Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Mắt sói là câu chuyện của những câu chuyện gây ấn tượng mạnh với lứa tuổi thiếu nhi, chuyện bắt nguồn từ cuộc sống, các nhân vật tới từ thế giới lòai vật cho đến con người đều rất đa dạng phong phú. Ở đây tác giả ca ngợi tình yêu thương gia đình và lòng gan dạ dũng cảm. Mỗi cá nhân con người đều có tình yêu thương và sự dung hòa với thế giới bên ngoài, họ luôn cần một người bạn ở bên chia sẻ và yêu thương với nhau.
- Ca ngợi tình yêu thương động vật, tình cảm anh em, tình bạn, sự hi sinh, thái độ tôn trọng thiên nhiên,...
- Phê phán cách ứng xử thô bạo, tham lam của con người với thế giới tự nhiên.
=> Qua câu chuyện, em thấy con người phải biết yêu thương động vật và sống hòa thuận với chúng đồng thời biết mở lòng đón nhận những tình cảm, những người bạn mới, cùng bạn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn.
Vô vietjack cho nhanh. Cx đg hok đến bài này ak???!!~
Mỗi lần quẹt diêm là lúc cô bé được sống trong những thời khắc hạnh phúc nhất. Ngọn lửa diêm như một thiên thần nối liền ước mơ và khát vọng tuổi thơ của cô bé. Đó là ước mơ được ăn ngon, được vui chơi, được sống trong hạnh phúc của mái ấm gia đình. Một ước mơ thật bình dị gần gũi với tuổi thơ không cao sang chút nào. Trong 3 lần quẹt diêm đầu tiên, cô bé nhìn thấy lò sưởi, bàn ăn thịnh soạn và cây thông nô en lộng lẫy.Những ước mơ nhỏ nhoi, thiết thực mà giản đơn ấy dường như phần nào an ủi cô bé, làm cho cô bé hạnh phúc phần nào. Những niềm hạnh phúc ấy thật mong manh như chiếc bong bóng nước, nó vỡ tan tành khi que diêm vụt tắt. Ngọn lửa diêm lúc này không chỉ là mái ấm gia đình mà còn là niềm khao khát tình thương, sự thèm thuồng được âu yếm chiều chuộng từ hơi ấm của mẹ, tình thương của bà. Ngọn lửa diêm thứ tư đưa cô bé đến gặp bà. Ngọn lửa diêm cháy lặng thầm cứ thôi thúc cô bé níu kéo bà lại. Cô bé sợ bà sẽ ra đi như lò sưởi, cây thông no-en “Bà ơi! Cháu van bà! Bà xin thượng đế cho cháu về với bà.” Ngọn lửa diêm như sợi dây vô hình níu kéo hạnh phúc cho cô bé. Diêm càng sáng tức thời gian bà ở lại bên cháu càng lâu hơn. Cô bé đánh liều quẹt tất cả các que còn lại, ngọn lửa diêm lần lượt từ tay cô bé cháy mãi, nối nhau chiếu sáng như ban ngày. Ngọn lửa ấy đã đưa cô bé đến đỉnh cao của hạnh phúc mà cô hằng khao khát. Em được tận mắt nhìn thấy người bà yêu dấu của mình, người mà cô bé yêu thương nhất. Càng ý nghĩa hơn khi ngọn lửa diêm như một vị thiên sứ dẫn đường đưa cô bé đến nơi mà cô bé hằng mong ước. Một viễn cảnh nhưng cũng thật gần gũi mà xa vời khó có thể chạm tay đến. Bà cầm tay cô bé rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế. Cô bé từ nay sống tràn ngập trong niềm vui và hạnh phúc, được sống trong tình cảm thiêng liêng bà cháu. Hạnh phúc cũng sẽ đến với những người xấu số, trong thực tế cũng có mộng tưởng. Cô bé như một ngôi sao lạc lõng giữa bầu trời cao rộng được đoàn tụ cùng gia đình hạnh phúc.
