Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trang giang là một bài thơ tiêu biểu của Huy Cận trước cách mạng. Nó thể hiện một nỗi buồn thấm thìa tới tận đáy hồn nhân thế của Thơ mới. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cho thấy nỗi buồn ở đây mang tầm vóc vũ trụ và cảm hứng về không gian sẽ là cảm hứng chủ đạo chi phối hồn thơ Huy Cận trong bài thơ này.
B - THÂN BÀI
Theo lời của tác giả, cảm hứng của bài thơ đã bắt đầu vào một chiều thu năm 1939. Khi đó tác giả đứng ở bờ phía Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng mà nghĩ về kiếp người thật nhỏ bé cô đơn và không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên sông Hồng chỉ là sự gợi cảm. Bài thơ còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác trên đất nước quê hương. Cảnh sông ở bài thơ tuy buồn nhưng đẹp và cũng thật quen thuộc với người Việt Nam.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Âm hưởng chung của khổ thơ bàng bạc không khí Đường thi cổ điển.
Ngay dòng thơ đầu tiên, chúng ta đã bắt gặp từ Hán Việt “tràng giang”. “Tràng giang” tạo nên một âm hưởng xa xôi: Có con sông đấy nhưng dường như nó không có thực. “Tràng giang” còn gợi ý niệm về không gian “con sông dài”. Nó gợi cả ý niệm về thời gian: con sông ấy có từ khi nào? Có lẽ nó chảy triền miền từ khi có vũ trụ, từ quá khứ và sẽ còn chảy mãi khi lớp người đang sống hôm nay sẽ trở thành thiên cổ. Tác giả không dùng từ “sông dài” bởi quá nôm na và cũng không gọi là “trường giang”. Có lẽ 2 vần “ang” đã tạo nên một cộng hưởng gợi lên sự trống vắng mênh mang của lòng người. Mặt khác, trong tâm thức văn hóa của người Việt, đất nước và thôn xóm đã hình thành bên dòng trànggiang như thế cho nên câu thơ dã gợi hình ảnh tượng trưng cho non sông đất nước muôn đời.
Trên dòng tràng giang ấy, những con sóng không dữ dội, nó chỉ gợn lên. Thế nhưng dòng sông lại được nhân hóa với nỗi buồn “điệp điệp”. Hai tiếng “điệp điệp” gợi hình ảnh về 2 con sóng kế tiếp vào nhau cứ đuổi nhau xa mãi nơi chân trời. Hơn thế nữa, “điệp điệp” tạo nên một không gian bao la bát ngát của dòng sông, quyện nỗi buồn cảnh vật với hồn người. Mỗi con sóng mang một tâm sự buồn, cả con sông đầy sóng là hằng hà sa số những nỗi buồn. Thật ra nhìn tràng giang như một sinh thể đầy tâm tư buồn là do chính nỗi buồn từ trong lòng nhà thơ lan tỏa - à trải dài trên sóng nước. Đó là một nỗi buồn vô tận triền miên hết lớp này đến lớp khác không thôi.
Ba câu thơ tiếp theo gợi sâu hơn nỗi buồn đó. Ở đây xuất hiện ba hình ảnh được nhà thơ quan sát trên dòng tràng giang. Đó là một con thuyền xuôi mái dường như trôi song song với dòng nước tưởng như nước không có quan hệ gì với thuyền.
Hình ảnh tiếp theo cho thấy sự mâu thuẫn giữa thuyền và nước: nếu thuyền về thì nước lại. Và hình ảnh cành củi khô trơ trọi kết thúc khổ thơ. Đến đây ta chợt nhớ câu thơ quen thuộc của Bà Huyện Thanh Quan: “Gác mái ngư ông về viễn phố”, ta mới thấy câu thơ của Huy Cận mới hơn, nỗi buồn thấm thìa hơn. Dù gác mái nhưng trên thuyền vẫn có bóng ngư ông, nghĩa là vẫn có con người. Con thuyền vẫn có bến xác định là “viễn phố”. Còn trong câu thơ của Huy Cận, con thuyền vừa không có dáng người vừa vô định. Miêu tả sự vật (thuyền) vốn gắn bó với đời sống con người mà lại không có con người tạo nên một cảm giác rờn rợn về thế giới loài người đã mất. Thuyền và nước vốn gần gũi với nhau nhưng không phải bao giờ cũng gắn bó vì mỗi con sóng chỉ xuôi theo thuyền trong chốc lát, vì những dòng nước trên tràng giang sẽ chia ra trăm ngả xa xôi. Nỗi buồn ở dòng thơ thứ 3 là nỗi buồn của sự tan tác chia li. Thực ra thuyền cũng không biết nhờ đâu mà trôi chỉ biết rằng nước song song không đi với thuyền. Do đó “thuyền về” đối ứng một cách trớ trêu với “nước lại”. Câu thơ rất dễ gợi đến nghịch cảnh mà Hàn Mặc Tử đã chua chát.
