Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
+ Lần thứ nhất: Cậu đã hóa giải lời đố của viên quan bằng chiêu thức “gậy ông lại đập lưng ông” bằng cách hỏi lại: “Ngựa của ông đi một ngày được mấy bước”, dồn đối phương vào thế bí. Sự đối vô cùng nhanh nhạy tạo nên sự bất ngờ thú vị, khiến viên quan phải há mồm sửng sốt.
+ Lần thứ hai: Cậu bé đã hóa giải bằng cách “tương kế tựu kế” đưa nhà vua và cận thần vào “bẫy” của mình để cho ra sự vô lí: giống đực thì không thể đẻ con.
+ Lần thứ ba: Cậu đã hóa giải lời thách đố của nhà vua bằng cách đưa ra điều kiện phải rèn chiếc kim thành dao xẻ thịt thì mới có thể làm thịt một con chim sẻ thành ba cỗ thức ăn; dồn nhà vua vào thế bí. A không thực hiện được thì B cũng không thực hiện được.
+ Lần thứ tư: Trong lúc các đại thần vò đầu suy nghĩ không ra thì cậu bé vừa đùa nghịch, vừa đọc bài đồng dao để chỉ ra cách giải bằng cách dựa vào kinh nghiệm dân gian - (kiến mừng thấy mỡ).
- Đây là lần giải đố thú vị nhất, vì câu đố oái ăm, sự đấu trí không phải ở phương diện cá nhân mà là uy tín danh dự cho cả dân tộc, một lời giải có thể “cứu nguy cho cả hàng ngàn người” - Thế nhưng thái độ của người giải đố lại hết sức nhẹ nhàng tỉnh bơ, mà lời giải rất độc đáo bất ngờ.
độc đáo ở những câu hỏi hóc búa và khó lí giải
bài tham kháo nhỏ nhắn cho mik nha bn
nếu không chắc chắn hãy mở vở giáo khoa ra xem cho chắc nhé!!!!@@@@@@
ủa đây là học kì 1 mà nhưng bây giờ la hoc kì 2 rồi mới cả mình cũng chưa làm câu hỏi này
bạn thích đoạn nào thì viết có phải mình thích đâu mà viết đc!
Vào thời giặc Minh đô hộ ở nước ta, chúng coi dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược, nhân dân ta căm thù chúng đến sương tuỷ. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân của ta nổi dậy chống lại chúng, thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị thua. Thấy vậy Long Quân quyết định chõ nghĩa quân của ta mượn gươm thần để giết giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hoá có một người làm nghề chài lưới quanh năm để nuôi thân, tên anh là Lê Thận. Một đêm nọ, anh ta thả lưới ở một bến vắng như mọi hôm. khi kéo lên, Thận nghĩ là được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá, Thận chỉ thấy một thanh sắt. Thận liền vứt ngay xuống nước, rồi lại thả lưới ở một chỗ khác.
Lần thứ hai cất lưới lên, Thận lại thấy thanh sắt đó mắc vào lưới. Lần thứ ba, vẫn. thanh sắt đó mắc vào lưới. Thấy sự lạ, Thận bèn đưa thanh sắt lại gần mồi lửa. Bỗng chàng reo lên:
- Ha ha! Một lưỡi gươm!
Sau này, Thận gia nhập nghĩa quân khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Thận thông minh gan dạ, dũng cảm, không nề gian nan, nguy hiểm nên ta rất quí mến. Một ngày nọ, ta và mấy người lính đến nhà Thận. Trong túp lều rách nát, tối om, bỗng thanh sắt sáng rực lên ở góc lều. Lấy làm lạ, ta cầm lên xem thấy hai chữa “Thuận thiên” khắc sâu trên mặt kiếm. Song tất cả bọn ta vẫn không biết đó là báu vật.
Một hôm, bị giặc đuổi, ta và các tướng rút lui mỗi người một ngả. Đến một gốc đa cổ thụ, thấy vật gì sáng loá trên cây ta bèn trèo lên xem, thì ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ta bèn rút lấy chuôi giắt ở lưng và trở về.
Vài hỏm sau, ta gặp mọi người trong nghĩa quân và kể lại cho họ nghe câu chuyện bắt được chuôi gươm. Lúc đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in.*Lê Thận cầm gươm lên và nói với ta:
- Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện hi sinh tính mạng cho đất nước và cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc! Từ đó nhuệ khí của nghĩa quân ngày càng tăng. Trong tay ta, thanh gươm tung hoành mọi trận địa, làm cho giặc kinh hồn bạt vía. Uy thế của nghĩa quân vang khắp nơi. Nghĩa quân không phải trốn tránh như trước nữa mà xông xáo đi tìm giặc. Chúng ta không phải ăn uống khổ cực nữa mà đã có những kho lương mới chiếm được tiếp tế cho nghĩa quân. Gươm thần mở đường cho chúng ta đánh tràn ra khắp đất nước đến khi không còn bóng giặc nào trên đất nước ta nữa. Dẹp giặc xong, ta được phong lên ngôi vua. Năm sau, vào một buổi sáng đẹp trời ta cùng các tuỳ tùng cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng. Đúng lúc đó Đức Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi thuyền Rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh của ta, thuyền đi chậm lại. Đứng trên mạn thuyền, ta thấy lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy. Con Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu lên và tiến về phía thuyền. Nó đứng nổi trên nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”.
Ta nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, rùa "há miệng đớp lấy gươm và lặn xuống nước. Gươm và rùa đã chìm xuống đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới đáy hồ xanh.
Từ đó ta gọi hồ Tả Vọng là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Nhân dân cũng nhân sự tích này mà gọi hồ Tả Vọng bằng cái tên mới là hồ Hoàn Kiếm
Ngày đầu tiên đến trường chắc ai cũng trong tâm trạng lo sợ, bẽn lẽn không dám nói chuyện với thầy cô, bạn bè của mình đúng không nào? Em cũng vậy đó. Khi ấy em rất nhút nhát, sợ sệt với những cảnh vật mới và cả thầy cô mới nữa. Và một người bạn đã giúp em hòa đồng tự tin hơn là Phương Trúc. Một người bạn thân ở lớp mà em quý mến nhất.
