Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
T ko quen thì sao care m được. Hay về với t rồi dần dần tìm hỉu đuy ~ T sẽ care và thw iu m ~ Về làm mều bảo bối của t đuy ~ ^3^~
1. Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn này ở vào một cảnh ngộ éo le, ní nghèo trong những ngày cuối đời mình. Là một người từng đi khắp mọi nơi trên Trái Đất có thể nói là không thiếu một xó xỉnh nào, thế về cuối đời, Nhĩ lại bị buộc chặt vào giường bệnh bời một căn bệnh ác khiến anh gần như bị liệt toàn thân và sự sống của anh đã gần cạn kiệt. Anh không thể nào tự mình dịch chuyên được dù chỉ là nửa người trên giường bệnh. Cũng chính lúc này đây, Nhĩ mới phát ra cái bãi bồi màu mỡ ngay bên kia sông, nơi bên quê thân thuộc đó, vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ.
Xây dựng tình huống ấy, Nguyễn Minh Châu nhằm phát hiện những luật của đời sống và chiêm nghiệm triết lí về cuộc đời con người. Theo cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bât thường, nhe nghịch lí, ngẫu nhiên... tất cả vượt ra ngoài những dự định, và ước mơ cả những hiểu biết và toan tính của con người.
Qua những suy ngẫm của nhân vật Nhĩ, tác giả còn muốn mang đên người đọc một nội dung triết lí nữa, mang tính tổng kêt những nghiệm của cả đời người: “con người ta trên đường đời thật khó có được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình" và sự giàu có lẩn mới đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông hay người vợ tảo tần, tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này khi sáp giã biệt cuộc Nhĩ mới cảm nhận, thấm thìa được.
2. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ở cảnh ngộ bị buộc chặt vào giường bệnh, giữa một buổi sáng đầu thu, Nhĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên được nhìn từ khung cửa sổ căn phòng của mình, là một vẻ đẹp mà trước đây, dù có điều kiện đi khắp thế giới, anh không thể nhận thấy được.
Trước mắt anh là một không gian có chiều sâu, rộng từ những làng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt đã vào thu, vòm trời và bãi bồi bên kia sông.
Vẻ đẹp đó chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế những bông hoa bằng lăng cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn, con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt trời lẽn những khoảng bờ bãi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhỉ một thứ màu vàng dan xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá, như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Những cảnh sắc đó vốn quen thuộc gần gũi, nhưng giờ đây lại như rất mới mẻ với Nhĩ, như thể lần đẩu tiên anh mới được gặp.
Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Đó là một khao khát vô vọng vì lúc này đây anh sắp phải giã biệt cuộc đời. Điều ước muôn ấy của anh cũng chính là sự tỉnh thức về những giá trị vững bền bình thường và sâu xa của cuộc sống. Những giá trị đó lức còn trẻ, thường bị người ta bỏ qua hay quên làng khi những ham muốn xa vời đang lôi kéo mình.
Ở đây với Nhĩ, sự tỉnh thức này còn xen lẫn cả với niềm ân hận và nỗi xót xa: “Họa chăng chỉ có anh đã từng trải đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ dẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bèn kia”.
3. Có thể nói ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu ở thiên truyện này rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo. Trước hêt, điều này thể hiện ở việc lựa chọn và xử lí tình huông truyện. Tác giả đặt Nhĩ, nhân vật của mình vào một hoàn cảnh đậc biệt ngoặt nghèo, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Trong văn học xưa nay, đã có không ít tác phẩm khai thác tình huống như thế. Nhưng thường thì các nhà văn khác dùng tình huống này để nói về khát vọng sống, ngợi ca sức sống mãnh liệt của con người hay biểu dương lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng (ví dụ như truyện Tinh yêu cuộc sống của Giắc Lân-đơn, Chiếc lá cuôi cùng của 0 Hen-ri). Còn ở truyện này, Nguyễn Minh Châu không khai thác tình huống truyện theo hướng đó mà nhằm qua đây chiêm nghiệm một triêt lí về đời người.