Hình ảnh ngọn lửa diêm sẽ càng ý nghĩa hơn khi những que diêm đã vụt tắt. Mỗi khi que diêm không còn cháy là thế giới tăm tối mở ra trước mắt cô bé. Cô bé nghĩ về hiện tại quá tồi tệ, người cha đầy khắc nghiệt, rồi phố vắng teo lạnh buốt tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường hoàn toàn lãnh đạm với hoàn cảnh nghèo khổ của em. Thế rồi những que diêm vụt tắt, bốn bức tường dày đặc lạnh lẽo hiện ra, người bà yêu thương cũng biến mất. Cô bé vẫn ngồi cô đơn một mình dưới tuyết rơi dày đặc. Thực tế thật phũ phàng và khắc nghiệt. Chỉ cần khi que diêm vụt tắt , những bất hạnh như chờ chực để vồ xuống số phận của cô bé tội nghiệp.
2
"Lão Hạc" là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân. Qua nhân vật lão Hạc, tác giả đã thể hiện một cách xúc động cuộc đời đau khổ đáng thương và những phẩm chất tốt đẹp của một lão nông nơi làng quê trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Cuối truyện, Nam Cao kể về cái chết "dữ dội’, cái "chết bất thình lình" của Lão Hạc. Là láng giềng "Tắt lửa tối đèn có nhau", ông giáo là nơi nương tựa tinh thần của lão Hạc trong những tháng ngày lão sống trong bi kịch: già nua, cô đơn, bệnh tật, nghèo khổ... Ông giáo là nơi để lão Hạc gửi gắm bao nỗi niềm, san sẻ một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ kkoai... Lão Hạc đã từng kể cho ông giáo nghe chuyện bán cậu Vàng, lão vừa kể vừa khóc. Ông giáo đã từng "thấy" luôn mấy hôm, lão Hạc chi ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, củ láy,... Sự nghèo khổ đã dồn lão Hạc đến bước đường cùng, nhưng vốn giàu lòng tự trọng, lão đã "từ chối, một cách gần như là hách dịch" trước sự giúp đỡ "ngấm ngầm" của ông giáo, và lão cứ xa dần ông giáo.... Lão Hạc đã từng gửi ông giáo ba sào vườn cho cậu con trai đi phu đồn điền mãi chưa về, lão cũng gửi lại ông giáo ha mươi đồng bạc để "lỡ có chết'' thì "gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiều thì nhờ hàng xóm cả". Lão Hạc hiền lành quá, chất phác và lương thiện quá, nhưng tại sao Binh Tư - một kẻ làm nghề ăn trộm - lại "bĩu môi" nói với ông giáo chuyện lão Hạc xin hắn cái bả chó. Hắn thì thầm:
"Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu".
Ông giáo "trố to đôi mắt ngạc nhiên". Ông giáo "ngổn ngang" băn khoăn, buồn. Ông cất tiếng than cho "nỗi đời cay cực".
"Hỡi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm điều như ai hết... Một người như thế ấy! ... Một người đã khóc vì đã lừa một con chó!... Một người nhịn ăn lẽ tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quá thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn...".
Qua câu nói của Binh Tư, niềm tin yêu của ông giáo đối với lão Hạc bị “rạn nứt". Ông giáo buồn vì cảm thấy cuộc đời quá đen tối, "mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Những người lương thiện, đáng kính như lão Hạc đã và đang bị xô đẩy, bị nhấn chìm vào đáy vũng bùn nhơ của cái xã hội thực dân nửa phong kiến.
Tính tình huống và ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật đã làm nổi bật cái chết "bất thình lình” đầy bi kịch của lão Hạc, đồng thời tô đậm giá trị tố cáo hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện "Lão Hạc".
Sau khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, ông giáo đã nghĩ, "Không! Cuộc
đời chưa hẳn đã đáng buồn hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác".
Chỉ có ông giáo và Binh Tư "hiểu" cái chết "dữ dội", cái chết "bất thình lình" của lão Hạc; "đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc,... tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên...". Lão Hạc đã chết sau hai giờ "vật vã". Cái chết của lão Hạc đã biểu lộ một tâm thế "thác trongcòn hơn sống đục". Cụ đã để lại cho anh con trai đi phu đồn điền chưa về ba sào vườn trọn vẹn, "cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...". "Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn" là như thế! Ông giáo đã khẳng định niềm tin mạnh mẽ về lòng lương thiện tốt đẹp của con người. Lão Hạc ăn bả chó để quyên sinh, quyết giữ lấy bản chất lương thiện tốt đẹp của mình. Ánh sáng nhân văn bừng lên trong văn của Nam Cao qua lời độc thoại của ông giáo.