Em và Trúc chơi thân với nhau từ lớp Một đến giờ. Hai đứa bằng tuổi nhau nhưng Trúc cao hơn em một cái đầu và tính tình lại chững chạc, điềm đạm như người lớn đấy . Bạn không đẹp nhưng với khuôn mặt hiền lành dễ thương nên được rất nhiều bạn quý mến. Làn da ngăm ngăm màu bánh mật khỏe khoắn nhưng rất mịn màng bạn tự hào vì đó là sở hữu một làn da giống ba. Khuôn mặt dễ nhìn, tô điểm cho khuôn mặt ấy là mái tóc đen huyền trông khá mượt mà, lúc nào cũng được bạn cột rất gọn gàng. Thỉnh thoảng, Trúc còn thắt bính hai bên trông thật dễ thương làm sao . Vầng trán cao và rộng hơi nhô nhô về phía trước cho thấy bạn là một người thông minh và nhanh nhẹn. Nhưng em nghĩ bạn học giỏi là do bạn ham học hỏi, tìm tòi chứ không phải nhờ vầng trán cao. Trúc luôn thu hút mọi người vì đôi mắt như biết cười, biết nói. Mỗi khi nói chuyện cùng bạn, em mới thấy đôi mắt ấy đẹp biết nhường nào. Đã vậy, khi nhìn ai , Trúc cũng nhìn thẳng cho thấy bạn là một người trung thực, can đảm không sợ gì cả. Chiếc mũi củ tỏi , dù nó không đẹp lắm nhưng em lại thấy nó rất hợp với khuôn mặt tròn trịa của bạn. Sở hữu một hàm răng trắng đều như hạt bắp, bạn trông thật “ăn ảnh” trong các bức hình chụp em cùng với bạn.
Bạn là tấm gương để em noi theo . Ở lớp , Trúc là tổ trưởng nên bạn vừa học giỏi vừa tích cực tham gia các hoạt động học tập, văn nghệ do lớp, trường tổ chức. Mỗi ngày đi học, quần áo của bạn đều tươm tất, gọn gàng chứ không luộm thuộm như các bạn khác do bạn đã chuẩn bị trước từ tối. Tác phong của bạn luôn được cô tuyên dương trước lớp trong các buổi sinh hoạt cuối tuần, thế còn học tập thì sao nhỉ ? Thật ra , bạn rất chăm học và chữ viết của bạn cũng đẹp nữa . Trong lớp, mỗi khi cô cho bài tập toán nâng cao, bạn đều kiên trì suy nghĩ để tìm ra hướng giải chứ không bỏ cuộc như chúng em. Còn khi không hiểu bài, bạn liền tự tin nhờ cô hướng dẫn để rút kinh nghiệm cho các bài tập khác. Bạn còn được bạn bè đặc biệt danh là cây văn vì bạn viết văn rất hay, mạch lạc. Ở lớp, bạn vừa chăm học vừa lễ phép với thầy cô, hòa đồng cùng bạn bè còn ở nhà thì bạn cũng rất ngoan ngoãn , siêng năng làm việc . Có dịp đến nhà bạn chơi , em vô cùng bất ngờ khi thấy bạn đang cặm cụi nấu ăn , tưới cây... giúp bố mẹ . Bạn chia thời gian làm bài, làm việc rất hợp lý nên dù bận làm bài nhưng bạn vẫn còn thời gian giúp bố mẹ, chơi đùa giải trí .
Bạn Trúc là bạn thân nhất của em suốt thời Tiểu học. Mỗi khi buồn hay vui , chúng em đều trò chuyện chia sẻ với nhau rất vui vẻ. Đối với em, bạn luôn là một tấm gương sáng để em học tập theo . Còn vài tháng nữa là chúng em xa trường . Có thể chúng sẽ không gặp lại nhau nữa nhưng các kỉ niệm về bạn , em sẽ không bao giờ quên.
Mỗi năm học em đều được quen biết nhiều bạn bè, mỗi gương mặt như một đoá hoa trong khu vườn muôn sắc của cô giáo em. Trong đó có đóa hoa mà em yêu quý và nhớ mãi. Đó là Kim Anh.
Kim Anh là một cô bạn gái có gương mặt bầu bĩnh, mái tóc dài đen mượt ngang vai cột rè hai bên chiếc nơ hồng lấm tấm trắng, đôi mắt sáng hiền hoà và nụ cười hồn nhiên.
Lần đầu em gặp bạn ấy là ngày khai trường năm lớp 1, lúc em và các bạn đang lúng túng tìm lớp 1 thì đã thấy một cỏ bé cầm bảng tên lớp đứng ngay ngắn trong,bộ đồng phục chỉnh tề luôn miệng lên tiếng “Các bạn ơi, lớp Một ba của mình đây nè!”. Từ lúc ấy em và bạn ấy rất có cảm tình với người bạn đầy tự tin, nhanh nhẹn và già dặn ấy. Có bạn còn gọi Kim Anh là “chị Hai” nửa. Năm năm trời trôi qua, Kim Anh luôn được bạn bè tín nhiệm bầu làm lớp trưởng. Càng ngày bạn ấy càng biểu lộ nhiều tính tốt như lễ phép, chăm chỉ, thông minh, đoàn kết, gương mẫu, dù phái làm công tác lớp nhưng bạn luôn đạt điểm tốt ở các môn. Vì thế mỗi lần cô giáo vắng mặt, Kim Anh nhắc nhở trật tự làm cho ai cũng nể nang nghe lời bạn ấy .
Một dạo nào năm lớp 4, cô giáo em bị bệnh nặng phải nghỉ dạy, Kim Anh đã tự giác kêu gọi các bạn góp tiền mua trái cây và kéo cả năm mươi sáu học sinh cùng đến thăm cô. Thấy chúng em đến đông đủ cô cảm động, đù mệt nhưng cô cũng cố gắng ngồi dậy, cô nói : ‘‘Không ngờ các em đến đông đủ cả, cô vui lắm. Thấy các em thương cô thế này cô cũng thấy khoẻ ra”.
Kim Anh là một cô bạn gái có gương mặt bầu bĩnh, mái tóc dài đen mượt ngang vai
Một lúc sau cô còn cố gắng giảng bài cho chúng em khỏi mất bài học. Khi cô ghi bảng thì bạn Kim Anh lau bảng cho cô. Có lúc cô không ghi bảng được thì Kim Anh chép hộ có lên bảng. Nhờ bạn ấy mà sau hai tuần lễ cô đau, chúng em vẫn theo kịp bài học với các lớp khác.
Một hôm em đi học sớm, ghé ngang nhà bạn để hỏi bài. Bước vào góc học tập của bạn ây, em đứng say mè nhìn, thích thú không muốn dời chân. Bàn học của bạn ấy rất đầy đủ đồ dùng học tập : bút ồic xanh, bút Bic đỏ, bút chì các loại, thước kẻ, eke. coinpa. chồng sách vở xếp thật ngay ngắn gọn gàng. Bên cạnh thời khoá biểu được tô những màu sắc vui tươi là những cảnh bướm sặc sở. những bông hoá và những bức hình sinh vật học do bạn áy tự sưu tầm. Bạn ấy xếp thành từng họ, từng nhóm : như bộ bướm, bộ chuồn chuồn, bộ bò sát,..,
Em trâm trồ: “Ồ những con bướm này đẹp quá, lại hiếm nữa. Bạn bắt ở đâu thế?” Kim Anh múm mím cười, đáp : “Mình bắt một phần lớn trong những ngày về nghỉ ở miền quê. Còn lại là người quen tặng cho mình vì biết mình rất thích”. Nói rồi, bạn lấy chiếc kính lúp ra đưa em và báo: “Bạn xem này, chiếc kính này cho mình thấy rõ cấu tạo cơ thể của chúng”. Em kêu lên :
“Ồ ! Hay quá !”