Nhân vật Nhĩ trong truyện này, tuy là một nhân vật tư tưởng, nhưng dưới ngòi bút của nhà văn, anh đã hiện lên thật cụ thể, chân thực và sinh động. Nhĩ không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác giả. Trái lại, đời sống nội tâm của anh, diễn biến tâm trạng của anh dưới sự tác động của hoàn cảnh ngặt nghèo đã nối được nhà văn miêu tả thật tinh tẽ và hợp lí.
ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chi của nhân vật Nhĩ với vẻ rất khác thường, cũng có thể nói là ki quặc: " Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát y như dang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.
Hành động này cùa Nhĩ có thể được hiểu là anh đang rất nôn nóng thúc giục cậu con trai của mình hãy nhanh chóng lên kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
Nhưng cũng có thể hiểu một cách khái quát hơn. Đây là ý muôn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình để nhắn tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
5. Trong truyện ngắn này, nhiều hình ảnh, chi tiết mang tính biểu tượng nghĩa là mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng
- Hình ảnh bãi bồi bên kia sông ngoài ý nghĩa thực như chung ta đã biết còn là vẻ đẹp của đời sống trong những cái thực bình dị, gần gũi, thân thuộc như một bãi bồi, một bến quê nói rộng ra là quê hương xứ sở.
- Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng là hai chi tiết gợi ra cho biết sự sống của Nhĩ đã ở vàọ những ngày sau cuối.
- Đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên là đường gợi ra điều mà Nhĩ gọi là sự vòng vèo, chùng chình trong đời sống con người.
- Hành động và cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng như đã phân tích ở câu trên.
6. Truyện ngắn này chứa đựng những suy nghĩ, trải nghiệm của nhà văn về con người và cuộc đời. Đoạn văn thể hiện tập trung chủ đề của truyện là đoạn vàn diễn tả những suy nghĩ của Nhĩ khi thấy đứa con ham chơi quên cả việc bố nhờ: "Không khéo rồi thằng con trai lại trễ mất chuyển đò trong ngày, Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh đửợc những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có cái gì đáng hấp dần ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chăn trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đầu đời, lời lẽ không bao giờ giải thích kết”.
Xem thêm tại: http://loigiaihay.com/soan-bai-ben-que-trang-100-sgk-van-9-c36a23803.html#ixzz5ArKAloMP
- Khi giao tiếp cần nói đúng vào đề tài giao tiếp , tránh lạc đề
- Khi giao tiếp cần chú ý nói ngắn gọn, rành mạch, tránh nói mơ hồ dài dòng .
- Khi giao tiếp cần tế nhị và tôn trọng người khác, tránh các nói thiếu lịch sự, coi thường người khác .
#Walker
- Khi giao tiếp cần nói đúng vào đề tài giao tiếp , tránh lạc đề
- Khi giao tiếp cần chú ý nói ngắn gọn, rành mạch, tránh nói mơ hồ dài dòng .
- Khi giao tiếp cần tế nhị và tôn trọng người khác, tránh các nói thiếu lịch sự, coi thường người khác .
Chào bạn, mình xin trả lời câu hỏi như sau:
- Những hiện tượng trong đời sống có ý nghĩa và sức ảnh hưởng đối với xã hội, có thể đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ thì sẽ cần được nghị luận.
VD: +) Hành vi lạng lách đánh võng trên đường của giới trẻ hiện nay
+) Phá hủy tầng ozone và ô nhiễm môi trường
+) Bạo hành trẻ em...
- Những hiện tượng trong đời sống không cần phải nghị luận như:
+) Nhặt bút khi bút rơi
+) Ăn no rồi vẫn muốn ăn tiếp...
I. Mở bài
- Sai lầm là điều thông thường của con người.
- Vấn đề là ở chỗ có biết tự sửa sai lầm ấy hay không.
- “Không có cái hại nào lớn bằng không chịu sửa mình”.
II. Thân bài
1. Tại sao? '
- Xã hội nào cũng mong ước sự giàu mạnh, hạnh phúc. Mong ước ấy có được là nhờ sự góp công của mỗi cá nhân.
- Người nào cũng biết tự sửa mình để có kiến thức khoa học, giữ bản chất truyền thống, những đức tính tốt của dân tộc.
