Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đối với thanh niên nước nhà Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của thanh niên tròn chiến đấu cũng như trong hòa bình. Trong một lần đến thăm một tiểu đội thanh niên xung phong bác đã tặng cho thanh niên một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ long không bền
Đào núi va lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Qua đoạn thơ Bác muốn nhắn nhủ với thanh niên rằng việc gì khó mấy cũng làm được chỉ cần quyết chí bền lòng
Câu thơ đầu tiên bác đã khẳng định trên đời này không có việc gì là khó cả. Câu thơ tứ hai hô ứng nhấn mạnh mọi khó khăn trên đới sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng chỉ cần chúng ta có quyết tâm. Không có việc gì khó chỉ sợ chúng ta không có ý chí lòng kiên trì,sự nhẫn nại công việc dù có gian nan đến đâu thì chỉ cần ta quyết chí thì ắt sẽ thành công. Lời thơ của Bác vô cùng giản dị dễ hiểu giống như cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta. Chủ đề xuyên suốt tòn bài thơ đó chính là nếu có ý chí quyết tâm thì dù có khó khăn gì cũng có thể vượt qua được. Hình ảnh đào núi và lấp biển là một hình ảnh mang tính ước lệ khái quát tượng trưng cho những công việc phi thường tưởng chừng khó thực hiện được. Bài thơ của Bác đã phản ánh một chân lí giàu tinh thần nhân văn: nếu có ý chí, sự nỗ lực con người nhất định sẽ đạt được ước mơ. Chân lí ấy giản dị biết bao và cũng có biết bao con người trên thế gian này đã mang hết sức lực của mình để chứng minh cho điều đó.
Lịch sử nhân loại ta đã có rất nhiều câu chuyện tấm gương nêu cao tinh thần ý chí quyết tâm vươn lên khó khăn không ngại gian khổ của rất nhiều thế hệ lịch sử và nó ngày càng được tôi luyện dần theo thời gian. Đó là câu chuyện của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành từ khi mới hai mươi tuổi đã ti ra nước ngoài để tìm đường cứu nước. Chàng thanh nước đó đã phải chịu tất nhiều những khó khăn gian khổ và nhiều lúc tưởng chừng như có thể cận kề với cái chết. Đó còn là quảng thời gian có thể coi là khổ cực nhất của Bác là khi bị quân Tưởng Giới Thạch bắt giam trong nhà tù Trung Quốc.
Vậy làm người thanh niên ấy không báo giờ bỏ cuộc không bao giờ lùi bước mà luôn vươn lên không ngại gian khó tù đầy. Đó là một biểu tượng cao cả nhất mà thanh niên chúng ta cần phải học tập noi theo. Đó càn là câu chuyện của anh chàng Nguyễn Ngọc Kí bị cụt hai tay tưởng chừng như là người vô dụng tàn tật không thể làm được gì. Và hiển nhiên việc viết đối với anh là một điêu không thể. Vậy mà mặc kệ tất cả những lời trêu chọc của bạn bè bỏ qua những cơn chuột rút đau đến quặn lòng ,Nguyễn Ngọc Kí vẫn đi học vẫn viết bằng chân,đó là một sự phi thường mà có lẽ khó ai có được ý chí như chàng trai ấy. Cuối cùng chàng thanh niên ấy đã thành công đã được công nhận đã là người có ích cho đất nước. Có lẽ ta cũng chưa quên được chàng trai Níc Vujjicic không chân không tay . Đối với chúng ta như thế có thể được coi là tàn phế không thể làm được gì . Vậy mà anh ấy đã chứng minh cho cả thế giới rằng anh ấy cũng có thể làm được mọi thứ như người bình thường và có thể làm được tốt hơn rất nhiều lần. Anh đã trở thành một hiện tượng của thế giới khi bằng chính sức mạnh của mình anh đã trở thành một người thành đạt,anh có công ty riêng anh đã có sự nghiệp của riêng mình. Không những thế anh còn đi khắp thế giới để nói cho mọi người biết anh đã thành công như thế nào anh đã đứng lên ra sao.
