Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a,
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
b, Biện pháp ước lệ tượng trưng trong câu thơ “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”. Vẻ đẹp của Vân được so sánh với những điều đẹp đẽ nhất của tự nhiên: hoa, ngọc.
Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp nền nã, hiền dịu, quý phái.
c, Gợi ý viết: Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân
- Câu thơ mở đầu đoạn khái quát vẻ đẹp của nhân vật, hai chữ “sang trọng” gợi vẻ cao sang, quý phái.
- Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp nhất trên đời trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc.
+ Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt tới làn da, mái tóc, nụ cười, giọng nói.
- Tác giả sử dụng những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc: khuôn mặt phúc hậu, đầy đặn, tươi sáng như trăng tròn.
- Chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vân đẹp hơn những vẻ đẹp trong tự nhiên. Vẻ đẹp của nàng khiến tự nhiên “thua”, “nhường” dự báo cuộc đời êm đềm, không sóng gió.
Dàn ý phân tích:
Mở đoạn:
- Giới thiệu đoạn thơ trên:
+ Có người từng nói rằng văn học chân chính xưa nay bất biến với đời là nhờ tạo nên từ máu và nước mắt của người nghệ sĩ. Và chính nhà thơ Nguyễn Du đã làm được điều đó, đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong các đoạn trích đặc sắc trong tác phẩm nổi tiếng của ông - "Truyện Kiều". Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều có vẻ đẹp sắc sảo mặn mà cả về tài lẫn sắc.
Thân đoạn:
Nội dung thơ: Tả và bật nên tài sắc vẹn toàn của nàng Kiều.
- "Kiều càng sắc sảo, mặn mà" - So bề tài, sắc, lại là phần hơn.": nghệ thuật đòn bẩy được nhà thơ sử dụng điêu luyện làm nẩy nên vẻ đẹp của nàng Kiều đồng thời dễ dàng dẫn người đọc đến khung nghĩ tưởng hình ra Kiều.
- "Làn thu thủy, nét xuân sơn": tác giả tập trung lực bút của mình để tả đến "cửa sổ tâm hồn" đẹp đẽ của Kiều - như làn nước mùa thu dịu nhẹ long lanh, còn đôi lông mày thì thanh thao của nét của núi khi xuân đến.
- "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh": nhà thơ dùng bút pháp ước lệ tượng trưng vẻ đẹp của nàng bằng sự nhân hóa những cái đẹp ở thiên nhiên nhưng lại với từ "ghen", "hờn".
+ Người ta thường nói "Đẹp như hoa", "thắm như hoa", "tươi như hoa" nhưng đến hoa còn ghen tị vì thua với sắc đẹp của Kiều. Từ đó ta thấy rằng cái đẹp của Nàng kiều quá đỗi hoàn hảo.
+ Liễu lại hờn giận vì kém xanh, xanh ở đây không phải xanh xao mà là xanh tươi, tươi tắn tức chỉ cái đẹp của Kiều như mùa xuân vậy, lúc nào cũng "thắm" hơn hoa và "tươi" hơn liễu.
=> Nguyễn Du không giành những từ "nghưỡng mộ", "yêu thích",.. mà dùng ganh ghét hờn thua của thiên nhiên với Kiều cho thấy được sự dự đoán về số phận tương lai bạc mệnh, bấp bênh của nàng tố nga.
=> Bởi vậy mới nói vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp của sắc và vẻ đẹp của cả tài, hoàn toàn hơn hẳn nét đẹp của Thúy Vân.
- "Một hai nghiêng nước nghiêng thành - Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.": tác giả dùng điển cố "nghiêng nước nghiêng thành" để càng tôn nên cái đẹp đẽ, sự sắc sảo của Kiều rồi lại so sánh cùng điệp ngữ "đành" rằng vẻ đẹp của nàng lớn đến nhường nào thì họa mà nàng gặp phải sẽ gấp đôi nên chừng ấy.
+ Số phận của một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, tài hoa trong xã hội phong kiến là đón nhận một tương lai không được bình yên.