- Liên hệ đến nhiều gương sáng trong xã hội xưa và nay để chứng minh lợi ích của việc tự sửa mình như thầy Mạnh Tử…
2. Cái hại lớn.
- Không chịu sửa mình tức là chấp nhận sự xâm nhập của những thói hư tật xấu để rồi nó trỏ thành ông chủ khó tính sai khiến mình.
- Học sinh lười biếng, không học bài, làm bài mà vẫn không chịu sửa mình. Nếu được thi đỗ, người ấy sẽ gây tác hại gì cho xã hội? ?
- Xã hội không thiếu những tác hại to lớn do việc không chịu sửa mình của những vị vua chăm dân trị nước như vua Lê Long Đĩnh, triều Nguyền đã dẫn đến tình trạng mất nước.
3. Tự sửa mình như thế nào
- Quan sát những người xung quanh để rút kinh nghiệm
- Tìm đọc những tấm gương đạo đức.
- Nghe lời phê bình, đóng góp ý kiến của những người xung quanh.
- Chấp hành tốt kỉ luật, pháp luật.
- Tránh xa những người xấu, việc xấu không chịu sửa mình.
III. Kết bài
- Tự sửa mình là hành động thiết thực để giúp mỗi con người hoàn thiện mình về mọi mặt.
- “Không có cái hại nào lớn bàng không chịu sửa mình”.
Là con người, không ai trên thế gian này là hoàn hảo, toàn điện tất cả. Ai cũng có những sai lầm riêng, đó là điều thống thường nhát của con người. Thế nhưng, điều quan trọng khiến một con người nổi bật lên giữa những điều thông thường ấy chính là sự tự giác phát hiện ra những sai lầm ấy và tự biết sửa mình. Có như vậy thì họ mới có thể đi đến con đường thành công một cách vinh quang nhất, chính đáng nhất. Nói về điều này, người xưa có câu;
“Không có cái hại nào lớn bằng không chịu sửa mình”. Chỉ với một câu nói ngắn ngủi thôi nhưng người xưa đã để lại cho bài học kỉnh nghiệm, một bài học đạo đức thật sâu sắc và ý nghĩa trên con đường vươn tới thành công của mỗi người.
Điều có hại trong cuộc sống xung quanh ta thì muôn vàn, từ những điểu nhỏ nhặt như: nói dối, nối xấu, lười biếng, lề mề,… dần dẩn trở thành thói quen xấu ngấm dần vào nhân cách mỗi người, làm cho tâm hồn ta trở nên vẩn đục, tầm thường thậm chí trở nên hèn hạ, xâu xa. Nguyên do chính dẫn đến tình trạng ấy là bởi họ không biết tự sửa mình. Ngay từ thuở nhỏ hay từ lúc hình thành sai lầm ấy, ta phải có lí trí sáng suốt nhận ra sai lầm, hiểu được tác hại của nó và quan trọng phải biết sửa sai lầm do mình gây ra. Sự cố chấp, bảo thủ là con đường ngắn nhất đưa người ta đến ngõ cụt.