Và còn rất nhiều những tấm gương khác trên thế giới đã trở thành tấm gương để chúng ta học tập và noi theo. Họ bằng chính sức lực của mình đã vượt qua tất cả mọi khó khăn của cuộc sống để rồi được xã hội tôn vinh công nhận. Những trường hợp kể trên chỉ là một số trong vô vàn những tấm gương đầy nghị lực trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết được. Còn nhiều hơn nữa những con người thành công, vượt qua mọi khó khăn gian khổ bằng khả năng của bản thân. Những nghị lực phi thường đó sẽ được đời sau tôn vinh. Còn với thế hệ chúng em, những tấm gương đó đã và đang động viên chúng em vượt qua khó khăn đồng thời tận dụng những thuận lợi của hoàn cảnh để cố gắng nỗ lực đạt được những thành tích tốt nhất trong học tập, sáng tạo.
Bên cạnh những thanh niên có ý thức có tinh thần vươn lên thì ta cũng cần phải nhìn nhận lại một bộ phận thanh niên đang xuống dốc, với nhiều nguyên nhân, lực lượng thanh niên cũng đã bộc lộ những hạn chế làm cho những thế hệ cha anh phải quan tâm lo lắng, đó là tình trạng “Một bộ phận thanh niên sống thiêu lí tưởng giảm sút niềm tin ít quan tâm đến tình hình đất nước thiếu ý thức chấp hành pháp luật sống thực dụng xa rời truyền thống văn hóa dân tộc”.
Tuy nhiên ta cũng phải hiểu lời khuyên của Bác một cách đúng đắn và thiết thực. Quyết tâm ý chí của ta phải đi đôi với hành động chứ không được quết tâm suông mà có thể làm nên những sự nghiệp lớn. Và những ước mơ khát vọng của chúng ta cũng phải phù hợp với điều kiện thực tế hoàn cảnh chủ quan khách quan và những tiền đề vật chất nhất định nếu không chúng ta sẽ trở thành những người phiêu lưu mạo hiểm những kẻ mơ mộng hão huyền và hiển nhiên thành công sẽ không bao giờ có được điều mong muốn.
Hiểu được sâu sắc như thế ta càng thấm nhuần lời dạy của Bác. Từ đó người thanh niên phải tự vươn lên, phấn đấu, rèn luyện để thật sự là những người chủ của đất nước, là đội quân chủ lực của cách mạng nước nhà. Là một học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường em nguyện sẽ cố gắng học thật giỏi để xứng đáng với bài thơ bác dặn.
Trong cuộc sống của chúng ta có rất nhiều câu nói hay và ý nghĩa nhằm răn đe và dạy dỗ con người. Nổi bật nhất trong những câu nói đó là câu của Bác Hồ khuyên răn thế hệ thanh niên Việt Nam: không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên.Đây là bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh khi Bác đến thăm một tiểu đội xung kích và đã tặng cho tiểu đội ấy
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Đến với câu thơ đầu tiên thì chúng ta đã thấy được rằng trên đời này không có việc gì là khó cả, chỉ có lòng sắt đá và quyết tâm thì không gì là không thể làm được. còn ở câu thứ hai muốn nói rằng mọi khó khăn trên cuộc sống này cho dù có đến đâu thì chỉ cần chúng ta có sự quyết tâm thì sẽ làm nên. Lời thơ mà Bác làm nên thật giản dị và hồn hậu biết bao nhiêu. Chủ đề xuyên suốt toàn bài thơ là ý chí quyết tâm cho dù có khó khăn thì cũng sẽ vượt được qua. Còn hình ảnh đào núi và lấp biển là một ình ảnh ước lệ khái quát tượng trưng cho những công việc phi thường tưởng chừng như không thực hiện được. Bài thơ của Bác đã làm toát lên được một tinh thần triết lí giàu nhân văn cao cả : nếu như có ý chí, có nghị lực và giàu sự nỗ lực thì con người nhất định sẽ đạt được ước mơ của mình. Chân lí ấy thật giản dị và chân thành biết bao.