Gió theo lối gió, mây đường mây .
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nỗi buồn được đẩy lên cao hơn khi xuất hiện dòng nước.
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hiện tượng đảo ngữ đã dồn thông báo vào từ “củi”, nó gợi cả một thân phận từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Quá khứ là một cành cây xanh tươi mà giờ đây chỉ còn là một cành củi khô bập bềnh trên sóng - những cá thể cũng rất cô đơn. Cành củi ấy rất thụ động, nó bị xô dạt theo những dòng tràng giang. Thân phận của cành củi trải qua bao đau thương khô héo, bao trôi dạt đổi thay. Đến đây khổ thơ đã tạo nên cái tương phản giữa sự mênh mang vĩnh hằng của không gian với sự nhỏ bé
của cành củi. Tất cả chỉ làm sâu thêm nỗi sầu nhân thế của nhà thơ trên dòng tràng giang cuộc đời. Mỗi kiếp người có khác gì cành củi khô kia cũng mong manh đơn độc, cũng lênh đênh trôi dạt không biết về đâu.
Câu thơ thứ nhất tả sóng, câu hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên sông Đọc câu thơ thứ nhất ta thấy những vòng sóng đang loang ra, gối lên nhau, xô nhau đến chân trời thì ở câu thứ hai mở ra những luồng nước song song rong ruổi mãi về cuối trời. Trên sóng nước muôn trùng ấy hình ảnh con thuyền trôi im lìm được nhấn đậm nét bằng hình ảnh một cành củi khô bơ vơ lạc nẻo.
Vào đến khổ thơ thứ 2, Huy Cận đã vẽ thêm nhiều nét rất cụ thể để diễn tả sự mênh mang lạnh lẽo xa vắng của dòng sông bằng cách miêu tả nỗi buồn của cảnh vật.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
“Lơ thơ... đìu hiu”là không gian kề cận của bờ tràng giang. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là một không gian vời vợi, cách rất xa dòng tràng giang.
Dường như dòng sông đang chảy qua một nghĩa địa, ở nơi ấy chỉ có gò mả ngổn ngang. Những cồn nhỏ lụp xụp bên bờ sông đã gợi một sự trơ trụi trống vắng. Nó vừa có sự thưa thớt rải rác trong từ “lơ thơ” lại vừa gợi cảm. “Cồn nhỏ lơ thơ” còn có một sức gợi, hình như những cồn nhỏ ấy đang lừ đừ trôi không phải trên dòng nước mà trong một sức mạnh thần bí của dòng đời. Điều cảm nhận này chúng ta có thể đọc được trong bài ca quan họ “Sông Cầu nước chảy lơ thơ”. Cái cồn nhỏ lơ thơ ấy đáng ghê sợ và lạnh lẽo hơn bởi có ngọn gió đìu hiu đầy âm khí làm bầu bạn. Từ “đìu hiu” gợi cõi âm đáng sợ rất ghê rợn đưa chúng ta đến thế giới _ khác, không phải thế giới cuộc đời. Chính Huy Cận cho rằng, khi ông viết câu thơ này, ông bị ám ảnh bởi “Chinh phụ ngâm”: “Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Từ láy đìu hiu rất dễ gợi không khí tang tóc. Xuân Diệu từng viết: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”.