Cuộc đời "hay vẫn chưa dáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác". Nghĩa khác nghĩa là gì? Cuộc đời mà Nam Cao phản ánh là xã hội của Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, nhân dân ta phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức, bị bóc lột nặng nề. Đau khổ nhất là người nông dân, suốt đời lam lũ mà vẫn đói rét thương tâm. Sưu cao thuế nặng, phải bán vợ đợ con, phải đi làm phu mỏ, phu đồn điền cao su... Cuộc đời cha con lão Hạc, cái chết quằn quại đau đớn của lão Hạc sau khi ăn bả chó đã cho thấy rõ cuộc đời "vẫn đáng buồn"... Câu nói ấy của ông giáo đã lên án và tố cáo cái hiện thực đen tối, bất công của xã hội thực dân nửa phong kiến, cái xã hội "đáng buồn" đã xô đẩy bao con người lao động cần cù, lương thiện vào đói rét, cùng quẫn.
Đọc truyện "Lão Hạc", ta càng thấy bút pháp nghệ thuật tự sự đặc sắc, nhất là những mẩu độc thoại nội tâm của nhân vật ông giáo. Tính triết lí của truyện càng trở nên sâu sắc. Giá trị nhân bản của truyện càng trở nên cảm động, hấp dẫn, thấm thía.
Gấp trang văn lại, ta như đang được nghe ông giáo tâm sự: "Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn...". Ông giáo đã truyền cho ta ngọn lửa niềm tin về lòng tốt của con người, để ta yêu thêm con người, yêu thêm cuộc sống.
BẠN KHAM KHẢO NHA
Tham Khảo
“Con suốt đời vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời, lòng mẹ vẫn theo con”
(Tố Hữu)
Mẹ dù thế nào đi chăng nữa vẫn mãi theo ta. Chính sợi dây thiêng liêng gắn kết giữa mẹ và con mà được gọi với cái tên thiêng liêng, cao quý - tình mẫu tử đã làm làm nền tảng vững chắc cho con chập chứng bước đi trên con đường đời. Mẹ đã mang đến cho con tình thương da diết, mẹ đã trao cho con trái tim hi vọng, trao cho con hơi thở nồng ấm, ru đời con khôn lớn. Nhà văn Nguyên Hồng cũng vậy, những câu chữ ông viết ra dường như rất thiêng liêng ẩn hằn trong đó là toàn bộ suy nghĩ và cảm xúc về người mẹ bất tận của ông. Đến với đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta bỗng xót xa trước nhân vật bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của một tuổi thơ khao khát tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cái cảm giác của cậu bé sớm phải chịu cảnh thiếu thốn tình cảm để rồi, những đồng giả chúng ta bất chợt nhận ra rằng: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”.
Nếu có người hỏi tôi: Tình mẫu tử là gì? thì có lẽ, tôi sẽ đáp lại rằng: tình mẫu tử không thể giải thích được vì đó là thứ tình cảm tuyệt diệu. Nó đơn sơ, giản dị những vẫn thể hiện được cái gì đó phập phồng, thổn thức trong trái tim. Và đặc biệt hơn, nó lại càng phập phồng hơn, thổn thức hơn khi được thể hiện qua nhân vật bé Hồng. Tình cảm ấy như ánh sáng dịu mát, như bóng cây trên cao, như dòng sữa ngọt ngào vẫn chảy mãi trong trái tim những người con như chúng ta. Cuộc đời thật công bằng biết bao khi mỗi người chúng ta vẫn gọi đó là “tình mẫu tử”.
Tuy đoạn trích với dung lượng không dài nhưng điều ta bắt gặp trong đó không phải là cảnh khốn cùng như trong “Lão Hạc” hay cùng cột như trong “Tức nước vỡ bờ”. Tuy vẫn thể hiện được chất văn của dòng văn hiện thực phê phán nhưng đoạn trích lại ẩn chứa sâu một thứ tình cảm thiêng liêng, mặn nồng - tình mẫu tử. Và khi đọc những dòng văn như trút cả bao điều đóng đót vào trái tim người đọc để rồi ta mới cảm nhận được thế nào là thứ tình cảm chân chình.