Lịch sử của đất nước đã có biết bao nhiêu tấm gương để nêu cao tinh thần chiến đấu vượt qua mọi chông gai thử thách . Đó còn là câu chuyện của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước từ khi còn trẻ,chàng thanh niên đó đã phải chịu nhiều khó khăn gian khổ nhiều lúc tưởng chừng như cận kề với cái chết. Đó là quãng thời gian cực khổ nhất khi bị quân Tưởng bắt giam vào ngục tù nhưng cuối cùng đã vượt qua mọi gian khổ đi đến thắng lợi cuối cùng .
Vậy qua đó chúng ta phải hiểu được rằng là thanh niên không bao giờ bỏ cuộc, lùi bước mà hãy luôn vươn lên phía trước không ngại gian khó. Đó là một biểu tượng cao cả chúng ta cần phải học tập và noi theo . Đó còn là câu chuyện của chàng trai Nguyễn Ngọc Kí bị cụt cả hai tay, tưởng chừng như không làm được gì nhưng đối với anh, anh không từ bỏ và phó mặc ở đây. Vậy mà anh mặc kệ qua tất cả những lời chọc tức mình , bỏ qua những cơn chuột rút đau đến thắt quặn nhưng anh không hề nản lòng. Vẫn tập viết bằng chân và cuối cùng chàng trai ấy đã thành công trên con đường mà mình đã lựa chọn. Và tất nhiên còn rất nhiều những tấm gương đâu đây để chúng ta đáng phải học tập và noi theo .Những con người đó bằng chính thực lưc của mình đã vượt qua tất cả những khó khăn gian khổ để đi tới vinh quang, được xã hội công nhận.
Đối với chúng em thì chính những tấm gương và lời dạy đã động viên chúng em vượt qua những khó khăn gian khổ của cuộc sống để đạt được những thành tích tốt nhất có thể trong học tập và trong công việc.
Bên cạnh những thanh niên có ý thức và nghị lực vươn lên thì chúng ta cũng cần nhìn lại một số bộ phận thanh niên đang xuống dốc trầm trọng đã làm cho thể hệ cha ông phải quan tâm và lo lắng, đó là những thanh niên sống bất cần và không có lí tưởng, chưa làm đã nản chí, không chấp hành mọi nội quy của nhà trường và pháp luật đề ra.
Quay lại lời của Bác thì sự quyết chí ở đây phải đi đôi với thực hành chứ không phải là một lời nói suông. Hiểu được sâu sắc và thấm nhuần lời dạy của Bác, từ đó chúng ta phải biết tự vươn lên phía trước, phấn đấu và rèn luyện để xây dựng tươi đẹp nước nhà.
- Khổ thơ cuối mùa thu đã hiện ra rõ nét hơn và nhà thơ đã cảm nhận bằng cả chiều sâu kinh nghiệm, bằng những suy tư sâu lắng chứ không chỉ là những giác quan như khổ 1. |
- Vẫn là nắng, mưa, sấm chợp như mùa hạ nhưng khi kết hợp với các phó từ đã, vẫn, cũng thì mức độ đã khác, nó lắng dần, chừng mực và ổn định hơn. + Nắng cuối hạ vẫn còn nồng nhưng đã bớt oi ả, gay gắt + Đã vơi ần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ + Những tiếng sấm cuối hạ cũng thưa và nhỏ dần => Hạ nhạt dần, thu đậm nét hơn - 2 câu thơ cuối vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ sâu xa. Đúng như lời Hữu Thỉnh tự bạch: “Có thể hiểu hàng cây đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá, sẽ vững vàng hơn trước những tiếng sấm bất ngờ. Đồng thời, phép nhân hóa và hình ảnh ẩn dụ ... thấy, sấm là những vang động bất thường gợi đến những khó khăn của cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi chỉ như người từng trải, họ sẽ vững vàng hơn trước những tác động, những sóng gió của cuộc đời. Đến đây, ta nhận ra không chỉ có thiên nhiên sang thu mà còn có cả sự sang thu của đời người. Nhìn lại cả bài thơ, ta càng thấm thía vì sao lại có sự chùng chình, bịn rịn lúc sang thu, vì sao lại vừa dềnh dàng mà lại vừa vội vã. Con người lúc sang mùa thu của đời mình không còn bồng bột, xốc nổi như lúc còn thanh xuân mà sâu sắc, chín chắn, điềm đạm hơn. Sang thu, ta lại càng lưu luyến, bịn rịn khi chợt nhận ra mái tóc đã pha sương và ta càng khẩn trương, vội vã để sống có ích cho đời. * Tổng kết Như vậy sang đến kết thúc bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh, cả thiên nhiên và ông đều hòa một nhịp với thu sang. Đồng thời khổ thơ cũng thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ Hữu Thỉnh. |
Hai khổ thơ đầu bộc lộ tâm trạng nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre bên lăng Bác và hình ảnh dòng người nối dài bất tận ngày ngày vào viếng Bác (Trích dẫn thơ).
- Bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót xa, nuối tiếc. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng điệu thành kính, trang nghiêm, phù hợp với không khí thanh tĩnh, thiêng liêng nơi Bác Hồ đời đời yên nghỉ. Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu cùa tác giả, như một lời kể mộc mạc, chân tình:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre hát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
- Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật gần gũi thân thương. Đó là tình cảm thắm thiết đượm niềm háo hức của người con từ miền Nam đã đi theo Bác suốt cả cuộc đời giờ mới được thăm Bác. Bởi tất cả mọi người đều là con trung hiếu của Bác, xem Bác như là cha. Cách xưng hô con - Bác mang sắc thái mộc mạc, thân thương khiến ta có cảm giác đây là tình cảm cùa những con người trong cùng một gia đình. Hai tiếng miền Nam vừa gợi địa danh của một nơi xa xôi, vừa khơi gợi một nỗi niềm. Nỗi niềm ba mươi năm chia cắt mà sinh thời Bác luôn mong nhớ miền Nam luôn trong trái tim tôi:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng tiếng súng xa.
(Trích Bác ơi !, Tố Hữu)
- Hòa trong niềm vui chung đó, người con Nam Bộ xa xôi mới có dịp vê thăm nhà, thăm người cha mà ông hằng yêu mến. Nhan đề bài thơ là Viếng lăng Bác, nhưng vì sao câu thơ mở đầu, tác giả lại sử dụng từ thăm ? Bởi lẽ, viếng là đi đến thắp nhang cho người đã khuất để tỏ lòng thành kính phân ưu. Còn thăm là gặp người thân để trò chuyện, hỏi han sức khỏe hoặc công việc làm ăn. Phải chăng với chãng với cách sử dụng từ thăm ấy, nhà thơ muốn tin rằng, Bác chưa hề mất mà vẫn như đang ở đâu đây xung quanh chúng ta.
- Ngay từ xa, hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc với nhà thơ là hàng tre thân thuộc như thấp thoáng ẩn hiện trong làn sưong sớm. Hàng tre như trải rộng mênh mông qua từ láy bát ngát. Hàng tre xanh xanh, hàng tre bát ngát, hàng tre quen thuộc của làng quê thôn xóm Việt Nam. Quanh lăng Bác có nhiều loại cây quý của mọi miền đất nước. Song, không phải tình cờ mở đầu bài thơ, tác giả lại chọn hình ảnh hàng tre. Từ bao đòi nay, tre luông song hành cùng người dân Việt Nam trong lao động và chiến đấu. Tre dùng để làm nhà cửa, tạo ra những vật dụng sinh hoạt hàng ngày. Trong chiến tranh, tre là thứ vũ khí hữu hiệu để ngăn bước quân thù. Trong phong ba bão táp, tre luôn che chở cho sự yên bình của người dân. Tre dẻo dai, cứng cáp, kiên cường cũng như tính cách của nhân dân ta không bao giờ chịu khuất phục trước những bạo tàn. Cùng chung cảm nhận đó, nhà thơ Nguyễn Duy viết rất hay về tre:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chảng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người.
(Trích Tre Việt Nam, Nguyễn Duy)
Hay nhà văn Thép Mới thuyết minh về tre trong một tùy bút: Gậy tre, chông tre kiên cường chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại hác, tre còn làm hầm ngụy trang và giữ bí mật... Tre bao bọc, che chờ cho nguời con Việt trong những đêm dài hành quân ra trận. Rừng là nhà, nhà ngụv trang bằng tre nứa, đất làm giường, nứa tre làm gối, tre đã cùng người lập nên những chiến công vang dội, hiên hách.
