Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nhà thơ Thế Lữ đã từng có nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Có thể nói, Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một “bộ y phục tối tân”, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Cứ mỗi độ xuân về, trái tim non của những thế hệ trẻ lại rung lên với cảm xúc yêu đời tha thiết, mãnh liệt trước lời ru yêu đời mà thấm thía của Xuân Diệu. Một trong hững lời ru yêu đời thấm thía ấy được gửi gắm qua tác phẩm “Vội vàng” – một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ độc đáo của Xuân Diệu. Cả bài thơ là niềm yêu đời mãnh liệt, lòng ham sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Đến với 13 câu đầu trong “Vội vàng”, chúng ta sẽ thấy rõ được ước muốn táo bạo, kì lạ của thi sĩ và bức tranh xuân – vẻ đẹp thiên đường trên mặt đất.
Rút ra từ tập “Thơ thơ”, Vội vàng là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Mở đầu bài thơ là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện ước muốn cháy bỏng của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh liên tiếp các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, khổ thơ như khúc ca sôi nổi, say mê về những ước muốn khát khao cất lên từ trái tim của thi sĩ. Muốn tắt nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế. Nghĩa là Xuân Diệu muốn mãi mãi một mùa xuân tuyệt vời. Ham muốn, khát vọng của thi sĩ thật vô cùng lãng mạn. Phải là một hồn thơ yêu đời ham sống mãnh liệt đến vô bờ mới có nhugnữ ham muốn bồng bột, táo bạo ấy.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Từ ngữ “tôi muốn” được nhắc lại và đặt đầu mỗi câu thơ diễn tả tâm nguyện, nỗi khát khao được sống, được hòa mình với thiên nhiên, được thâu tóm hết những điều tốt đẹp nhất đang diễn ra ở ngoài kia. Ông muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ cho cuộc đời những gì đẹp nhất, ý thức được sự quý giá, vẻ đẹp của nắng xuân, của hương hoa cỏ. Vốn dĩ nắng, gió là những hiện tượng rất tự nhiên của tạo hóa; nhưng tác giả lại có ý định muốn “tắt nắng” và “buộc gió”.
Dường như Xuân Diệu muốn đoạt đi quyền của tạo hóa, xuất hiện của cái tôi ngông cuồng, thách thức cả vũ trụ hòa quyện với cái tôi hồn nhiên, yêu đời mang đến một hồn thơ Xuân Diệu rất riêng.
“Tôi muốn uống vào lồng phổi vô cùng
Tất cả cuộc sống dưới gầm trời lồng lộng
Tôi muốn có đôi cánh vô ngần to rộng
Để ôm cả vũ trụ vào lòng tôi”
(Huy Thông)
Cũng có niềm khát khao sống mãnh liệt như Xuân Diệu nhưng khác Xuân Diệu, Huy Thông có giọng văn hùng hồn, mãnh liệt, muốn bản thân thay đổi, muốn mình trở nên to lớn, khổng lồ hơn, có lồng phổi to lớn “uống” cả gầm trời, đôi cánh vô ngần ôm cả vũ trụ, thâu tóm lại hết những điều tốt đẹp.
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với của hoa tươi muôn cánh gió
Về đây đem chắn nẻo xuân sang
(Chế Lan Viên)
Chế Lan Viên thì lại có mong muốn kì dị hơn, ông muốn thay đổi thời gian, trở lại thời gian tươi đẹp nhất để lưu giữ, mang về những điều tốt đẹp nhất; giọng văn của ông nhẹ nhàng, hoài niệm, tinh tế và có chút tiếc nuối “Ai đâu trở lại mùa thu trước”, “Nhặt lấy cho tôi những lá vàng”những vẫn có khao khát mãnh liệt được giữ lại những điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời mình.
Cả 3 tác giả mỗi người đều có một giọng văn và cách thể hiện khác nhau, nhưng đều thể hiện mong muốn mãnh liệt, khát khao được giữ lại những điều tốt đẹp, sống hết mình, quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, ham sống đến cuồng nhiệt.
1.
chuyển đổi từ thơ 5 chữ sang thơ 8 chữ. cách chuyển đổi này làm nên giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc.
2. trong 4 câu đầu tác giả sử dụng điệp từ 'tôi muốn' thể hiện rõ khao khát lm chủ thiên nhiên,cưỡng lại sự vận ddoonghj của đất trời.
3. quan niệm thẩm mĩ: sự phong phú bất tận của thiên nhiên và tâm trạng đầy mâu thuẫn nhưng lại thống nhất giúp cta cảm nhận đk ty cuộc sống tha thiết
4. điệp từ 'này đây' nhấn mạnh sức sống , vang lên như giục giã người đọc xốn xang theo từng câu thơ.
a. Bốn câu đầu
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
- Điệp ngữ “Tôi muốn” nhấn mạnh cái tôi khát khao, ước muốn. Đây là cái tôi đặc trưng của văn học lãng mạn 30-45
- Động từ “tắt”, “buộc” mang sắc thái tiêu cực khiến ước muốn của thi nhân có vẻ như phũ phàng. Nhưng nắng và gió là hiện tượng thiên nhiên, không thể điều khiển được nên ta thấy ước muốn không chỉ phũ phàng mà còn phi lí. Cái tôi chủ quan muốn khống chế, chi phối những hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng.
- Ở câu 2 và 4 xuất hiện từ ‘cho” và “đừng” được điệp lại, có sắc thái như van nài, khẩn khoản. Nhà thơ sợ rằng nắng làm màu nhạt mất, gió làm hương đời bay xa. Hỏ ra, đằng sau ước muốn có vẻ phũ phàng, vô lí kia là tấm lòng của một thi nhân yêu say đắm cuộc sống, yêu vô cùng những màu sắc, hương thơm của cuộc đời; và muốn nâng niu, trân trọng, gìn giữ nó trong vòng tay.