Dòng thơ thứ 6 là một câu hỏi khắc khoải về một không gian ấm áp tình người “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Đây là không gian giả định, không gian mơ ước, một không gian mà nhà thơ muốn dứt ra khỏi cõi hãi hùng của cồn nhỏ, của gió đìu hiu. Thế nhưng cố gắng lắng nghe thì tiếng làng xa, tiếng của đời thường hoàn toàn không có. Tuyệt vọng hơn là cầu mong những tiếng lơ thơ thưa thớt của phiên chợ vãn cũng không có nốt. Phiên chợ vãn buổi chiều của thôn quê Việt Nam ngàn đời vốn rất tiêu sơ và ảm đạm. Nó không giống như một phiên chợ “lao xao chợ cá làng ngư phủ” của Nguyễn Trài. Chợ vãn gợi nên cái buồn nhưng dù sao vẫn còn dấu vết của con người. Ở đây ngay cả cái tiếng của phiên chợ ấy cũng không có. Nỗi buồn nhân thế được nhân lên gấp bội.
Hai câu thơ sau hướng về không gian trống không của vũ trụ:
Nắng xuống... chót vót
Sông dài... cô liêu
Có một cái trục tung được dựng thẳng đứng lên. Nhờ nắng xuống mà ta thấy trời lên, lên đến mức làm ta choáng ngợp ngỡ rằng đang nhìn xuống trái đất như là một đỉnh núi mà vũ trụ thăm thẳm như một thung lũng ở phía dưới.
Có một cái trục hoành cắt ngang đó là một dòng sông dài và bầu trời cứ mở rộng ra thành bến hoang lạnh cô liêu khiến cho dòng sông hoang vắng lạ lùng.
Như vậy có một hệ trục tọa độ của không gian mà chẳng hề có một giá trị đáng kể nào để được ghi nhận. Khổ thơ này đã nhấn mạnh thêm cảm hứng dậm đặc về không gian của bài Tràng giang và cho thấy cảm quan rất tinh tế của Huy Cận. Khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác giữa trời và đất là hữu hạn. Còn khi mặt trời đã nhuốm hoàng hôn thì ánh nắng đã hắt lên cao, bầu trời sẽ trở nên thăm thẳm không cùng, con mắt của chúng ta khó lòng mà nhìn tận cùng độ sâu hun hút ấy. vẻ đẹp rất hoang sơ, hùng vĩ chỉ làm cho nỗi buồn thêm dằn vặt và lan rộng. Cái bến cô liêu nào cũng rất dễ gợi thân phận của người ngắm cảnh.
Sang khổ thơ thứ ba dường như có sự đối lập với khổ thơ hai.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thần mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Tác giả không quan tâm tới cái mênh mông, cái hùng vĩ mà chú ý đến những cánh bèo dạt. Những cánh bèo dắt díu nhau lê thê, hàng nối hàng không dứt và chầm chậm trôi cũng ngơ ngác như con thuyền, cành củi khô ở khổ thơ đầu. Chính trong những hàng bèo ấy tạo ra sự chuyển động dọc song song gợi về một sự đơn điệu tẻ nhạt.
Nếu những khổ thơ trên con thuyền, cành củi là những cá thể buồn thì ở đây những tập hợp có quan hệ với nhau nhưng không làm giảm đi nỗi buồn. Nếu khổ thơ trên thân phận của thuyền của củi không định hướng thì những hàng bèo này cũng mặc cho nước cuốn trôi. Cá nhân hay cộng đồng cũng mang nỗi buồn như nhau. Trong Tràng giang cuộc đời và tất cả cũng đều là những thân phận thụ động.
Nếu trên kia mơ ước giả định một âm thanh thì giờ đây lại mơ ước giả định một hình ảnh. Nhà thơ rất mong có một chuyến đò ngang để cắt mạch dòng thời gian nghiệt ngã nhưng “Mênh mông không một chuyến đò ngang”.
Không có đò thì lại mơ ước có một cây cầu nối giữa đôi bờ thế nhưng cầu cũng không và một chút niềm thân mật của tình người cũng không có nốt. Hai từ “không” phủ định mạnh mẽ hơn rất nhiều so với câu hỏingơ ngác “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Điều này cho thấy nội tâm của tác giả tăng lên rất nhiều: càng lúc nỗi sầu ấy, nỗi khát khao tình người càng trở nên cồn cào vò xé và bức bách hơn. Câu thơ tiếp theo như một tiếng thở dài đành phải chấp nhận chỉ đứng bên này tràng giang để ngắm bên kia mà không hề gặp.được.