- Sáu câu thơ cuối đoạn:
+ Gợi đến cái đẹp trong tâm hồn, suy nghĩ, tài năng của nàng Kiều không chỉ là bình hoa rỗng mà thực như viên ngọc sáng bên ngoài đẹp đẽ bề trong.
+ Nàng thông rõ, giỏi cả về thơ ca vẽ vời lại còn biết đánh đàn hay nức tiếng không ai bì kịp.
+ Thế nhưng cuối cùng những tất cả điều ấy lại góp nên sóng gió cho chặng đường tương lai của nàng Kiều: bạc mệnh lại càng não nhân.
Kết đoạn:
- Tổng kết lại vẻ đẹp, tài năng của nàng Kiều qua sự miêu tả của nhà thơ.
Đoạn thơ nói về vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều, vẻ đẹp của nàng khiến thiên nhiên ''hờn, ghen''. Qua đây, tác giả muốn dự báo rằng số phận của nàng sẽ gặp nhiều sóng gió.
Về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du, Lã Nhâm Thìn nhận xét: “Tả người đẹp mà độc giả cảm thấy đẹp thật, đẹp tuyệt. Đó là thành công mĩ mãn”. Điều đó quả vô cùng chính xác. Không chỉ đối với miêu tả thiên nhiên, mà nghệ thuật tả người của Nguyễn Du cũng vô cùng tài hoa, độc đáo. Dưới đôi bàn tay tài hoa, tấm lòng trân trọng, nâng niu người phụ nữ Nguyễn Du đã phác họa lên chân dung tuyệt đẹp, vượt ra ngoài mọi chuẩn mực của nàng Thúy Kiều.
Trong văn học trung đại, miêu tả chân dung con người thường ít xuất hiện. Ví như Vũ Nương, chỉ được Nguyễn Dữ phác họa bằng một câu văn ngắn ngủi: “Tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Còn riêng đối với Nguyễn Du ông miêu tả chi tiết, kĩ lưỡng.
Thúy Kiều là chị cả, con gái của Vương viên ngoại. Kiều và Vân mang vẻ đẹp toàn vẹn, tuyệt mĩ, những mỗi nàng lại mang những nét đẹp riêng, không thể hòa lẫn. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước. Và thủ pháp này đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, sau bốn câu thơ miêu tả chân dung Vân ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Trong tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều được miêu tả qua nhận xét của Kim Trọng: “Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào”, chỉ miêu tả được vẻ bề ngoài, mà không tả được thần thái, phẩm chất bên trong của nhân vật. Còn trong câu thơ của Nguyễn Du miêu tả được cả thần thái nhân vật, Thúy Kiều mang vẻ mặn mà sắc sảo ở cả tài và sắc. Cái “mặn mà” ở Thúy Kiều khiến người ta nhìn thấy là say đắm, giống như uống một thứ rượu lâu năm, dù nhẹ, nhưng ấn tượng lại sâu sắc, dài lâu. Đặc biệt từ “càng” kết hợp với nghệ thuật so sánh nhấn mạnh, khẳng định vẻ đẹp nổi trội của Thúy Kiều. Dù chỉ dùng hai câu giới thiệu nhưng cũng đã cho ta hình dung ban đầu về một tuyệt sắc giai nhân, mang vẻ đẹp hiếm có xưa nay.