Với một hoàn cảnh đặc biệt và đáng thương, bé Hồng sinh ra và lớn lên trong một mái gia đình không có hạnh phúc. Bố mất sớm, mẹ phải đành rời bỏ quê hương, rời xa đứa con mà mình đã rứt ruột đẻ ra để đi “tha hương cầu thực” khiến bé Hồng phải cô đơn, tủi cực giữa sự ghẻ lạnh của gia đình họ nội. Và trong tâm trí cậu bé lúc nào cũng luôn tồn đọng cái dư vị đắng cay về một người mẹ hiền hậu, luôn chở che trong quá khứ. Xung quanh cậu, luôn có những rắp tâm tanh bẩn muốn reo rắc vào tâm trí cậu để cậu ruồng rẫy, khinh rẻ mẹ. Nhưng cũng chính từ cái rắp tâm tanh bẩn, cay độc đó, bé Hồng mới có cơ hội bộc lộ rõ những tình cảm của mẹ đối với mẹ đã được ấp ủ bấy lâu.
“Gần đến giỗ đầu thấy tôi, mợ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Có lẽ, niềm ước mong mẹ của cậu bé đã đến mức cực độ. Cậu sống giữa cảnh đau đớn về mặt tinh thần: mất cha - thiếu mẹ, vậy mà, luôn có những mối rắp tâm bẩn thỉu muốn dấy vào tâm trí non nớt của cậu bé. Một hình ảnh người mẹ: “bán bóng đèn và những phiên chợ chính còn bán cả vàng hương”. Câu chuyện đã hé lộ ra một bà cô tậm địa độc ác, bà ta cố ý nói cho cậu bé biết những cảnh ngộ đáng thương của mẹ cậu để có thể cười nhạo, giễu cợt mẹ. Nhưng bà ta hoàn toàn không hề biết, càng làm như vậy thì tình cảm của bé Hồng giành cho mẹ lại tăng lên gấp bội, tiếp thêm tình cảm và sức mạnh để cậy vượt qua cái xã hội “hỗn mang”, tàn ác ấy.
Và rồi, cuộc đối thoại giữa Hồng và bà cô bắt đầu từ những câu hỏi đầy tanh bẩn hằn chứa một rắp tâm phá đi sợ dây tình cảm giữa bé Hồng và mẹ. “Một hôm cô tôi gọi tôi đến và bảo: Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với ****** không?”. Một câu hỏi đầy “uy lực”, lay động đến thứ tình cảm thiêng liêng của bé Hồng với mẹ, gợi nên trong chú bao buồn tủi xen lẫn sự nhớ nhung dồn nén bây lâu nay. Cậu bé “định toan trả lời có” nhưng rồi, Hồng lại trả lời một cách chắc chắn “Không! cháu không vào. Cuối năm, thế nào mợ cháu cũng về”. Thật bất ngờ! Có lẽ, Hồng đã sớm nhận ra trong niềm vui “hụt” một điều gì đó tanh bẩn của bà cô. Cậu đã đoán ra được ý định cảu bà cô như “muốn gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi”. Một ý định tàn bạo! Nhưng may thay, chính cái thiêng liêng, cao quý cảu tình mẫu tử đã kéo cậu lên từ “đám bùn lầy” với những rắp tâm tanh bẩn - “nhưng đời nào lòng yêu thương và sự kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn kia xâm phạm đến”. Và những điều đó phần nào đã làm rạng lên một tình cảm cao đẹp.
Phải chia tay với một cơ hội gặp mẹ “hiếm có”, bé Hồng muốn chạy thật nhanh, tránh đi “câu nói cay độc” của bà cô. Nhưng bà ta lại vẫn chưa tha cho một tâm hồn thơ dại. Bà an ủi bé Hồng bằng một câu nói chứa đầy những ý nghĩ tanh bẩn: “Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!”. Giọng nói như mỉa mai, giếu cợt, đang “long lanh ... chằm chằm” chờ đợi phản ứng của cậu bé. Đôi mắt cậu đã “khóe cay như muốn khóc”. Dường như, những câu nói đó như “mũi tên” bắng thẳng vào một trái tim khao khát tình mẹ. Liệu rằng, rắp tâm xấu xa, tanh bẩn của bà cô có thực hiện được hay không? Thái độ của bé Hồng ra sao? Tình cảm của bé đối với mẹ có thay đổi hay không?