- Cây tre trong bài thơ của Viễn Phương là hình ảnh vừa tả thực, vừa ẩn dụ tài tình của nhà thơ. Và càng độc đáo hơn với từ đímg, tre đã được nhân hóa như con người. Tre là biểu tượng khí phách con người của dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn cần cù, bình dị mà dũng cảm kiên cường. Để giờ đây, đất nước thanh bình tre vẫn ở đây, vây quanh Bác như hàng triệu con người vẫn mãi mãi bên Bác. Cảm xúc dâng trào theo bước chân Viếng Lăng Bác, nhà thơ viết tiếp:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lãng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bày mươi chín mùa xuân.
- Mặt trời đi qua trên lăng là mặt trời tự nhiên, mang ánh sáng, mang sức sống đến cho muôn loài, là nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ nhất. Vậy mà trong chu kỉ chuyến động của mình, mặt trời ấy còn nhìn thấy một mặt trời khác đỏ rực hơn, vĩ đại hơn chính mình. Nghệ thuật nhân hóa mặt trời đi, thấy chứa chan niềm tôn kính ngưỡng mộ Bác, còn mặt trời trong lăng chính là Bác Hồ. Thử hỏi trên đời này còn có gì vĩ đại hơn, chói sáng hơn, rực rỡ hon mặt trời ? Ví ngầm Bác với vầng thái dương, tác giả muốn ca ngợi công đức vĩ đại của Bác. Nếu mặt trời của vũ trụ đem lại sức sống cho muôn loài thì Bác cũng mang ánh sáng độc lập tự do, mang ấm no hạnh phúc cho mọi người, xua tan đêm trường tăm tối, nô lệ áp bức cho dân tộc ta. Nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi sự vĩ đại ở Bác:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
- Thật vậy, cả đời Bác chỉ có một ước mơ ai cũng có cơm ăn áo mặc và trẻ em được học hành, chỉ có nhũng người có tấm lòng nhân ái cao cả mới có những suy nghĩ ấy. Công ơn đó làm sao ta có thể quên được. Hơn nữa, nghệ thuật ẩn dụ độc đáo đầy sáng tạo đó còn ngụ ý Bác vĩ đại hon cả mặt trời. Mặt trời của vũ trụ chói đỏ rực đến thế mà vẫn phải nghiêng mình chiêm ngưỡng Bác. Để ghi nhớ công lao to lớn ấy, ngày nào cũng có cả dòng người bất tận vào viếng Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bày mươi chín mùa xuân.
- Điệp ngữ ngày ngày vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn, vừa gợi tấm lòng nhân dân khôn nguôi nhớ Bác. Dòng người đi trong thương nhớ là một cách nói đặc biệt gợi lên không gian nghệ thuật: không gian tràn ngập nỗi nhớ thương. Mỗi người với nỗi nhớ thương là một đóa hoa kết nên tràng hoa dâng lên Người, dòng người ví như tràng hoa là một hỉnh ảnh ẩn dụ độc đáo: tràng hoa là hoa kết thành chuỗi dài hoặc thành vòng tròn. Dòng người vào viếng Bác đi từ cửa lăng vào trong lăng rồi trở ra thành một vòng tròn dễ gợi liên tưởng đến tràng hoa. Đó là tràng hoa người, hoa của lòng nhó' thương hơn hẳn mọi tràng hoa của tự nhiên. Là tràng hoa chứ không phải vòng hoa, bởi vòng hoa là đế viếng người đã khuất, còn tràng hoa gan với những vinh quang, thành quả tốt đẹp được kết thành từ lòng thành kính, ngưỡng mộ.