Không chịu sửa mình tức là nhượng bộ, chấp nhận những thói hư tật xấu và dần dần, từ một người khách qua đường, nó trở thành “ông chù khó tính'’ sai khiến, điều khiển hành động của con người, dẫn con người đến những hành động lầm lạc, thậm chí là đi vào vòng xoáy của tội lỗi. Thói hư tật xấu xâm nhập vào con người từ buổi ban sơ, từ những thói nhỏ, được tái phạm nhiều lần như: nói dối, nói xấu… thi khi ta càng lớn, thói xấu đó cũng sẽ càng lên theo mức độ, trở thành thói quen xấu không dễ gì từ bỏ của con người. Như một em bé lúc nhỏ đâu ý thức được tác hại của nói dối, nói xấu. Chi vì những lí do đơn giản như: làm bài điểm kém, đánh bạn, làm mất sách vd mà phải về nhà nói dối bố mẹ. Nếu như các bậc cha mạ không kịp thời phát hiệu và sửa chữa thì các em sẽ tạo cho nùnh cảm giác an toàn, không bị la mắng khi nói dối. Lâu dần, các em sẽ tiếp tục nói dối để giấu bố mẹ nhiều chuyện và nó sẽ trở thành thói quen xấu cho các em. Vì vậy vai trò của bố mẹ trong việc phát hiện và sửa chữa những tật xấu từ khi mới hình thành là rất quan trọng. Đó là thuở nhỏ, còn khi lớn lên, mỗi lứa tuổi, mỗi thời kì đều có những sai lầm riêng, không ai tránh khỏi. Trong nhà trường, nhiều bạn học sinh luôn tỏ thái độ lười biếng trong học tập như: không chịu làm bài tập về nhà, không chịu học bài rồi đến giờ kiểm tra lại quay cóp bài bạn. May mắn lại thi đỗ nhờ bạn cho xem bài thì những con người ấy sau này sẽ như thế nào? Sẽ làm công việc gì giúp ích cho đất nước khi mà tấm bằng có được nhờ may mắn. Tất nhiên, những con người như vậy sẽ dần dần bị xă hội đào thảỉ trong quá trình sàng lọc nhân lực của họ. Hậu quả to lớn này là do thuở học sinh không biết tự sửa mình. Biết là mình lười biếng, điểm kiểm tra là của bạn mà vẫn cố chấp giữ mãi một tật xấu, không chịu tự sửa mình, không chịu cố gắng học tập để cuối cùng trở thành gánh nặng cho gia đình và xả hội. Không riêng gì chúng ta ngày nay, ngày trước, cũng có không ít những vị vua mất nước, mất nhà chỉ vì không chịu sửa mình. Lê Long Đĩnh từ khi lên ngôi, suốt ngày ăn chơi sa đoạ, không quan tâm đến cuộc sông của dân tình, bao nhiêu của cải của dân đều bị bọn vua quan vơ vét để phục vụ cho “sự nghiệp ăn chơi” của mình, làm cho bá tánh trăm họ phải rơi vào canh lầm than. Thời ấy gian thần không ít nhưng cũng đâu phải không có những vị quan thanh liêm, những người đã nhiều lần khuyên can vua. Nhưng Lê Long Đĩnh với sự cố chấp, bảo thủ, không chịu sửa chữa nhừng lầm lạc trong lối sống và trị dân, hậu quả là bị nhà Lí cướp ngôi. Rồi đến nhà Nguyễn thi hành chính sách bế quan toả cảng, làm cho dân ta bị cô lập với các nước phương Tây tiến bộ, quân sự lạc hậu, kinh tế kém phát triển. Các vị quan như Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản sau khi đi sứ, biết được tình hình phát triển cùa các nước phương Tây liền dâng lên các bản điều trần xin cải cách, duy tân đất nước nhưng triều Nguyễn vẫn không chịu sửa đổi. Kết cục là nước ta rơi vào tay bọn thực dân Pháp.
Như vậy tác hại, hậu quả của việc không chịu tự sửa mình là không thể lường trước. Từ một sai lầm nhỏ cố thể dẫn đến những sai lầm tiếp theo lớn hơn, trầm trọng hơn, đôi khi nhấn chìm người ta trong hố sâu của tội lỗi. Một người không biết tự sửa mình cũng đồng nghĩa với sự tha hoá dần dần trong nhân cách và cuối cùng là sự đánh mất chính mình. Sai lầm là do ta tự tạo ra và chính ta phải tự sửa sai lầm đó thì mới giúp ta tự tin hơn trên con đường xây dựng tương lai cho riêng mình. Có như thế mới làm cho xã hội tốt đẹp hơn, giàu mạnh hơn, thanh bình hơn. Đó là nhờ sự góp công của mỗi cá nhân. Hơn nữa, mỗi con người không chỉ sửa mình để xã hội phát triển mà còn giúp ta hình thành nhân cách đẹp, lối sống đẹp và từ đó trở thành con người đẹp. Mỗi con người tự sửa mình để cùng học tập, cũng trưởng thành hơn trong nhận thức và suy nghĩ; tự sửa mình để sống cần kiệm nhưng không keo kiệt; tự sửa mình để có cuộc sống văn minh hơn, tốt dẹp hơn.