Kim Anh lại cho em xem những con vật bạn ấy đã sưu tầm được ngâm trong các lọ phoọc môn như rắn lục, bò cạp, rèt… Em rùng mình hỏi : “Bạn không sợ à ?” Đang Anh nói : “Ban đầu cùng sợ nó cắn. Nhưng chúng chét rồi nên không sợ nừa. Mình ao ườc sau này sẽ nghiên cứu nhiều hơn về thẻ giới loài vật”. Hỏi bài bạn xong em về và rất tự hào về người bạn tốt có tinh thần say mê khoa học ấy.
Ở trong lớp, ngoài việc học tập và làm công tác lớp trưởng, bạn ấy luôn luôn thân ái đoàn kết, cởi mở và giúp đỡ bạn bè. Bạn cũng là gương tốt về lễ phép với thầy cô và phụ giúp cho mẹ trong việc nhà.
Thật trời chẳng phụ lòng người tốt ! Kim Anh của em luôn đạt danh hiệu học sinh xuất sắc trong nhiều năm liền. Bạn ấy là tấm gương tốt cho chúng em noi theo. Truyện cố tích ngày xưa có một tấm gương thần soi vào là biết ai tốt, ai xấu. Bạn Kim Anh chính là tấm gương thần ấy.
Lần 1: Giải câu đố bằng cách đố lại viên quan và đẩy viên quan vào thế bí.
Lần 2: Giải câu đố bằng tài biện bác và nhà vua tự nói ra điều phi lý của điều kiện ông đưa ra.
Lần 3: Giải câu đố bằng cách đố lại nhà vua.
Lần 4: Giải câu đố bằng kinh nghiệm đời sống dân gian và mọi người ngạc nhiên về sự bất ngờ, giản dị và rất hồn nhiên trong lời giải đáp.
Con người là một sinh vật của hệ sinh thái có số lượng lớn và khả năng hoạt động được nâng cao nhờ khoa học kỹ thuật. Tác động của con người đối với hệ sinh thái rất lớn, có thể phân ra các loại tác động chính sau đây:
- Tác động vào cơ chế tự ổn định, tự cân bằng của hệ sinh thái.
- Tác động vào các chu trình sinh địa hoá tự nhiên.
- Tác động vào các điều kiện môi trường của hệ sinh thái: Khí hậu, thuỷ điện v.v...
- Tác động vào cân bằng sinh thái.
- Tác động vào cơ chế tự ổn định, tự cân bằng của hệ sinh thái
Cơ chế của hệ sinh thái tự nhiên là tiến tới tỷ lệ P/Rằ 1; P/Bằ 0. Cơ chế này không có lợi cho con người, vì con người cần tạo ra năng lượng cần thiết cho mình bằng cách tạo ra hệ sinh thái có P/R > 1 và P/B > 0. Do vậy, con người thường tạo ra các hệ sinh thái nhân tạo (đồng cỏ chăn nuôi, đất trồng lương thực thực phẩm). Các hệ sinh thái này thường kém ổn định. Ðể duy trì các hệ sinh thái nhân tạo, con người phải bổ sung thêm năng lượng dưới dạng sức lao động, xăng dầu, phân bón.
Tác động vào các chu trình sinh địa hoá tự nhiên
Con người sử dụng năng lượng hoá thạch, tạo thêm một lượng lớn khí CO2, SO2 v.v.... Mỗi năm con người tạo thêm 550 tỷ tấn CO2 do đốt các loại nhiên liệu hoá thạch đang làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên của trái đất, dẫn tới việc thay đổi chất lượng và quan hệ của các thành phần môi trường tự nhiên. Ðồng thời, các hoạt động của con người trên trái đất ngăn cản chu trình tuần hoàn nước, ví dụ đắp đập, xây nhà máy thuỷ điện, phá rừng đầu nguồn v.v... Việc này có thể gây ra úng ngập hoặc khô hạn nhiều khu vực, thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật nước v.v...
Tác động vào các điều kiện môi trường của hệ sinh thái
Con người tác động vào các điều kiện môi trường của hệ sinh thái tự nhiên bằng cách thay đổi hoặc cải tạo chúng như:
- Chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp làm mất đi nhiều loại động, thực vật quý hiếm, tăng xói mòn đất, thay đổi khả năng điều hoà nước và biến đổi khí hậu v.v...
- Cải tạo đầm lầy thành đất canh tác làm mất đi các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng đối với môi trường sống của nhiều loài sinh vật và con người.
- Chuyển đất rừng, đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp, khu đô thị, tạo nên sự mất cân bằng sinh thái khu vực và ô nhiễm cục bộ.
- Gây ô nhiễm môi trường ở nhiều dạng hoạt động kinh tế xã hội khác nhau.
Tác động vào cân bằng sinh thái
Con người tác động vào cân bằng sinh thái thông qua việc:
- Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức gây ra sự suy giảm một số loài và làm gia tăng mất cân bằng sinh thái.
- Săn bắt các loài động vật quý hiếm như hổ, tê giác, voi... có thể dẫn đến sự tuyệt chủng nhiều loại động vật quý hiếm.
- Chặt phá rừng tự nhiên lấy gỗ, làm mất nơi cư trú của động thực vật.
- Lai tạo các loài sinh vật mới làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên. Các loài lai tạo thường kém tính chống bụi, dễ bị suy thoái. Mặt khác, các loài lai tạo có thể tạo ra nhu cầu thức ăn hoặc tác động khác có hại đến các loài đã có hoặc đối với con người.
- Ðưa vào các hệ sinh thái tự nhiên các hợp chất nhân tạo mà sinh vật không có khả năng phân huỷ như các loại chất tổng hợp, dầu mỡ, thuốc trừ sâu, kim loại độc hại v.v...
Ý nghia mik có bt đôi chút rồi nhưng cái phần "Emhãy đóng vai 1 tác giả viết 1 bức thư kêu gọi con người trước thảm họa ngày hôm nay" Mik ko lm đc
Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách - độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô. Đoạn trích đã phần nào ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.
Mở đầu là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: Bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm, toàn cảnh đảo Cô Tô... mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng để ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân.
Thật là thiếu sót nếu ta không nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh hùng vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao! Cảnh được “vẽ” lên bằng ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
Cô Tô có cái màu xanh lam biếc của biển buổi chiều, lại có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng đông. Nguyễn Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mủi đảo để ngồi rình mặt trời lên. Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc những dòng viết tài hoa về cảnh tượng vô cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Những so sánh thật bất ngờ, những liên tưởng thật thú vị. Nhưng đến liên tưởng tiếp theo thì mới thực sự tài hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Màu sắc hài hoà rực đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: Mâm lễ phẩm, bạc nén, trường tho. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô
Có thể nói, đây thực sự là một đoạn văn kiểu mẫu về bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân. Ở đó người ta thấy có sự hoà hợp giữa cảnh và tình, thiên nhiên kì ảo như lộng lẫy, mĩ lệ hơn trong cái nhìn của nhà văn.
Cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui: Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn [...] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa Trông chị Châu Hoà Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của không khí trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô Tô.
Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ diêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc - quần đảo Cô Tô.
Chúc bạn học tốt!
Em chưa một lần được đến thăm đảo Cô Tô. Nhưng qua bài viết của nhà văn Nguyễn Tuân, và lời giới thiệu sinh động của thầy, cô giáo, Cô Tô hiện ra trước mắt em.
Không rõ nhà văn Nguyễn Tuân đã thăm đảo mấy ngày, bài Cô Tô trích trong sách ngữ văn lớp sáu là ngày thứ năm và ngày thứ sáu ông ở đảo. Đó là những ngày vừa qua cơn dông tố. Cảnh vật và sự sống như bừng lên, trong sáng, cây cối trên núi đảo xanh mướt như để thi mày sắc với biển. Nước biển màu xanh lam lẫn từng đợt sóng vào bãi cát vàng. Theo nhà văn thì những ngày động biển cá sẽ vắng mặt biệt tích nhưng sau đó thì những mẻ lưới lại nặng thêm, ông kể việc đi tham quan của mình để giới thiệu rằng Cô Tô có cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam và nếu trèo lên góc đồi thì nhìn ra bao la Thái Bình Dương, bốn phương tám hướng.
Thật là đẹp cái nắng ở Cô Tô. Nắng soi vào người chiếu ánh trắng lên trên hàm răng. Nắng làm nổi gân cái buồm cánh dơi, nhuộm tươi lại lá buồm nâu cũ. Nhà thơ dùng lối văn miêu tả so sánh vừa lạ vừa sống động: Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tâm kính lau hết bụi.Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết…Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới…, vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể, sáng dần lên cái chất bạc nén. Tiếp đến ông quan sát và tả lại màu nước biển của Cô Tô. Đó là một màu xanh luôn biến đổi, mà các dạng màu xanh này phải tìm ở vốn tự vị mới hết được.
Màu xanh như lá chuối non, như là chuối già? Xanh như mùa thu ngả “Cốm vòng”. Cái màu xanh “Cốm vòng” thì chỉ ai sống ở Hà Nội mới hình dung nổi các màu xanh của hạt lúa nếp non, người ta đem làm cốm, già lẫn với một ít lá cau non nên thấy màu xanh non tơ trông ngon mắt vô cùng.
Để cho màu xanh của nước biển thay hình đổi dạng, màu xanh của cỏ cây, núi đồi, không thể đủ phô diễn nhà văn phải so sánh, ví von như màu xanh của áo thư sinh Kim Trọng, Tư mã Giang Châu… Và ông vẫn chưa thỏa mãn với những màu xanh ấy mà còn nói: “màu xanh nước biển chiều nay như trang sử của loài người “ nghĩa là như thân tre khi người ta dùng nó để viết… có những màu xanh chỉ miêu ta do cảm quan của nhà văn làm em không hiểu nổi ví như “màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương”.
Cuối cùng nhà văn cũng phải phàn nàn, “chữ nghĩa không thể nào tuôn ra kịp bởi màu sáng cứ kế tiếp đối mới cái màu xanh của bể”. Một màu xanh màu ngọc bích, màu xanh của niềm hy vọng.'.. Cái màu xanh đã khai thác đến cùng mà vẫn chưa đủ để tả màu xanh nước biến… Nhà văn đành dừng lại chuyển sang miêu tả mặt trời rọi lên vào ngày thứ sáu thăm đảo.
Nhà văn rình mặt trời mọc lên. Trước hết là chân trời, ngấn bể sạch như lau tâm kính bụi, từ ở đấy mặt trời trồi dần lên mặt nước? “Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn”.
Cả môt bầu trời, một chân trời được nhà văn vẽ lên trên giấy: “Quả trứng hồng hào thăm thẳm, và đường bệ đặt lên mâm bạc đường kính rộng cả bằng một cái chân trời màu ngọc trai nước biển, ửng hồng”.
Sức tưởng tượng của nhà văn vượt ra khỏi tầm nhìn trở lại trong tâm linh đề minh họa cái bầu trời một buổi sáng kia: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”.
Và nhà văn bỗng gặp cả một cảnh kỳ thú tìm thấy từ trong ngữ của minh hòa vào với thiên nhiên trước mắt. “Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dẩn lên các chất bạc nến. Một con hải âu bay ngang là là nhịp cánh”.
Vài chiếc nhạn ấy với con hải âu bay ngang đã khảm vào bầu trời một cảnh đẹp trác tuyệt của đảo Cô Tô…
Có một mảnh đất của Tổ quốc như vậy làm sao mà không mến yêu cho được.
Trên đây mới chỉ là bức tranh thiên nhiên rộng lớn. Còn phần con người trên đảo , họ cũng sống dày dạn, cứng cởi làm sao! Cảnh tượng con người xoay quanh cái giếng nước ngọt cùng đã nói lên một phần cái vất cả phải lao động, nước ngọt theo người ra khơi, dự trữ vào thùng gỗ, những cóng, những ang gốm màu da lươn… có nước ấy các bà mẹ mới yên tâm địu con vẫy tay chào thuyền ra khơi.
Thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân thật tươi đẹp, thật khó để em nói hết được cảm xúc của mình. Em chỉ muốn nói như nhà thơ nào đó đã nói, đại khái là:
“Một góc trời nào, Tổ quốc cũng là tranh”.
BÀI THAM KHẢO 2
Vẻ đẹp của thiên nhiên và hình ảnh con người lao động ở đảo Cô Tô được nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận vả nêu lên những suy nghĩ rất phong phú và đa dạng. Phong cảnh và con người dưới ngòi bút nghệ thụật sắc sảo, già dặn của tác giả làm cho đảo Cô Tô đã đẹp càng gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Từ vị trí đứng trên cao, toàn cảnh Cô Tô được hiện ra qua cảm nhận của nhà văn, gây nên những hứng thú về cái đẹp lộng lẫy của đảo trong buổi sáng đẹp trời, sau cơn bão.
Nhà văn quan sát và cảm nhận bằng nhiều giác quan nêu màu sắc của nắng, gió và nước biển ơ đây thật sinh động.
Ông đã hòa hợp sự miêu tả với cảm nhận, suy tưởng, nên phát hiện thấy “ánh sáng” là “ảnh trắng'“ và vận động: “nắng rung mạnh, nắng nổi gân trên bầy nạp buồn” Nắng còn được nhà văn diễn tả có hình khối: “nắng phồng lên từ phía này sang phía kia”.