- Nhìn dòng người xếp hàng vào viếng Bác, nhà thơ có cảm tưởng mỗi người là những đóa hoa. Và tất cả đã kết thành một tràng hoa vô tận kính dâng lên Bác những bông hoa đẹp nhất của lòng tiếc thương vô hạn, của những tấm lòng thành kính, nhớ thương của triệu triệu con người hướng về vị cha già dân tộc. Nghệ thuật ẩn dụ quả là đặc sắc ! Và càng đặc sắc hơn ở phép hoán dụ háy mươi chín mùa xuân. Cái tinh tế của Viễn Phương là dùng ngay cách nói lạc quan hóm hỉnh của Bác. Bác không dùng từ tuổi mà dùng từ xuân. Trong di chúc Bác viết Nay tôi đã ngoài bày mươi xuân. Phép hoán dụ ấy nhằm khẳng định con người trong lòng mùa xuân đó đã sống cuộc sống tươi đẹp, đầy ý nghĩa như những mùa xuân và đã mang đến biết bao mùa xuân cho đất nước, cho mọi người. Bảy mươi chín mùa xuân Bác đã dành trọn cho dân tộc vì cuộc sống ấm no, vì hạnh phúc của nhân dân. Và cuộc đời của mỗi người đã trở nên tươi đẹp, ấm no nhờ mùa xuân Bác tạo ra.
- Hai khổ thơ mở đầu, nhà thơ Viễn Phương nói đến hoàn cảnh ra thăm lăng Bác. Quanh lăng là hình ảnh hàng tre gần gũi, thân thương. Bác yên nghỉ trong lăng như một giấc ngủ dài thanh thản. Đe tưởng nhớ còng lao vĩ đại của Người, ngày ngày dòng người khắp mọi miền Tổ quốc đến viếng và dâng lên Bác những tràng hoa tươi đẹp nhất.
- Qua hai khổ thơ đầu, Viền Phương đã bộc lộ cảm xúc trào dâng khi lần đầu tiên được viếng thăm lăng Bác. Những hình ảnh trong thơ được xây dựng bằng những rung cảm thiết tha cùa nhà thơ. Từ đó tác giả bộc tình cảm chân thành, bình dị mà tha thiết của mình đối với Bác.
- Tình cảm của nhà thơ dành riêng cho Bác hay cũng chính là tình cảm chung của nhân dân miền Nam dành cho vị lãnh tụ kính yêu. Tỏ lòng thành kính với Bác cũng là động lực giúp mọi người sống và làm việc tốt hơn.
Cho 3 viên bi vô cái bát nhỏ,rùi để cái bát nhỏ vô cái bát to có chứa 2 viên bi (tổng cộng bát to có 5 viên) 3 viên còn lại cho vào cái bát còn
là chiếc tivi
bình nước
ví
1, - VĂn bản đoàn thuyền đánh cá của huy cận
- mcx: cảm hứng từ khi ngắm cảnh đtđc ra khơi trong buổi bình minh đến cảm hứng về sự giàu có của biển cả và những con ng LĐ. mcx khép lại = cảm hứng đtđc trở về trg buổi bình minh rực rỡ vs thành quả LĐ bội thu
2, td
- giúp ng đọc hình dung h/a mtroi xuống biển như 1 quả cầu lửa khổng lồ, khiến btranh thiên nhiên ko lãnh lẽo mà gần gũi ấm áp
- thể hiện t/y thiên nhiên của tgia
3, ko có (có lẽ là vì đây là những câu thơ ns về niền lạc quan niềm tin vào 1 tương lai tươi sáng, 1 tư thế chủ động của ng dân chài lưới)
4, tự viết đoan
- câu bị động : cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh được mta thật chân thực qua khổ thơ cuối và câu thơ đầu của khổ 1 bài “đtđc” của huy cận.
- câu cảm thán :chính chi tiết h/a “mtroi, c/hát” xhien ở khổ 1 lần 1 vầ khổ cuối laanf2 đã thiể hiện dc niềm vui trọn vẹn , niềm tin niềm lạc quan biết bao của ng dân chài lưới. ( từ cảm thán là từ “bt bao”)
TCK NHÉ!! THANK
- Cảm nhận được vẻ đẹp của con người lao động trước thiên nhiên:
- Con người lãng mạn, bay bổng và hài hoà với thiên nhiên kì vĩ: lái gió với buồm trăng, lướt giữa mây cao với biển bằng.