“Không có cái hại nào lớn bằng không chịu sửa mình”. Tự sửa mình mang lại nhiều điều tốt đẹp cho con người nhưng phải sửa mình như thế nào cho đúng cách để trở thành người tốt? Điều này cũng không quá khó khăn đối với những người có lí trí sáng suốt, nhận ra cái đúng, cái sai, cái nào có ích, có hại một cách kịp thời. Nhưng thực tế thì không dễ dàng như vậy, người ta thường thấy rất rõ những khuyết điểm, sai lầm của người khác nhưng có mấy ai tự nhận thức được toàn bộ những khuyết điểm của mình, những sai lầm của mình. Chính vì vậy, tự sửa mình không đơn giản chỉ dựa vào lí trí cỏa bản thân mà còn cần đến sự giúp đỡ của những người xung quanh để nhìn nhận một cách đúng đắn những phần lệch lạc của bản thân. Để tự sửa mình, trước hết mỗi người phải tự lắng nghe ý kiến đóng góp của người khác đồng thời cũng phải biết chọn lọc, nhìn nhận mức độ đúng đắn của những ý kiến ấy để tự hoàn thiện mình theo cách tốt nhất có thể. Tự sửa mình cũng cần đến sự quan sát tỉ mỉ, để ý đến từng hành động, cử chĩ của những người xung quanh. Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ chuyện ăn, ngủ, học hành đến việc giao lưu tiếp xúc bên ngoài xã hội, ta cần phải biết suy nghĩ thận trọng từng lời nói, hành động trước khi thực hiện, phải biết rút kinh nghiệm từ những sai lầm trước đó của bản thân cũng như của người khác. Tìm đọc những tẩm gương đạo đức đã từng sai lầm, đã sửa chữa và đã thành công cùng là một phương pháp tốt để tự sửa mình. Chẳng hạn như thầy Mạnh Từ tự bò học để về nhà, mẹ Mạnh Tử đang ngồi dệt vải bèn cắt ra làm đôi. Mạnh Tử hỏi: “Tại sao mẹ lại làm thế?”, mẹ Mạnh Tử trả lời: “Khúc vải này bị cắt làm đôi đã trở thành vô dụng. Con đi học bỏ nửa chừng chạy về nhà chơi thì có khác nào khúc vải này đâu!". Thầy Mạnh Tử hiểu, học siêng năng và đã trở thành tấm gương học tập cho các thế hệ sau. Những tấm gương đạo đức sáng ngời nhân cách như vậy đáng để ta noi theo và phát huy tốt truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Tự sửa mình còn là biết chấp hành tốt kỉ luật, kỉ cương của Nhà nước, từ bỏ những thói xấu, trái pháp luật như; trộm cắp, ma tuý, mại dâm,… để định hướng cho mình phát triển theo đửờng lối đúng đắn cửa Đảng và Nhà nước. Đi đôi với việc tự sửa mình đó, bản thân mỗi người cần tránh xa những thói hư tật xấu hay những con người xấu, không để nó ảnh hưởng, xâm nhập vào mình như ông bà ta đã từng dạy “Gần mực thì đen, gẩn đèn thì sáng”.
Tự sửa mình là hành động thiết thực nhất để giúp mỗi con người hoàn thiện hơn về nhiều mặt. Bởi ai cũng có những sai lầm dù là lớn hay nhỏ, sai lầm là điều thông thường nhất của con người. Nhưng nếu ta không biết tự sửa mình thì nó sẽ trở thành cái hại lớn làm huỷ hoại, đánh mất đi phần tốt đẹp nhất của con người. Thật đúng với câu nói: "Không có cái hại nào lớn bằng không chịu sửa mình”.
Dàn ý :
I. Mở bài: giới thiệu tình yêu thương con người
Mỗi chúng ta ai cũng đã từng nghe câu tục ngữ “ thương người như thể thương thân”, đó là một nghĩa cử rất cao đẹp của con người. trong cuộc sống chúng ta cần mở lòng để yêu thương và giúp đỡ những người xung quanh khó khan hơn ta. Khi chúng ta yêu thương người khác thì chúng ta sẽ được yêu thương và được quý mên hơn. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tình yêu thương con người.