Đọc câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” ta như thấy xuất hiện hai màu, hai sự vật chứa đựng sắc thái lạc quan đó là bờ xanh và bãi vàng nhưng không thể đến được nơi ấy. Từ “lặng lẽ” đặt trong câu thơ bưng bức một nỗi đau gợi nên sự u buồn của nhà thơ và của Tràng giang. Như vậy cùng lúc Tràng giang mang tính chất biểu tượng - đây là con sông cuộc đời, là hoang mạc vắng tanh của cuộc đời. Nó là bờ khổ đau ở bên này mong tìm kiếm cái bờ hạnh phúc ở bên kia.
Dường như tất cả những cảm xúc, những ấn tượng, những suy nghĩ của Huy Cận đã dồn lại ở khổ thơ cuối cùng này. Dòng đầu miêu tả phía chân trời, những lớp mây trắng ngày càng dâng cao lên, nó phản chiếu ánh hoàng hôn trông giống như những dãy núi bạc. Đây là một hình ảnh rất đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến của nhà thơ đối với thiên nhiên, xứ sở.
Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chất chồng ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông giống như một giọt nắng từ trên trời cao rải xuống. Nhà thơ có cảm giác cả không gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. Xuân Diệu đãtừng bình “bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh / lệch cánh đi”. Đây là một cách nhìn rất lạ, chỉ có các nhà thơ mới quan niệm được như vậy. Không gian là hữu hình không khối lượng. Đám mây xốp cũng như vậy. Thế nhưng không gian làm nghiêng cánh chim, những đám mây cứ ùn lên tạo thành những hòn núi bạc. Hình như cái nặng của núi mới có khả năng đè lên cánh chim trời ấy.
Hai dòng thơ có cái thế tương phản: Một bên là lớp mây cao hùng vĩ và một bên là sự đơn độc nhỏ bé của cánh chim. Cái mênh mông của vũ trụ và cái nhỏ bé của một thân phận đã gợi nên sự vĩnh viễn của vũ trụ và cái hữu hạn nhỏ bé cô đơn của kiếp người. Như vậy, bất cứ ở khổ thơ nào, nhân vật tôi thường gởi mình vào trong hình ảnh để ám chỉ thân phận. Cánh chim nhỏ ở đây là trường hợp như vậy.
Cả bài thơ Tràng giang hoang vắng là vì người đọc chỉ thấy cảnh, thấy không gian. Nhưng đến hai dòng cuối, con người mới bắt đầu hiện hữu không phải với dáng vẻ bề ngoài mà là nội tâm ở bên trong.
Thể hiện rõ nhất cho cái nội tâm ấy phải kể đến câu thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. “Dợn dợn” đối ứng với “điệp điệp”, nó gợi lên cho chúng ta hình ảnh sóng nước tràng giang dường như chỉ còn dập dềnh một chỗ. Lí do là thời gian đã chuyển về buổi chiều muộn, tầm nhìn con người đã bị thu hẹp lại nhưng “dợn dợn” gợi một cảm giác về tâm trạng rất lạnh lẽo, rất ghê sợ. Cái “dợn dợn” ấy đang vời dần
xa, cái hoang lạnh đang chuyển dần về phía tít tắp của bóng tối. Con nước ở đây chính là những con sóng, những lớp sóng.
Kết hợp tất cả những từ ngữ ta sẽ thấy lớp sóng cứ gợn lên rồi trôi về phía mênh mông, càng xa càng lạnh lẽo ghê sợ.