Nguyễn Du không đi miêu tả chi tiết như khi tái hiện chân dung Thúy Vân, bức tranh vẽ chân dung Thúy Kiều chủ yếu thông qua bút pháp gợi tả cùng hình ảnh ẩn dụ qua đôi mắt:
Làn thu thu thủy, nét xuân sơn
Đôi mắt của Kiều trong vắt, sáng long lanh như làn nước mùa thu, thể hiện một con người thông minh nhanh nhạy. Đôi mắt ấy sâu thẳm, đầy sống động, linh hoạt, cho thấy một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Đôi mắt ấy như biết nói, biết thì thầm, đó là chiều sâu nội tâm của nàng. Hình ảnh ước lệ, ẩn dụ “nét xuân sơn” gợi lên dáng vẻ đôi lông mày thanh mảnh, sắc nét như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày ấy càng tôn lên vẻ đẹp đôi mắt Thúy Kiều, khiến cho cả gương mặt bừng sáng, trẻ trung, tươi tắn. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt ngưỡng, vượt qua khỏi chuẩn mực thiên nhiên mà văn học Trung đại vốn lấy để làm quy chuẩn. Bởi vậy mà:
Nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “hờn, ghen” đã cho người đọc thấy thiên nhiên sinh sự đố kị, ghen ghét trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Đây là điềm báo chẳng lành cho số phận nàng sau này. Đặc biệt trong hai câu kết khi nói về nhan sắc Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dành những lợi ca ngợi về vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ: Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã nhấn mạnh vẻ đẹp toàn mĩ của nàng, vẻ đẹp ấy không có bút nào có thể lột tả hết, một vẻ đẹp mặn mà, nồng nàn, làm say đắm lòng người. Nhưng sau câu thơ đó là lời dự báo đầy lo sợ về những bất trắc, sóng gió mà đang đợi chờ Kiều ở phía trước.
Để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng làm nổi bật vẻ đẹp toàn mĩ, vượt qua khỏi quy chuẩn thiên nhiên. Đồng thời là biện pháp đòn bẩy, miêu tả Vân trước sau đó miêu tả Kiều cũng góp phần không nhỏ làm nổi bật nhan sắc Thúy Kiều.
Với những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng tinh tế chính xác Nguyễn Du không chỉ dựng lên bức tranh chân dung của nàng Kiều mà còn là bức tranh tinh thần của nàng. Một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm. Bức tranh ấy còn mang tính chất dự báo về cuộc đời nàng, vẻ đẹp vượt chuẩn mực tự nhiên, khiến hoa ghen, liễu hờn dự báo tương lai sóng gió, vất vả của Kiều sau này.
Tham khảo:
Câu 1:
Những câu thơ trên thuộc : Truyện Kiều của Nguyễn Du
Đôi nét về tác giả :
+ Ông sinh sống trong một gia đình đại quý tộc , nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học
=> Bước nền để Nguyễn Du trở thành một nhà thơ ( Ông được lưu truyền " máu văn " từ gia đình mình )
+ Nguyên Du ( 1765-1820) tên chữ là Tố Như , hiệu là Thanh hiên , quê ở làng Tiên Điền , huyện Nghị Xuân , tỉnh Hà Tĩnh .
+ Ông phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắt và được củ làm chánh sứ sang Trung Quốc (từng trải , đi nhiều đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ của nhân dân .
Câu 2 :
- Hình tượng ước lệ khi miêu tả Thúy Vân
+ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang: Khuôn mặt tròn như mặt trăng, lông mày sắc, đậm
+ Hoa cười ngọc thốt đoan trang: Miệng cười như hoa nở, đoan trang thanh khiết như ngọc
Thúy Vân là một cô gái đẹp, phúc hậu, đoan trang, quý phái
- Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp đằm thắm
- So bề tài sắc lại là phần hơn: Kiều vừa có sắc vừa có tài
- Làn thu thủy nét xuân sơn: Mắt trong như nước, lông mày nét núi mùa xuân
- Hoa ghen thua thắm liễu hơn kém xanh: Vẻ đẹp đến tạo hóa cũng phải ghen tị
- Giống: Đều dùng hình ảnh của thiên nhiên để ước lệ vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. ( Chọn ra nhưng câu nào bạn thấy hợp lí nhé! Mik chỉ tổng hợp lại thôi!)
Câu 3 :
"Sắc đành đòi một tài đành họa hai"
Sắc đành đòi một:là nhan sắc ở vị trí số 1 không ai sánh bằng
Tài đành họa hai:tài năng may ra có người bằng
=>"Sắc đành đòi một tài đành họa hai" nghĩa là tài năng của Kiều thì có thể bằng còn nhan sắc của Kiều thì tuyệt trần không ai có thể sánh vai
- Giới thiệu chung về phong thái đoan trang của Thúy Vân. Từ con người Giới thiệu chung về phong thái đoan trang của Thúy Vân. Từ con người cô toát lên vẻ nghiêm chỉnh, ung dung, cao sang, quý phái.