- Con người mang tư thế khoẻ khoắn, kiêu hãnh, mang tầm vóc lớn lao của người chinh phục và làm chủ thiên nhiên: đậu dặm xa dò bụng biển, Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
- Cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên:
- Thiên nhiên kì vĩ, lớn lao, có sự giao hòa giữa trời cao và biển rộng: gió, trăng, mây cao, biển bằng, đêm thở, sao lùa.
- Biển hiện lên lung linh với những sắc màu huyền ảo của đêm trăng: vẻ rực rỡ, lấp lánh của trăng, sao, màu đen, hồng của cá song tạo nên một bức tranh sống động.
- Biển đẹp, giàu với rất nhiều loài cá. Biển là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
- Qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, Huy Cận bày tỏ tình yêu, niềm tự hào với con người, với đất nước Việt Nam và niềm vui trước cuộc đời mới.
Về nghệ thuật
- Phân tích được những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:
- Hình ảnh thơ kì vĩ, sống động, giàu sắc màu.
- Biện pháp nghệ thuật linh hoạt, hiệu quả: nhân hoá, ẩn dụ, liệt kê, phóng đại.
- Bút pháp vừa tả thực, vừa lãng mạn bay bổng.
- Chúc em học tốt
Đối với thanh niên nước nhà Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của thanh niên tròn chiến đấu cũng như trong hòa bình. Trong một lần đến thăm một tiểu đội thanh niên xung phong bác đã tặng cho thanh niên một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ long không bền
Đào núi va lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Qua đoạn thơ Bác muốn nhắn nhủ với thanh niên rằng việc gì khó mấy cũng làm được chỉ cần quyết chí bền lòng
Câu thơ đầu tiên bác đã khẳng định trên đời này không có việc gì là khó cả. Câu thơ tứ hai hô ứng nhấn mạnh mọi khó khăn trên đới sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng chỉ cần chúng ta có quyết tâm. Không có việc gì khó chỉ sợ chúng ta không có ý chí lòng kiên trì,sự nhẫn nại công việc dù có gian nan đến đâu thì chỉ cần ta quyết chí thì ắt sẽ thành công. Lời thơ của Bác vô cùng giản dị dễ hiểu giống như cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta. Chủ đề xuyên suốt tòn bài thơ đó chính là nếu có ý chí quyết tâm thì dù có khó khăn gì cũng có thể vượt qua được. Hình ảnh đào núi và lấp biển là một hình ảnh mang tính ước lệ khái quát tượng trưng cho những công việc phi thường tưởng chừng khó thực hiện được. Bài thơ của Bác đã phản ánh một chân lí giàu tinh thần nhân văn: nếu có ý chí, sự nỗ lực con người nhất định sẽ đạt được ước mơ. Chân lí ấy giản dị biết bao và cũng có biết bao con người trên thế gian này đã mang hết sức lực của mình để chứng minh cho điều đó.
Lịch sử nhân loại ta đã có rất nhiều câu chuyện tấm gương nêu cao tinh thần ý chí quyết tâm vươn lên khó khăn không ngại gian khổ của rất nhiều thế hệ lịch sử và nó ngày càng được tôi luyện dần theo thời gian. Đó là câu chuyện của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành từ khi mới hai mươi tuổi đã ti ra nước ngoài để tìm đường cứu nước. Chàng thanh nước đó đã phải chịu tất nhiều những khó khăn gian khổ và nhiều lúc tưởng chừng như có thể cận kề với cái chết. Đó còn là quảng thời gian có thể coi là khổ cực nhất của Bác là khi bị quân Tưởng Giới Thạch bắt giam trong nhà tù Trung Quốc.