Câu chuyện vẫn diên ra và tiếp đó là một ý định cay độc: “Mạy quá, cứ vào đi, tao cho tiền tàu, vào mà bắt mợ mày may vá, sắm sửa rồi còn cho thăm em bé nữa chứ!”. Thật tủi nhục và cau đắng biết bao! Hai tiếng “em bé” được bà cô “ngân ra thật dài” như sự mỉa mai hay điều ám chỉ gì đó. Phải chăng, bà ta muốn “ép” bé Hồng phải nhận ra rằng: “Mợ tôi chưa đoạn tang thầy tôi mà đã chửa đẻ với người khác”. Dường như, tình cảm thiêng liêng đó như “lá bùa” hay là một “tấm bia đỡ đạn” giúp cậu cố cầm cự để hỏi trong tiếng khóc xót xa: “Sao cô biết mợ con?”. Có lẽ, câu nói đó đã nói trúng tim đen tàn ác của bà cô. Nhưng thật đáng khinh bỉ, “cô tôi vẫn cứ cười trong tiếng khóc của tôi”. “Tình cảnh thê thảm của mẹ tôi” như khiến chú như “cắt từng miếng thịt”.
Đến lúc này, tâm trạng đau đớn, uất ức của bé Hồng xen lẫn tình yêu tha thiết đã lên tới cực điểm. Từ nỗi đau vì thương mẹ và đặc biệt hơn là sợi dây tình cảm đã khiến bé phải thốt lên từng câu chữ ngậm ngùi, xót xa: “Giá mà những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là những thứ như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ thì tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thôi”. Qua đây, ta mới bất chợt tìm thấy được thứ tình cảm thiêng liêng trong tâm hồn ngây dại. Và cũng có lẽ, bà cô độc ác đã thỏa được ước nguyện nên đã đổi giọng như “nghiêm nghị” và tỏ ra ngậm ngùi, thương xót. Thì ra, nỗi đau đớn mất mát của đứa bé đã lên đến đỉnh điểm, đồng thời, sự tàn nhẫn, thâm hiểm của bà cô đã lên đến mức tận cùng. Hỏi rằng, liệu tình mẫu tử cao quý, thiêng liêng ấy có được trọn vẹn cho đến cuối cùng hay không?
Đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực
Việt Nam, đất nước nông nghiệp, cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trước cách mạng tháng Tám hơn 90% dân số sống bằng nghề nông. Và từ buổi đầu khi văn học ra đời và phát triển, đề tài người nông dân đã trở thành mảnh đất tốt để ươm lên những mầm cây văn học với những tác phẩm đặc sắc. "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố và "Lão Hạc" của Nam Cao là hai tác phẩm như vậy. Đọc những sáng tác này ta thấy vẻ đẹp toả sáng trong tâm hồn của tầng lớp lao động: "Mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh nhưng người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình".
Trước hết đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực.
Chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn "cơm không đủ no, áo không đủ mặc". Gia đình chị đã "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh". Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ... Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh "nửa đêm thuế thúc trống dồn" không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải chứng kiến cảnh chổng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hoàn cảnh ấy không thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã thôi thúc chị hành động. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại "người nhà nước". Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
Nếu đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, ta cảm thương cho thân phận của người phụ nữ nông dân dưới chế độ phong kiến thực dân bao nhiêu thì khi đọc "Lão Hạc" của Nam Cao ta lại càng thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với cuộc sống mòn mỏi trong chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có "cậu Vàng" làm bạn. "Vàng" là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít...”. Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xong. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và dữ dội, lão "vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra...". Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra.
Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.
Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản "Tức nước vỡ bờ" hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả quyết liệt tên cai lệ và người nhà lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị đối với chồng Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt..." đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.
Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng suy nghĩ đầy ý thức "Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được". Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang "xui người nông dân nổi loạn" (theo nhận xét của Nguyễn Tuân) để nhằm phản ánh quy luật: có áp bức có đấu tranh, "Tức nước vỡ bờ".
Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trong những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng nể trọng của người nông dần già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là hoàn toàn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào "luồng chưa ai khơi" trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh vật lộn với cái đói. Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muôn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ một mình.
Lão Hạc còn là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.
Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cảo quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nông dân ngày nay ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.