Nếu ở câu đầu là sóng của tràng giang gợi lên nỗi buồn điệp điệp thì ở câu này cái tạo nên lớp sóng tạo nên nỗi buồn chính là lòng quê. Nói đúng hon những lớp sóng này không phải gợi lên từ tràng giang mà là nơi sâu thẳm nhất của lòng quê. Do đó những lớp sóng như đang vỗ về nơi xa xôi ấy lại chính là những lớp sóng ào ạt trào dâng trong lòng nhân vật trữ tình. Như vậy “Dợn dợn vời con nước” là hình ảnh cũng là tình cảm diễn tả nỗi buồn của lòng quê, nỗi buồn của con người đang sống giữa đất đai quê hương mình mà như “thiếu quê hương”, cứ như người xa xứ chạnh lòng nhớ quê nhà. Ý thơ rất dễ liên hệ đến tâm sự thẹn với ông Đào của Nguyễn Khuyến:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Ở ngay trên mảnh đất trong mùa thu nước Việt mà cụ Tam Nguyên như đang lạc vào một không gian đơn lẻ cô quạnh nào đó. Thế mới hay dù là thế hệ sau, dù có kiến thức Tây học như Huy Cận và các nhà văn mới nhưng cái mạch ngầm yêu nước và đau xót khi mất nước là mạch chảy trong tình cảm lí trí, tâm thức xưa nay của người Việt Nam.
Câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” đã gợi rõ nhất, sâu nhất nỗi buồn của Huy Cận. Câu thơ gợi nhớ ngay đến một ý thơ rất nổi tiếng của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Ở đây có sự gặp gỡ giữa cổ điển và hiện đại. Điển tích trong văn học là ẩn dụ gợi cho người đọc nhiều khám phá bí mật và thú vị. Câu thơ này kết thúc cả bài vì vậy nó có khả năng khơi gợi mênh mang cho độc giả. Tuy nhiên nếu chú ý hơn thì nỗi buồn của Huy Cận thực thể hơn, hiện đại hơn nỗi buồn đầy khí vị triết học của Thôi Hiệu. Huy Cận nghĩ đến cái nhà nơi chôn nhau cắt rốn - nơi có cha mẹ anh em xóm làng bầu bạn, nhớ nhà bằng một tấm lòng quê rất thật thà không khệnh khạng kiểu cách.
Với Thôi Hiệu, phải nhờ lớp khói trên sông thì nỗi buồn mới xuất hiện. Còn ở Huy Cận, tuy không hề có khói sóng nhưng người vẫn mượn nó trong tưởng tượng để hướng lòng về chốn quê nhà. Xưa muốn bộc lộ nôi buồn thì phải có ngoại cảnh. Nay các nhà Thơ mới không cần đến cái ngoại cảnh ấy cũng tê tái một nỗi buồn. Như nỗi buồn tiễn đưa của Thâm Tâm.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trong “thế giới” nhà thơ không cần mượn tói khói sóng trên sông bởi vì lòng nhà thơ đã có sẵn nỗi nhớ nhà kín đáo thiết tha. Mặc dù phủ định khói hoàng hôn và chính nhờ cách đó nhà thơ đã đưa khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ để làm tăng nỗi buồn nhớ của nhà thơ, của người xa quê trước cảnh tràng giang.
C - KẾT LUẬN
Cảnh hoàng hôn tràng giang tuy có buồn, vắng nhưng là một bức tranh đẹp bởi được vẽ bằng một ngòi bút có tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước. Từ đó mới có những hình ảnh thật quen thuộc gần gũi với người Việt Nam: một dòng sông mênh mông, một con thuyền xuôi dòng, một cành củi khô, một bến bờ xa vắng, một buổi chiều chợ tan... có cái gì như là hồn dân tộc, hồn đất nước quê hương thấm sâu trong từng cảnh vật giản dị nhưng gợi cảm ấy. Mặt khác Huy Cận gợi sâu nỗi buồn cô đơn để phủ nhận mà để biểu hiện niềm khát khao có được sự thân mật, sự hòa hợp gần gũi giữa những người với người trong tình người tình đất nước.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
Độc lập- tự do - hạnh phúc
* *
*
BẢN KIỂM ĐIỂM
Kính gửi : cô (thầy) giáo chủ nhiệm
E tên là :
Học sinh lớp:
lý do viết đơn : hôm nay e làm đơn này để xin cô (thầy) . E thấy rất có lỗi vì làm cho lớp bị trừ điểm thi đua. E hứa sẽ ko tái phạm nữa, nếu e tái phạm e sẽ bị đình chỉ học 1 tuần
Mong cô (thầy ) tha lỗi cho e
Người viết đơn
CHÚC BẠN MAY MẮN
Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như "chiếc ấm đất", "chén trà sương"... và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù".