Trên trời là nắng, dưới biển là nước, con thuyền ơ giữa trời và nước, lướt sóng đưa người đi thăm đảo Cô Tô. Màu nước biển đẹp quá khiến nhà văn xúc động, khơi nguồn liên tưởng phong phú và sử dụng vốn từ giàu có để vừa miêu tả và cảm nhận ở các mức độ của màu xanh nước biển. Những cái màu xanh phong phú, kỳ diệu đến nỗi dù từ ngữ tung hoành đến mấy cũng phải bất lực, khiến nhà văn phải thốt lên: “Chữ không tài nào tuôn ra kịp được với nhịp sóng”. Thật vậy! Khi miêu tả cái màu xanh ấy, có màu xanh rất thật, rất cụ thể như: “lá chuối non, lá chuối già, màu cốm làng Vòng mùa thu, màu ngọc bích…” và có những màu xanh trừu tượng chỉ có ghi ở trong sách vở, trong kí ức và suy tưởng, nhưng rất gợi cảm như “màu áo Kim Trọng” rút ra từ câu Kiều:
Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Có pha màu áo nhuộm non da trời,
Và màu áo quan Tư Mã Giang Châu, rút ra từ bài thơ Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị:
Lệ ai chan chứa hơn người
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh
Một cách tả cảnh đầy ấn tượng và độc đáo khi nhà văn tả mặt trời. Ta thấy tác giả như một họa sĩ khéo tay pha màu để phác họa hình ảnh và miêu tả, cảm nhận cho hết cái đẹp kì vĩ của mặt trời. Bởi vậy màu sắc rự rỡ đầy ấn tượng được bộc lộ như “đỏ, hồng bạc, ngọc trai”… Và hình ảnh cụ thể là một mặt trời “tròn trĩnh”. ’Những phần diễn tả bằng cảm nhận, liên tưởng, suy nghĩ, ví von, so sánh mới làm ta thích thú. Mặt trời như: “Lòng đỏ một qủa trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm; và dường bệ đặt
lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”
Tiếp đến là một cảm nghĩ vừa chân thành vừa trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên và con người trên đảo Cô Tô: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Bởi vì hòa vào trong cái đẹp lộng lẫy, đầy sức sống ấy, nổi bật lên là hình ảnh con người. Cái đẹp của biến cả, trời cao, nắng gió… sẽ chìm khuất đi nếu không có con người. Khám phá và tạo ra ở đây là người anh hùng Châu Hòa Mãn trẻ trung, tráng kiện: “ánh nắng chiếu trên hàm răng đều đặn hồng”, “càng trẻ thêm” Đó là người điều khiển con thuyền lướt êm trên mặt: sóng của Đại Môn. Cùng với những con người ở Hợp tác xã Bắc Loan Đầu trẻ trung, là những chủ nhân đích thực, những con người chinh phục biển cả bằng sức mạnh và tài năng của mình.
Tóm lại, với vốn từ ngữ giàu có được sử dụng tốt nhất trong việc cảm nhận, cảm nghĩ bằng tiếp xúc trực tiếp và bằng liên tưởng bất ngờ, bài Cô Tô làm người đọc rạo rực, say mê và có những cảm nghĩ rất sâu sắc theo nhịp trào dâng cảm xúc của nhà văn trước vẻ đẹp của đảo Cô Tô, làm cho người đọc thêm yêu mến đất nước.
Dựng lên truyện " Côn hổ có nghĩa " mà không phải con người có nghĩa vì :hổ là một loài thú dữ,tàn ác,ăn thịt thú rừng và thậm chí ăn thịt cả con người.Nhưng con hổ trong truyện lại là một con hổ có nghĩa,có thình.Ở đây người ta muốn mượn hình tượng con hổ là để răn dạy con người : Sống ở đời phải có tình,có nghĩa với nhau.
Từ xa xưa, chúng ta vẫn coi hổ là loài vật hung dữ nhất, là chúa sơn lâm, chuyên đi ăn thịt các con vật khác. Dựng truyện " Con hổ có nghĩa" để nói lên rằng con hổ hung dữ mà có nghĩa nhưu vậy huống chi con người.
Để đón chào 1 thành viên mới là bút bi, họ nhà bút đều tề tựu trên bàn học: nào bút lông,bút chì...đều có mặt đông đủ.Trong đám đông, ông bút lông lên tiếng :" Hôm nay để đón chào thành viên mới là bút bi, đề nghị mọi người hoan nghênh chào đón". Từ trong đám đông, bút bi bẽn lẽn bước ra lên tiếng:" Chào mọi người. Em là bút bi, em rất vui khi dc gia nhập vào dòng họ bút của mình...Sau đây,em xin tự giới thiệu về bản thân:
" Em được biết,từ xưa, các nhà nho thường dùng bút lông ngỗng chấm mực Tàu để viết nên những nét chữ rồng bay,phượng múa. Rồi được cải tiến hơn, con người dùng gỗ làm cán bút,sắt làm đầu bút.Và cũng từ loại bút thô sơ ấy,chị bút máy,rồi đến em là bút bi dc ra đời...
Bây giờ,do tiện lợi và có nhiều mẫu mã nên em thường dc con người ưa chuộng và sử dụng rộng rãi.Bố của em nguyên là một nhà báo người Hungari tên Luizo Biro.Em dc ra đời vào năm 1938 ở bên châu Âu nhưng mãi đến thế kỉ XX họ bút bi nhà em mới du nhập sang VN và trở nên phổ biến.
Em cao khoảng 15 cm, dk khoảng 1cm...
_Thế còn bộ phận bên trong như thế nào?Chắc em cũng có 2 bộ phận như bọn anh hả?_Anh bút mực cất tiếng hỏi.
Vâng,em có cấu tạo cũng gồm 2 bộ phận chính là bên ngoài và bên trong.Bút bi nói tiếp.Bên ngoài: Mình em gồm nắp và thân.Thân em là 1 hình trụ rỗng,bên trong làm bằng nhựa và thường dc trang trí bắt mắt,đôi khi là những dòng chữ hay hình nhân vật hoạt hình xinh xắn.Màu thân của em phụ thuộc vào màu mực bên trong.Phần dưới chỗ tay cầm,con người thường dùng cao su để lam thành các vòng nổi len hoặc có đai to hơn để khi viết sẽ êm tay.Ở phần đầu bút dc vót nhọn ôm lấy ngòi.Phần trên cùng là nắp,có chỗ để cài vào túi áo hoặc sách vở.
Bên trong người em có chứa 1 ống chứa mực đặc sánh dc làm bằng nhựa dẻo. Trên thân có 2 nấc nhỏ dc làm bè ra sg sg với nhau.Độ cao,thấp,to,nhỏ của nấc tùy thuộc độ dài và chiếc lò xo = sắt có độ đàn hồi gắn trg ruột bút dưới 2 chiếc nấc ấy.Phần đầu làm = thép ko rỉ. Ở đầu em có những cái rãnh nhỏ xíu để khi viết mực chảy ra dễ dàng,ở bên trg là 1 viên bi nhỏ mà ngày nay người VN vẫn phải nhập bên nc ngoài về.Khi viết viên bi xoay tròn để mực thấm ra giấy.Vì thế khi sử dụng,họ bút bi nhà em sẽ viết dc rất nhanh nhưng lại dễ bị hư chữ...