II. Thân bài:
1. Giải thích thế nào là tình yêu thương người:
- Yêu thương con người là sự quan tâm, giúp đỡ của chúng ta đối với những người xung quanh
- Là làm những điều tốt đẹp cho người khác và nhất là những người gặp khó khăn hoạn nạn.
- Là thể hiện tính cảm yêu thương và quý mến người khác.
2. Biểu hiện của tình yêu thương con người:
a. Trong gia đình:
- Ông bà thương con cháu, cha mẹ thương con, con thương ba mẹ
- Cha mẹ chấp nhận hi sinh, cực nhọc để làm việc vất vả và nuôi dạy con cái nên người
- Con cái biết nghe lời, yêu thương cha mẹ là thể hiện tính yêu thương của mình đối với ba mẹ
- Tình yêu thương còn thể hiện ở sự hòa thuận quý mến lẫn nhau giữa an hem với nhau.
b. Trong xã hội:
- Tình yêu thương thể hiện ở tình yêu đôi lứa:
“ muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chính tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạng sáu ngàn ngày mới xa”
- Tình yêu thương con người là truyển thống đạo lí:
“ bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
3. Phê phán bác bỏ những người không có tình yêu thương con người:
- Phê phán lối sống vô cảm, không có tình thương
- Phê phán những người không biết quan tâm, chia sẻ và đồng cảm với mọi người xung quanh
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về tình yêu thương con người
- Tình yêu thương con người là lẽ sống của mỗi người
- Mỗi người chúng ta phải biết yêu thương lẫn nhau
Trong cuộc sống, cần có tấm lòng nhân hậu của con người với con người. Đó là lối sống có trước có sau, biết làm việc thiện, giàu lòng vị tha. Chính điều ấy sẽ tạo nên một cuộc sống xã hội ,gia đình tràn ngập hạnh phúc, tình thương yêu, nhân ái.Mọi người sống hiền hòa, vui vẻ, bao dung, hiểu nhau.Người có tấm lòng nhân hậu là người sẵn lòng giúp đỡ , sẵn lòng chia sẻ với người khốn khó, tha thứ lỗi lầm của người khác, kể cả những người không thân thuộc.Người có lòng nhân hậu biết chấp nhận con người không hoàn hảo, cái riêng của người khác như chấp nhận chính bản thân mình,biết dùng tình thương yêu, chia sẻ để cảm hóa. Lòng nhân hậu khiến ta nghĩ đến điều thiện, có sự giúp đỡ, làm vơi nhẹ gánh nặng của nhiều người.Lòng nhân hậu như một phẩm chất không thể thiếu của một con người nên chúng ta cần trân trọng nó
Nếu cuộc sống thiếu tấm lòng nhân hậu thì trong xã hội sẽ chỉ còn những mưu toan , tính toán , những hằn học , bon chen và sự vô cảm thiếu tình người .Tuy nhiên lòng nhân hậu cũng cần đặt đúng chỗ. Có như thế mới phân biệt được thiện ác trong cuộc đời.
Bài làm
Qua bài thơ "Đồng chí" của tác giả Chính Hữu, quá trình hình thành tình đồng chí của nhân vật "tôi" được thể hiện ở bảy câu thơ đầu. Hai người lính đều có xuất thân nông dân nghèo nên đều có tính chất phác, thật thà. Tính cách giống nhau là điều kiện giúp họ hiểu được nhau. Họ còn là những người có chung nhiệm vụ và lí tưởng sống đến mức "súng bên súng, đầu sát bên đầu", do đó họ có cơ hội được hợp tác, giúp đỡ nhau. Chính sự giống nhau về tính cách, nhiệm vụ và lí tưởng như thế nên họ mới "Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau." Hơn nữa họ còn biết chia sẻ cho nhau và rồi tình đồng chí đã hình thành lúc nào không hay: "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ." Ở câu thơ thứ bảy, tiếng "Đồng chí!" được thốt lên đầy tình cảm như một lời gắn kết giữa những người lính với nhau. Tiếng ấy là một lời gói gọn tất cả tình đồng chí giữa "tôi" với "anh" một cách trọn vẹn nhất.
- Bạn tham khảo nhé -
Đây là phân tích 7 câu đầu.
Bài thơ nào vậy?