực sự nảy nở và dồi dào trở lại khi có nguồn cảm hứng về thiên nhiên đất nước, lao động cũng như cuộc sống mới.

    - Mạch cảm xúc của bài thơ được trình bày theo trình tự thời gian, không gian chuyến ra khơi của đoàn thuyền cho tới khi đoàn thuyền trở về, tất cả đều mang âm hưởng của niềm vui, niềm hạnh phúc trong lao động, đổi mới.

10, 

Hai câu thơ:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

    - Biện pháp so sánh, nhân hóa đặc sắc.

    - Huy Cận miêu tả chân thực sự chuyển động của thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển đêm trở nên đẹp và kì vĩ, tráng lệ như trong thần thoại.

       + Gợi lên sự gần gũi của ngôi nhà thiên nhiên đang chuyển mình đi vào nghỉ ngơi, còn con người bắt đầu hoạt động lao động của mình, tạo sự bình yên với những người ngư dân ra khơi.

11, 

Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.

    - Khổ thơ 1: Cảnh ra khơi trong buổi chiều hoàng hôn huy hoàng, tráng lệ và giàu sức sống.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

       + Điểm nhìn của nhà thơ: giữa biển khơi bao la.

       + Tác giả cảm nhận độc đáo về hình ảnh mặt trời qua biện pháp nhân hóa, so sánh đặc sắc khiến cảnh biển vào đêm đẹp, kì vĩ, tráng lệ như thần thoại, nhưng gần gũi, thân quen.

       + Câu thơ khiến ta hình dung cả đoàn thuyền chứ không phải con thuyền đơn độc ra khơi.

       + Từ “lại” diễn tả công việc lao động thường ngày, nhịp lao động trở nên tuần hoàn.

       + “Câu hát căng buồm với gió khơi”: khí thế lao động phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền cũng như sức mạnh lao động làm chủ cuộc đời và biển khơi.

    - Phân tích khổ thơ thứ 2:

       + Gợi sự giàu có của biển cả: cá bạc, đoàn thoi.

       + Những hình ảnh so sánh đẹp đẽ, nên thơ.

       + Hình ảnh nhân hóa “dệt” thể hiện sự giàu có.

       + Từ “ta” đầy hào hứng, tự hào không còn cái “tôi” nhỏ bé đơn độc, u buồn nữa.

    → Sự giàu có trù phú của biển cả hứa hẹn ngày ra khơi nhiều thành quả.

    Hình ảnh nói quá “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”.

       + Con thuyền lúc này có gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm → gợi sự nhịp nhàng, hòa quyện.

       + Gợi sự khéo léo như nghệ sĩ của người dân chài.

( Tự viết thành đoạn nhé)

4 tháng 5 2021
jshsjszdhhshx
Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau:…Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng không có thuyền qua bèn kêu rằng: “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” . Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn ” Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó! ” . Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng:  “Thiếp là phận gái, nếu có lòng...
Đọc tiếp

Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau:

Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng không có thuyền qua bèn kêu rằng: “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” . Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn ” Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó! ” . Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng:  “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển.
                                        ( Trích Truyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thuỷ, Trang 42, SGK Ngữ văn 10,Tập I, NXBGD 2006)

2
23 tháng 10 2021

1. MB: Truyền thuyết "An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy" là một tác phẩm đặc sắc của nhân dân ta. Đoạn kết của tác phẩm đã cho ta thấy như sự mê muội của Mị Châu trong tình yêu cũng như lỗi lầm của cô với đất nước và nhân dân

   2. TB: 

- Vì quá yêu và tin chồng nên khi cha dẫn chạy trốn MỊ Châu đã rắc lông ngỗng đánh dấu đường -> sự mù quáng đáng trách của MỊ Châu

- Mị Nương đã đặt tình riêng cao hơn trách nhiệm chung với đất nước -> nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cảnh nước mất nhà tan

- Chính vì quá tin chồng, không biết rằng chồng đã lợi dụng mình nên khi nhận ra bị phản bội nàng đau đớn vô cùng

- Nàng vẫn là người công chúa của đất nước, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bán nước hại dân nên nàng đã thề với trời để trời đất chứng giám lòng thành  của mình. 

- Tuy nhiên cũng không thể hoàn toàn trách cô bởi trong quan niệm xưa kia người phụ nữa lấy chồng thì phải theo chồng "xuất giá tòng phu"

- ở đây nhân dân ta không đánh giá Mị Nương theo đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng.Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.

3. KB:

26 tháng 10 2021

câu hỏi hay :))

Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau:…Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng không có thuyền qua bèn kêu rằng: “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” . Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn ” Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó! ” . Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng:  “Thiếp là phận gái, nếu có lòng...
Đọc tiếp

Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau:

Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng không có thuyền qua bèn kêu rằng: “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” . Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn ” Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó! ” . Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng:  “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển.
                                        ( Trích Truyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thuỷ, Trang 42, SGK Ngữ văn 10,Tập I, NXBGD 2006)

2
23 tháng 10 2021

 1. MB: Truyền thuyết "An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy" là một tác phẩm đặc sắc của nhân dân ta. Đoạn kết của tác phẩm đã cho ta thấy như sự mê muội của Mị Châu trong tình yêu cũng như lỗi lầm của cô với đất nước và nhân dân

   2. TB: 

- Vì quá yêu và tin chồng nên khi cha dẫn chạy trốn MỊ Châu đã rắc lông ngỗng đánh dấu đường -> sự mù quáng đáng trách của MỊ Châu

- Mị Nương đã đặt tình riêng cao hơn trách nhiệm chung với đất nước -> nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cảnh nước mất nhà tan

- Chính vì quá tin chồng, không biết rằng chồng đã lợi dụng mình nên khi nhận ra bị phản bội nàng đau đớn vô cùng

- Nàng vẫn là người công chúa của đất nước, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bán nước hại dân nên nàng đã thề với trời để trời đất chứng giám lòng thành  của mình. 

- Tuy nhiên cũng không thể hoàn toàn trách cô bởi trong quan niệm xưa kia người phụ nữa lấy chồng thì phải theo chồng "xuất giá tòng phu"

- ở đây nhân dân ta không đánh giá Mị Nương theo đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng.Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.

3. KB:

- Mị Nương đáng trách nhưng cũng đáng thương. 

23 tháng 10 2021

Mị Nương thơ ngây trong sáng, bị Trọng Thủy lừa gạt trộm nỏ diệt thành, rồi lại rắc lông vũ để mua dây buộc mình, hại chết bố ruột là An Dương Vương. Mị Nương cuối cùng đã chết bị hóa thành ngọc trai để rửa sạch mối thù gia tộc.