Họ bút bi nhà em giờ có nhiều chủng loại nào là bi xanh, bi đỏ...
(Sau đó em có thể thêm phần ưu,nhược điểm của bút để hoàn thành bài viết. Ưu: tiện lợi, ko phải bơm mực thường xuyên. Khuyết: Hay hết mực nên hs phải mang theo 2 cây để thay.Và nếu rớt mạnh sẽ bể bi...)
... Mọi người hô vang tên bút bi khi bút bi tự giới thiệu xong về mình.
Để kết thúc buổi gặp, ông bút lông lên tiếng : Họ nhà bút chúng ta tuy có thể sau này sẽ bị giảm vai trò do thời đại vi tính đang lên ngôi. Nhưng tôi tin cây bút sẽ ko thể thiếu đối với con người.
Ngẫm lại lời của ông bút lông, mọi người ai cũng vui khi biết mình luôn mang một trách nhiệm cao cả...
Tôi là một cây bút chì--một cây bút chì bằng gỗ, tầm thường và quen thuộc với những em học sinh và người lớn biết đọc và biết viết.
Viết vừa là nghề chính vừa là nghề phụ và là thú vui của tôi. Đó là những việc tôi làm. Có thể bạn đang thắc mắc là tại sao tôi lại viết về gia phả của mình. Xem nào, để bắt đầu, phải nói là câu chuyện đời tôi là một chuyện rất thú vị. Và thứ nữa, tôi là một bí ẩn--còn bí ẩn hơn cả một cái cây hay một buổi hoàng hôn, hay ngay cả một tia chớp. Nhưng, buồn thay, những người dùng tới tôi vẫn thản nhiên sử dụng và chẳng buồn tìm hiểu nguồn gốc của tôi như thế nào, cứ như thể sự hiện hữu của tôi chỉ là một tình cờ ngẫu nhiên và chẳng có căn nguyên chi hết. Cái thái độ rẻ rúng ấy đẩy tôi xuống hạng những đồ vật hạng xoàng. [Nhưng] Đó là một loại sai lầm khủng khiếp mà nhân loại không thể tồn tại lâu dài được mà không gặp nguy hiểm. Lý do là vì, như nhà thông thái G. K. Chesterton đã nói: "Chúng ta bị héo tàn đi vì thiếu sự tò mò, chứ không phải vì thiếu những điều kỳ diệu."
Tôi, Cây Bút Chì, dù có bề ngoài đơn giản, đáng để cho các bạn phải kinh ngạc, vâng, đó là điều mà tôi sẽ cố thuyết phục các bạn. Thực ra, nếu bạn có thể hiểu tôi--không, đối với nhiều người, đây quả là một đòi hỏi quá đáng--hay nếu bạn có thể cảm nhận sự huyền diệu được hình tượng hóa qua bản thân tôi, thì bạn có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được sự tự do đang bị mất dần đi. [Cuộc đời tôi] là một bài học thâm thúy. Và bản thân tôi có thể dạy bài học này hay hơn một chiếc xe hơi hay một cái máy bay, hay một cái máy rửa chén, bởi vì, thực ra, tôi có một bề ngoài đơn giản.
Đơn giản? Đúng thế! Nhưng tôi dám cá là không có một cá nhân nào trên trái đất này biết cách chế tạo ra tôi. Nói nghe có vẻ lập dị, phải không các bạn? Nhất là khi ta thấy có vào khoảng một tỷ rưỡi cây bút chì được chế tạo hàng năm tại nước Mỹ.
Xin bạn hãy cầm tôi lên và ngắm nghía xem. Bạn thấy gì nào? Chẳng có gì hấp dẫn đôi mắt cả--một chút gỗ, chút sơn, cái nhãn hiệu, than chì, chút kim loại, và một cục tẩy.
Nếu như bạn không thể truy nguyên gia phả của bạn từ nhiều đời trước, thì đó cũng là điều bất khả cho tôi để kể tên và giải thích tất cả những tiền nhân của mình. Nhưng tôi cũng cố kể ra một số đủ để lấy le với bạn về cuộc đời phong phú và phức tạp của tôi.
Cây gia phả của tôi bắt đầu, thực ra, là một cái cây, chính là một cây tuyết tùng có thớ gỗ thẳng, mọc tại miền bắc của tiểu bang California và tiểu bang Oregon. Bây giờ bạn hãy thử tưởng tượng ra tất cả những nào cưa, nào xe vận tải, dây chão và vô số những dụng cụ khác nhau để đốn những cây tuyết tùng xuống và kéo ra lề đường. Hãy thử nghĩ đến tất cả những người thợ và vô vàn những kỹ thuật cần thiết tạo nên nghề thợ rừng: đào mỏ lấy quặng sắt, luyện thép và chế biến thành lưỡi cưa, lưỡi búa, động cơ; việc trồng những cây gai dầu và quá trình chế biến thành những sợi dây chão to lớn và chắc chắn; rồi những trại cưa có phòng ngủ và phòng ăn và bếp núc cho nhân viên. Có cả hàng ngàn người không ai biết đến đã góp phần vào tạo nên một ly cà phê buổi sáng cho những người thợ rừng.
Những thân gỗ sau khi đốn xong được chuyên chở bằng xe lửa tới một nhà máy cưa ở San Leandro, bang California. Bạn có thể tưởng tượng ra những người chế tạo ra những toa xe lửa, đường rầy và những kỹ sư hỏa xa đã chế tạo và xây dựng ra những hệ thống thông tin phụ thêm vào đó? Những điều này thuộc về vô số tiền nhân của tôi.
Bây giờ hãy xem đến nhà máy xẻ gỗ ở San Leandro. Những thân gỗ tuyết tùng được xẻ thành những lát gỗ mỏng và cưa thành những thanh gỗ có chiều dài bằng cây bút chì, dầy khoảng 0.6 phân. Rồi lại còn có những lò nướng và nhuộm màu cho những thanh gỗ này như kiểu phụ nữ thoa phấn lên mặt. Người ta muốn tôi có màu sắc đẹp đẽ chứ không phải màu trắng nhợt nhạt của gỗ. Xong rồi những thanh gỗ này được thoa sáp và nướng khô thêm một lần nữa. Bao nhiêu kỹ thuật đã đổ vào việc chế tạo nên lò nướng và máy nhuộm, vào việc tạo ra sức nóng, điện lực và ánh sáng, động cơ, dây cu-roa, và những vật dụng cần thiết khác trong một nhà máy cưa? Phải kể luôn những người thợ quét dọn nhà máy nữa chứ? Vâng, và phải kể luôn những người đã đổ bê-tông làm nên cái đập thủy điện cho Công ty Điện lực và Khí đốt thiên nhiên Thái Bình Dương, tức là công ty cung cấp điện cho nhà máy cưa này.