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao "đẹp lắm, vuông lắm", nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến "mất ăn mất ngủ"; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, "một vật báu ở trên đời". Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội "đại nghịch", chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân "thấp cổ bé họng". Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài "bẻ khóa, vượt ngục" chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.
ác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng "sa cơ lỡ vận" nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động "dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái" và "lãnh đạm" không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là "một lũ tiểu nhân thị oai". Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra "khinh bạc". Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên "ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh". Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:
"Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ".
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; "đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ ...". Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn "cặn bã" của xã hội. "Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Huấn Cao là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp . Theo ông, chỉ có "thiên lương", bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: "Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ". Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì "tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ".
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình. Cảnh "cho chữ" diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng "xưa nay chưa từng có". Kẻ tử tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng" đang "đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh" với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: "Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi".
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái "tài" và cái "tâm". Trong cái "tài" có cái "tâm" và cái "tâm" ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song "tâm" và "tài" thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết nên những trang văn mà ở đó có một nguồn mỹ cảm dạt dào dành cho tất thảy những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về những thú chơi đẹp, uống đẹp, nhắm đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như ngọc sáng trong nhân cách con người. Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn vẹn nếu thiếu đi "Vang bóng một thời", và "Vang bóng một thời" cũng sẽ khiếm khuyết nếu không có sự góp mặt của thiên truyện "Chữ người tử tù". Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân sinh quan về cái đẹp một cách sâu sắc.
Huấn Cao được nhớ đến trước hết là bởi vẻ đẹp của một tài năng siêu việt, toàn diện trên cả văn và võ. Bằng một cách rất tinh tế và rất Nguyễn Tuân, nhà văn đã không để nhân vật của mình xuất hiện trực diện mà qua cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Nhưng dẫu là nhìn qua nhãn quan của những kẻ đối nghịch, tài năng của Huấn Cao vẫn không thể bóp méo. Như người xưa nói, "văn kì thanh bất kiến kì hình", Huấn Cao đã bước vào trang văn Nguyễn Tuân như một hình tượng tuyệt mỹ.
Cái tài của ông Huấn là tài nghệ thư pháp. Là một người "viết chữ rất nhanh và rất đẹp", danh tiếng của ông Huấn đã lan ra khắp một vùng tỉnh Sơn, đến tai cả những người như quản ngục và thơ lại, khiến họ cũng phải trầm trồ và dè dặt. Quả thực, tiếng lành đồn xa, tài viết chữ của Huấn Cao vốn đã thành danh bất hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê là một trong những nhã thú thanh cao của cổ nhân, là biểu trưng cho văn hóa cổ truyền dân tộc. Những con chữ tượng hình nói lên nhân cách phẩm giá và chí khí của con người. Chính quản ngục cũng phải cảm khái: "Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời." Trong một xã hội mà Đông Tây bát nháo, ối a bông phèng, cái cũ thì chưa suy hẳn mà cái mới thì chưa kịp thay thế hết, Nguyễn Tuân là một nhà nho mang tâm thế bất hòa, bất mãn, bất lực với thực tại, xây dựng nhân vật với một tài năng siêu việt về thú chơi cổ truyền như một cách để nhà văn bày tỏ những tiếc nuối về một quá khứ vàng son đã qua nay chỉ còn vang bóng.
Khi Huấn Cao diện kiến trực tiếp với bạn đọc, thì người quân tử ấy còn được biết đến như một trang anh hùng nghĩa liệt với khí phách hiên ngang. Vốn là một người song toàn văn võ, bên cạnh tài thư pháp còn có tài "bẻ khóa và vượt ngục", Huấn Cao là cái tên khiến những người trong ngục tù phải dè chừng. Trong mắt triều thần, ông là một người cầm đầu bọn phản nghịch, nhưng thực chất đó là một anh hùng đứng lên vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình vì bảo vệ lẽ phải. Ông là hiện thân của một con người kinh bang tế thế, anh hùng cái thế.
Khi được đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh Huấn Cao càng nổi bật lên với những vẻ đẹp khí phách hiên ngang lẫm liệt. Điềm nhiên bước vào nhà lao, hành động đầu tiên của Huấn Cao là dỗ gông, không mảy may đếm xỉa đến vương quyền trên đầu: "Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Đó là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu "Đỉnh thiên lập địa" không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.