Vậy làm người thanh niên ấy không báo giờ bỏ cuộc không bao giờ lùi bước mà luôn vươn lên không ngại gian khó tù đầy. Đó là một biểu tượng cao cả nhất mà thanh niên chúng ta cần phải học tập noi theo. Đó càn là câu chuyện của anh chàng Nguyễn Ngọc Kí bị cụt hai tay tưởng chừng như là người vô dụng tàn tật không thể làm được gì. Và hiển nhiên việc viết đối với anh là một điêu không thể. Vậy mà mặc kệ tất cả những lời trêu chọc của bạn bè bỏ qua những cơn chuột rút đau đến quặn lòng ,Nguyễn Ngọc Kí vẫn đi học vẫn viết bằng chân,đó là một sự phi thường mà có lẽ khó ai có được ý chí như chàng trai ấy. Cuối cùng chàng thanh niên ấy đã thành công đã được công nhận đã là người có ích cho đất nước. Có lẽ ta cũng chưa quên được chàng trai Níc Vujjicic không chân không tay . Đối với chúng ta như thế có thể được coi là tàn phế không thể làm được gì . Vậy mà anh ấy đã chứng minh cho cả thế giới rằng anh ấy cũng có thể làm được mọi thứ như người bình thường và có thể làm được tốt hơn rất nhiều lần. Anh đã trở thành một hiện tượng của thế giới khi bằng chính sức mạnh của mình anh đã trở thành một người thành đạt,anh có công ty riêng anh đã có sự nghiệp của riêng mình. Không những thế anh còn đi khắp thế giới để nói cho mọi người biết anh đã thành công như thế nào anh đã đứng lên ra sao.
Và còn rất nhiều những tấm gương khác trên thế giới đã trở thành tấm gương để chúng ta học tập và noi theo. Họ bằng chính sức lực của mình đã vượt qua tất cả mọi khó khăn của cuộc sống để rồi được xã hội tôn vinh công nhận. Những trường hợp kể trên chỉ là một số trong vô vàn những tấm gương đầy nghị lực trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết được. Còn nhiều hơn nữa những con người thành công, vượt qua mọi khó khăn gian khổ bằng khả năng của bản thân. Những nghị lực phi thường đó sẽ được đời sau tôn vinh. Còn với thế hệ chúng em, những tấm gương đó đã và đang động viên chúng em vượt qua khó khăn đồng thời tận dụng những thuận lợi của hoàn cảnh để cố gắng nỗ lực đạt được những thành tích tốt nhất trong học tập, sáng tạo.
Bên cạnh những thanh niên có ý thức có tinh thần vươn lên thì ta cũng cần phải nhìn nhận lại một bộ phận thanh niên đang xuống dốc, với nhiều nguyên nhân, lực lượng thanh niên cũng đã bộc lộ những hạn chế làm cho những thế hệ cha anh phải quan tâm lo lắng, đó là tình trạng “Một bộ phận thanh niên sống thiêu lí tưởng giảm sút niềm tin ít quan tâm đến tình hình đất nước thiếu ý thức chấp hành pháp luật sống thực dụng xa rời truyền thống văn hóa dân tộc”.
Tuy nhiên ta cũng phải hiểu lời khuyên của Bác một cách đúng đắn và thiết thực. Quyết tâm ý chí của ta phải đi đôi với hành động chứ không được quết tâm suông mà có thể làm nên những sự nghiệp lớn. Và những ước mơ khát vọng của chúng ta cũng phải phù hợp với điều kiện thực tế hoàn cảnh chủ quan khách quan và những tiền đề vật chất nhất định nếu không chúng ta sẽ trở thành những người phiêu lưu mạo hiểm những kẻ mơ mộng hão huyền và hiển nhiên thành công sẽ không bao giờ có được điều mong muốn.
Hiểu được sâu sắc như thế ta càng thấm nhuần lời dạy của Bác. Từ đó người thanh niên phải tự vươn lên, phấn đấu, rèn luyện để thật sự là những người chủ của đất nước, là đội quân chủ lực của cách mạng nước nhà. Là một học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường em nguyện sẽ cố gắng học thật giỏi để xứng đáng với bài thơ bác dặn
tui nghĩ là ;
ko có cái j chúng ta ko làm nên cả nhưng chỉ sợ lòng ta ko đủ kiên nhẫn làm. Đó là thơ thể hiện điều đó cho chúng ta thấy . Và chúng ta hãy cố gắng cho mọi việc mà ko sợ khổ khó khăn. ( việc hok chúng cùng cố gắng để có tương lai sáng )
:3