Cũng đừng nên quên những bậc tổ tiên hiện tại và quá khứ của tôi đã góp phần vào việc chuyển vận sáu mươi toa xe chở những thanh gỗ đi khắp nước.
Rồi vào đến xưởng làm bút chì--gồm có bốn triệu đô-la tiền máy móc và nhà cửa, tất cả vốn liếng tích lũy từ bao nhiêu tổ tiên của tôi ky cóp để dành--mỗi thanh gỗ được xẻ 8 cái rãnh bằng một cái máy rất phức tạp, sau đó một cái máy khác đặt chì vào những thanh gỗ khác, rồi được trét keo và đặt chồng lên nhau như những miếng bánh sandwich kẹp chì vậy. Tôi và 7 anh em khác được "đẻ" ra từ cái bánh mì kẹp chì này.
Cái "ruột" chì của tôi, gọi như vậy chứ thật ra chẳng có chút chì nào cả, cũng rất phức tạp. Bột than (chì) được lấy lên từ mỏ ở Ceylon. Hãy nghĩ đến những người thợ mỏ và những người thợ làm bao nhiêu những vật dụng khác và những người thợ làm bao giấy đựng bột than chì để chuyên chở, rồi những người thợ làm dây để buộc những bao này lại, rồi những công nhân bốc vác những kiện hàng này lên tàu thủy, rồi những người thợ đóng tàu thủy nữa. Ngay cả những người giữ hải đăng và những người tài công lái tàu ra vào hải cảng cũng góp phần vào việc sinh sản ra tôi.
Bột than chì được trộn với đất sét lấy từ Mississippi có chứa dung dịch ammoniac và được dùng trong quá trình tinh luyện. Rồi thì những hóa chất lỏng khác được thêm vào như chất mỡ sulfate--một loại mỡ động vật có phản ứng hóa học với axit sulfuric. Sau khi chảy qua vô số máy móc, hợp chất này cuối cùng được bơm ra thành những sợi dài, giống như từng thỏi xúc-xích, được cắt đúng cỡ và nướng thêm vài giờ với nhiệt độ 1010 độ C. Nhằm gia tăng độ cứng và trơn láng của những thỏi "chì," chúng được nhúng vào một hợp chất nóng gồm có chất sáp làm nến lấy từ Mexico, sáp paraffin, và mỡ động vật được hy-drô hóa.
Cái vỏ gỗ tuyết tùng của tôi được sơn sáu lớp sơn láng. Bạn có biết loại sơn láng (làm sơn mài) có bao nhiêu chất không? Ai có thể nghĩ rằng những người nông dân trồng cây thầu dầu và những người thợ ép thầu dầu cũng dự phần trong tiến trình này? Nhưng mà thật như vậy đó. Ngay cả tiến trình pha sơn thành màu vàng đẹp đẽ cũng cần tay nghề của vô số bao nhiêu người.
Hãy xem đến cái nhãn hiệu. Đó là một lớp màng mỏng tạo nên bởi than đen trộn với nhựa cây và được hơ nóng. Bạn có biết người ta lấy nhựa cây như thế nào không?
Tôi có một chút xíu kim loại--cái vòng bịt đuôi cây bút chì--làm bằng thau. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người thợ mỏ kẽm và đồng và những người có tay nghề tạo nên những tấm thau sáng loáng từ những sản phẩm đó của thiên nhiên. Còn cái vòng màu đen trên cái vòng bằng thau đó làm bằng chất kền màu đen. Kền màu đen là cái gì và dùng nó như thế nào đây? Để biết được tại sao ở giữa cái vòng bịt bằng thau đó lại không có vòng kền màu đen cũng phải mất thêm cả bao nhiêu trang nữa để giải thích.
Rồi đến cái vương miện của tôi, vẫn thường được gọi nôm na là "cái mấu," tức là chỗ giữ cục tẩy để người ta xóa đi những chỗ viết sai. Cái chất gọi là "factice" chính là cái chất "tẩy" đi những chỗ viết sai. Cái chất này cũng giông giống như chất cao-su, nhưng thực ra là hợp chất của dầu hạt cải Canola trộn với chất sulfur chloric. Chất cao-su, trái với những gì ta nghĩ, không "tẩy" được và chỉ dùng để dính hợp chất này lại mà thôi. Rồi còn vô số những hóa chất và chất xúc tác khác. Còn thêm chất đá bọt đến từ Ý đại lợi và chất phẩm màu để nhuộm cái mấu là từ hợp chất cadmium sulfide.
Còn có ai muốn thử với điều tôi khẳng định ban đầu là không có một người duy nhất nào trên trái đất biết cách làm ra tôi không?
Thực ra, hàng triệu người đã góp tay vào việc cấu tạo nên tôi, nhưng mà không có ai biết được những người khác. Bạn cũng có thể nói rằng tôi đã nói phóng đại khi liên kết một người hái trái cà phê ở xứ Ba-tây xa lắc và những người trồng thực phẩm ở chỗ nào đó với sự cấu tạo ra tôi. Nhưng tôi vẫn giữ lập trường. Đó là, không có một người duy nhất nào trong số những triệu người này, kể cả ông chủ xếp sòng của công ty sản xuất bút chì, là người đã đóng góp hơn một phần nho nhỏ cách thức tạo ra tôi. Sự khác nhau giữa người thợ mỏ ở Ceylon và người thợ rừng ở Oregon là sự khác nhau về cách thức. Cả hai người thợ này không thể thiếu được, cũng như nhà hóa học trong xưởng hay người công nhân tại giếng dầu hỏa (sáp paraffin làm từ dầu hỏa) cũng không thể thiếu được.
Đây cũng là một sự kiện đáng ngạc nhiên nữa. Đó là, tất cả những người dính dáng đến tiền thân của tôi, từ người công nhân làm việc ở giếng dầu hỏa, đến nhà hóa học, hay người thợ mỏ đào than chì và đất sét, hay bất cứ ai chế ra tàu thủy, xe lửa, hay xe vận tải, hay những người thợ chạy cái máy làm "vương miện" cho tôi, hay ông chủ tịch hãng làm bút chì...làm những công việc của họ...đều không cần đến tôi. Mỗi người trong số những người này không cần tôi bằng một em bé đang học lớp một. Thực ra, có một số người trong hằng hà sa số những người này chưa bao giờ thấy một cây bút chì chứ đừng nói gì đến sử dụng nó. Động lực để họ làm việc là điều gì khác chứ không phải tôi. Có lẽ phải nói như thế này: Mỗi người trong số hàng triệu người này thấy rằng họ có thể trao đổi một tí ti kiến thức về cách thức chế tạo đồ dùng và dịch vụ của họ với những nhu cầu khác mà họ cần. Tôi có thể không nằm trong danh sách những nhu cầu của họ.