- Những câu tiếp: tác giả miêu tả chi tiết dáng vẻ bề ngoài của Thúy Vân:
+ “Khuôn trăng đầy đặn”: gương mặt sáng như trăng rằm.
+ “Nét ngài nở nang”: nét lông mày cong đẹp.
+ “Hoa cười”: cười tươi như hoa.
+ “Ngọc thốt”: giọng nói trong như ngọc.
+ Mái tóc óng ả hơn mây.
+ Làn da trắng mịn màng hơn tuyết.
-> Mỗi một nét vẽ ngợi ca vẻ đẹp hoàn hảo của Thúy Vân, một vẻ đẹp phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến, một vẻ đẹp tạo ra sự hòa hợp, êm đềm khiến người ta phải đốn nhận, yêu thương.
- Ngoại hình ấy gợi tả liên tưởng đến tính cách và số phận của nhân vật:
+ Tính cách: trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, phúc hậu.
+ Số phận: dẫu Thúy Vân có đẹp hơn những gì mĩ lệ nhất của thiên nhiên thì nàng vẫn được “thua”, “nhường”. Hai động từ này cho thấy thiên nhiên ưu ái, bao bọc, nâng đỡ cho Thúy Vân => tương lai của cô chắc sẽ êm đềm, bình lặng, không sóng gió.
Chân dung Thúy Kiều (12 câu tiếp) –> Thủ pháp đòn bẩy.
- So sánh:
+ “Sắc sảo”: tính cách
+ “Mặn mà”: tâm hồn
-> Làm nổi bật chân dung Thúy Kiều : Tài sắc hơn Thúy Vân: “so bề…”; tránh được sự trùng lặp và phát huy được trí tưởng tượng của người đọc.
- Nhan sắc: tập trung tả đôi mắt: hình ảnh ước lệ, ẩn dụ.
+ “Làn thu thủy”: mắt trong trẻo, sâu thẳm như nước mùa thu.
+ “Nét xuân sơn”: lông mày mượt mà, tươi tắn, thanh thanh như dáng núi mùa xuân.
-> Gợi ấn tượng về thế giới tâm hồn phong phú, sấu sắc của nhân vật này.
-> Gợi tính cách sắc sảo, linh hoạt, đa sầu đa cảm.
-> Khiến tạo hóa phải ghen hờn “hoa ghen”, “liễu hờn”. Đây là những cảm xúc tiêu cực, thể hiện tâm lí oán trách, muốn trả thù, sự ghen ghét đố kị của tao hóa:
+ Một vẻ đẹp có chiều sâu, có sức cuốn hút lạ lùng, vượt ra ngoài mọi khuôn khổ, mọi giới hạn.
+ Báo trước một tương lai đầy sóng gió đang chờ đợi người con gái tài sắc này.
-> Là nhan sắc tuyệt nữ không ai sánh bằng.
- Tài hoa, trí tuệ: cũng vào bậc nhất nhì trong thiên hạ -> là sự tiến bộ của Nguyễn Du (thậm chí táo bạo của Nguyễn Du).
+ Trí tuệ: là sự thông minh, sắc sảo.
+ Tài hoa: đủ cả cầm kì thi họa trong đó tác giả nhấn mạnh tài đàn của Thúy Kiều: nàng chơi đàn hay; nàng tự mình sáng tác khúc nhạc khiến người nghe xúc động.
-> Đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến.
-> Là biểu hiện của sự đa sầu, đa cảm, của một tâm hồn tinh tế và lãng mạn, một tâm hồn phong phú.
Nguyễn Du đã rất ưu ái khi miêu tả chân dung Thúy Kiều. Nàng tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ “hồng nhan bạc phận”. Vì vậy trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã hơn một lần thốt lên “Hồng nhan quen thói má hờn đánh ghen”.