Những ngày bị giam thân nơi chốn ngục tù, Huấn Cao không một chút khiếp sợ. Người xưa thường nói "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại" (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản "gậm một mối căm hờn trong cũi sắt" thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt như việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây." Lời tuyên bố dõng dạc đủ để thấy Huấn Cao đã bỏ ngoài hết thảy những sợ hãi và lo âu, không để tâm người mình đang đối đầu là kẻ đang nắm quyền, đang nắm giữ sự sống. Trong con người của kẻ tử tù ấy thể hiện đúng tinh thần "uy vũ bất năng khuất". Uy quyền trên đầu không thể ràng ép, bạo lực chực chờ không thể đánh gục. Dẫu ngày mai là ngày bị giải ra pháp trường và đón nhận lấy cái chết thì khí chất người anh hùng vẫn thế, luôn vững vàng.
Sáng lên hơn cả trong nhân cách người tử tù là một thiên lương trong sáng, vững lành, có sức mạnh cứu rỗi những tâm hồn đang dần bị bôi đen. Đó là nhân cách của bậc đại trí, đại dũng, không bao giờ bị lung chuyển trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục: "Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ". Một con người ý thức sâu sắc được thiên chức và phẩm giá của nghệ thuật. Một con người không bao giờ thị tài.
Đáng quý hơn, Huấn Cao không chỉ trọng thiên lương của mình mà còn trọng thiên lương của kẻ khác. Điều này được thể hiện trong cách ứng xử chân tình mà ông dành cho quản ngục. Khi chưa hiểu được tấm lòng quản ngục, ông khinh bỉ đến điều, coi thường y như coi thường một kẻ cầm tay đao suốt đời chỉ sống trong nhơ bẩn, sống vì phi nghĩa. Còn khi đã hiểu ra cái "sở nguyện cao đẹp" của y, ông hết sức cảm mến và trân trọng: "Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ." Cũng chính sự thấu hiểu này đã đưa hai con người từ đối đầu thành tri âm tri kỉ.
Nhưng có lẽ tài năng khí phách và nhân cách cao đẹp của ông Huấn thể hiện rõ nhất, tập trung nhất, hài hòa nhất ở cảnh cho chữ - cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".
Đêm đã khuya, chỉ sáng mai thôi là người tử tù phải vào kinh chịu án chém, nhưng ông Huấn vẫn trút hết tài năng sáng tạo vào ngòi bút và viết ra những con chữ vuông tươi tắn nói lên cái "chí khí tung hoành của đời một con người". Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái chết kề bên, ông Huấn vẫn "dậm tô nét chữ" trong tư thế của người nghệ sĩ chân chính đang làm chủ lao tù. Sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy.
Huấn Cao còn hiện lên thật đẹp ở khoảnh khắc ấy trong vai trò của người hướng thiện, hướng đạo cho kẻ mê muội. Lời khuyên chân thành dành cho kẻ tri âm đã làm sáng lên vẻ đẹp ấy: "Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người". Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: "Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi". Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý, làm cho viên quản ngục cảm động: "vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân - Thiện - Mỹ.
Vẫn cái chất Nguyễn Tuân ở đó, uyên bác và tài hoa, trong cả tư tưởng và cách biểu hiện. Nhà văn đã thật thành công khi xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".
Quốc ca là bài ca vĩ đại, là biểu tượng của mỗi quốc gia, gắn với lịch sử đặc biệt, vận mệnh thiêng liêng và ý chí, khát vọng của mỗi dân tộc.Tiến quân ca" mang theo ước vọng của cả dân tộc đi qua các cuộc trường chinh vệ quốc để non sông ca khúc khải hoàn. Máu của những người con nước Việt đã tô thắm màu cờ đỏ sao vàng, để mỗi người dân được hát vang bài hát vĩ đại của dân tộc Việt Nam trên quê hương hòa bình, thống nhất. Quốc ca Việt Nam là niềm tự hào của người dân Việt Nam, khi tiếng hát "Tiến quân ca" cất lên từ trái tim mỗi người Việt Nam cũng là lúc niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước trào dâng mạnh mẽ. Và như vậy, mỗi lần hát Quốc ca là một lần người Việt Nam tự bồi đắp tinh thần yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc để nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước.
chắc thế