Có một sự kiện còn đáng ngạc nhiên hơn: sự vắng bóng của một nhà tổng đạo diễn, một người chỉ đạo và ra mệnh lệnh điều khiển vô vàn những hoạt động kể trên để tạo ra tôi. Ta không tìm được dấu tích của một người như vậy. Thay vào đó, ta thấy có một Bàn Tay Vô Hình đang điều động mọi sự. Đó cũng chính là sự bí ẩn tôi nói tới lúc ban đầu.
Người ta thường nói là "Chỉ có Thượng đế mới có thể tạo ra một cái cây." Tại sao ta đồng ý với câu nói này? Chẳng phải vì ta nhận thức được là con người không thể tạo ra được một cái cây hay sao? Thực ra, liệu ta có thể mô tả được một cái cây hay không đã? Ta không thể làm được điều này ngoài một số những miêu tả hời hợt. Ta có thể nói, thí dụ như thế này, là một cấu trúc phân tử nào đó đã thể hiện thành một cái cây. Nhưng có một bộ óc con người nào đã có thể ghi chép lại, chứ đừng nói đến việc chỉ đạo, những thay đổi liên tục trong những phân tử đã diễn ra trong đời sống của một thân cây không? Đó là một kỳ tích không thể nào tưởng tượng nổi!
Tôi, Cây Bút chì, là một sự kết hợp phức tạp của nhiều điều kỳ diệu: một cái cây, kẽm, đồng, bột than, vân vân. Nhưng thêm vào trong những điều kỳ diệu đã thể hiện trong thiên nhiên còn có một điều kỳ diệu hơn nữa: sự phối hợp những năng lực sáng tạo của con người--hàng triệu những kiến thức nhỏ bé được phối hợp một cách tự nhiên và tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu và ước muốn của con người mà không có một bàn tay đạo diễn nào của con người cả! Vì chỉ có Thượng Đế mới tạo ra được một cái cây, tôi khẳng quyết là chỉ có Ngài mới tạo ra tôi. Con người chẳng có thể làm gì hơn là sắp xếp hàng triệu những phương thức sản xuất lại cũng như Ngài đã phối hợp những phân tử lại để tạo ra một cái cây.
Đó chính là những điều tôi muốn nói khi viết rằng: "nếu bạn có thể cảm nhận sự huyền diệu được hình tượng hóa qua bản thân tôi, thì bạn có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được sự tự do đang bị mất dần đi." Vì, nếu ta ý thức được rằng những phương thức sản xuất này sẽ, một cách tự nhiên và tự động, sắp xếp lại thành những công thức sản xuất đầy sáng tạo để đáp ứng những nhu cầu của con người--nghĩa là không có sự hiện diện của chính quyền hay một sự chỉ đạo mang tính cưỡng bách nào--thì con người sẽ thủ đắc được phần tử tuyệt đối cần thiết cho tự do: Niềm tin vào những con người tự do. Tự do sẽ không thể nào hiện hữu được nếu thiếu niềm tin này.
Một khi mà nhà nước có được độc quyền về một hoạt động sáng tạo, thí dụ như phân phát thư tín, thì hầu hết người ta sẽ nghĩ rằng thư tín sẽ không thể nào được phân phối một cách hữu hiệu bởi những người hoạt động một cách tự do. Và đây là lý do: Mỗi người trong chúng ta nhìn nhận rằng mình không biết mọi cách thức liên quan đến việc phát thư, đồng thời cũng nhận thức rằng không một cá nhân nào có thể biết hết được. Đó là những nhận thức đúng đắn. Không một cá nhân nào có thể biết được hết mọi cách thức phân phối thư tín cho toàn quốc, cũng như không có ai biết hết mọi cách thức làm ra cây bút chì. Và, khi mà ta không có niềm tin vào con người tự do--niềm tin rằng hàng triệu những phương thức sản xuất nho nhỏ sẽ tự động và tự nhiên phối hợp lại để tạo ra sản phẩm--thì người ta không thể nào mà không kết luận, một cách sai lầm, rằng thư tín chỉ có thể được phân phối bởi và qua sự "đạo diễn" của nhà nước.
Nếu Tôi, Cây Bút Chì, chỉ là một đồ vật được dùng làm bằng chứng cho sự sáng tạo của con người khi họ được tự do để thử nghiệm, thì lập luận của những người thiếu niềm tin sẽ tương đối đứng vững. Nhưng, có vô số bằng chứng như vậy trên mọi lãnh vực. Việc phân phối thư từ coi vậy chứ thực đơn giản khi ta so sánh với, thí dụ, việc ráp một chiếc xe hơi hay một cái máy tính hay một cái máy xay lúa hay một cái máy tiện hay hàng chục ngàn những điều khác nữa. Phân phối ư? Trên lãnh vực này khi người ta được tự do thử nghiệm, đã gởi giọng nói của con người vòng quanh trái đất trong vòng không tới một giây đồng hồ; họ đã chuyển đi hình ảnh và tiếng nói trực tiếp tới nhà khi sự việc đang xảy ra; họ đã chuyển 150 hành khách từ Seattle tới Baltimore[1] dưới 4 tiếng đồng hồ; họ đã chuyển xăng dầu từ Texas tới New York bằng một giá rẻ không ngờ và chẳng cần trợ cấp của chính phủ; họ đã chuyển 4 ký dầu hỏa từ Vịnh Ba Tư tới bờ phía đông nước Mỹ với một giá rẻ hơn là bưu phí gửi một lá thư qua bên kia đường.
Bài học mà tôi muốn truyền đạt như thế này: Hãy để cho tất cả những năng lực sáng tạo được tự do. Xã hội chỉ cần được tổ chức để hoạt động hài hòa với bài học này. Hãy để bộ máy pháp luật của xã hội dẹp bỏ hết những chướng ngại cho sự tự do càng nhiều càng tốt. Hãy để cho những phương thức sản xuất đầy sáng tạo được tự do tuôn chảy. Hãy có niềm tin là những con người tự do sẽ tương tác hài hòa với Bàn Tay Vô Hình. Niềm tin này sẽ được xác lập. Tôi, Cây Bút Chì, dù bản thân tôi rất ư là đơn giản đã thể hiện được sự kỳ diệu của sự sáng tạo ra tôi; đó là một bằng chứng hùng hồn cho thấy đây là một niềm tin thực tiễn và thực tế, cũng có thực như trời nắng, trời mưa, cây tuyết tùng, và trái đất của chúng ta.
Khi giải đố, em bé đã không dựa vào các kiến thức sách vở mà sử dụng các kiến thức ngay trong thực tế đời sống. Với những câu đố không thể có lời giải, em bé đã đẩy chính người đố vào thế bí, khiến cho cả người ra câu đố, người chứng kiến bị bất ngờ, thán phục, làm bật ra tiếng cười vui vẻ.
Trong cau chuyện, cậu bé là một người Thông minh và lanh lợi đã giáp đáp những câu đố hóc búa với tài hiểu biết, cậu bé đã cho mọi người thấy trí Thông minh và làm cho họ khâm phục kể cả những nhà có tài hiểu biết nhất trong triều.