=> Ước muốn thiết tha của niềm yêu. (Thiết tha đến độ nghe có vẻ phi lí)
b. 7 câu tiếp: Bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống nơi trần thế
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đòng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:
- Điệp ngữ “của” -> tạo sự liền mạch trong hình tượng thơ với bốn câu thơ trên.
- Điệp ngữ “này đây”
-> cảm giác hân hoan, vui sướng vô ngần của thi nhân.
-> sự giàu có, phong phú đến mức say đắm của cuộc đời.
=> cả xúc cảm chủ quan và cả cảnh vật cuộc đời khách quan được khắc họa.
- “này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời ở ngay trước mắt, ngay trong lúc này. -> cuộc sống tươi đẹp hiện hữu ở cả thời gian và không gian.
- Căng mở các giác quan, cảm nhận được vẻ đẹp toàn vị, cả hương vị và thanh sắc của cuộc đời: có vị ngọt; hương thơm, màu sắc; dáng hình uyển chuyển; âm thanh tình tứ; ánh sáng…
-> Mỗi ngày như một bữa tiệc thịnh soạn được bày ra, mời gọi, mang niềm vui đến cho mọi nhà.
=> Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quanh chúng ta đẹp vô cùng. Xuân Diệu tìm vẻ đẹp của cuộc đời không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần gian, ngay bên cạnh mình.
* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân tình yêu: (tất cả được nhìn qua lăng kính của tình yêu)
- Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, khu vườn hạnh phúc. Trong khu vườn ấy có:
+ Cặp đôi “ong” – “bướm” trong “tuần tháng mật” yêu đương hạnh phúc. “tuần tháng mật” mang nghĩa đen là mật ngọt của thiên nhiên hoa trái. Nó gợi đến “tuần trăng mật” của đời người. Hình như với Xuân Diệu, thời gian của đời người lúc nào cũng là tuần trăng mật, lúc nào cũng ngọt ngào, lúc nào cũng đầy mê đắm.
+ “Hoa” của “đồng nội xanh rì” -> trên đồng ruộng xanh mênh mông là hoa sặc sỡ, rực rỡ.
+ “Lá” của “cành tơ” -> điệp phụ âm “ph” trong từ láy “phơ phất”, điệp âm “ơ” trong cụm từ “tơ phơ”, nhiều thanh bằng trong cụm “cành tơ phơ phất” gợi hình ảnh những lá mềm mại, non tơ, phơ phất đung đưa trong gió. Có một cái gì đó vừa đẹp vừa mong manh. Cái đẹp khiến người ta mê đắm, cái mong manh khiến người ta trân trọng, nâng niu, giữ gìn.
+ “Yến anh” với “khúc tình si”: tiếng hót của chim chóc được XD khái quát trong hình tượng “yến anh” – là chim yến và chim oanh – coi là biểu tượng của lứa đôi, hạnh phúc. Tiếng hót được cảm nhận là “khúc tình si” say đắm.
+ “ánh sáng chớp hàng mi – thần Vui thường gõ cửa”: Xuân Diệu quan niệm con người là chuẩn mực của cái đẹp. Ánh sáng là ánh sáng buổi sớm. Ánh dương buổi sớm ấy hình như không phải tỏa ra từ thiên nhiên mà tỏa ra từ sau cái chớp mắt của thiếu nữ. Sau cái chớp mắt ấy, ánh sáng tỏa ra muôn nơi, chan chứa khắp thế gian. Vì thế, nhà thơ đón mỗi buổi sáng như đón thần Vui gõ cửa. cái thúc giục bên ngoài và tâm trạng bồn chồn bên trong chính là xúc cảm của niềm yêu. Niềm yêu của một nhà thơ không muốn bỏ lỡ dù chỉ là một khoảnh khắc của ngày mới.
=> Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân trần thế đã biến thành người tình nhân say đắm trong khu vườn mùa xuân tình yêu.
- Khái quát lại “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
+ Nhịp ngắt 3/5, trọng tâm của câu thơ rơi vào chữ “ngon”, tô đậm cảm giác tận hưởng bằng vị giác. Tháng giêng là tháng đầu tiên của mùa xuân, vì thế nó có thể coi là hoán dụ cho mùa xuân nhưng mùa xuân cũng lại gợi đến một ẩn dụ cho tuổi trẻ của đời người. Như vậy, tháng giêng ngon, mùa xuân tuyệt vời và tuổi trẻ cũng thật tuyệt vời.
+ Hình ảnh so sánh lạ (phép tương giao, cảm quan tương ứng học theo thơ phương Tây: cho rằng vạn vật trên thế giới đều liên quan đến nhau). Nếu “tháng giêng” là sự căng mọng, đẹp tươi nhất của mùa xuân thì “cặp môi gần” là sự căng mọng, đẹp tươi nhất của tuổi trẻ.
Với định ngữ “gần”, thấy cuộc đời không xa xôi mà ngay gần cạnh, không xa xôi mà ngay ở đây, ngay lúc này.
+ Biện pháp chuyển đổi cảm giác: “tháng giêng” là khái niệm vô hình, trừu tượng -> “ngon như cặp môi gần” : hữu hình cụ thể, có thể cảm nhận bằng vị giác => cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân một cách rõ nét, trọn vẹn hơn.
+ Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Con người mới là chuẩn điểm của cái đẹp.
Nếu phải chọn một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1930- 1945), mọi người sẽ không chút ngần ngại, chọn ngay Xuân Diệu, một nhà thơ từng được nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh xem là mới nhất trong các nhà thơ mới. Bàn về thơ của nhà thơ tài danh này, nhà phê bình tác giả quyển Thi nhân Việt Nam cũng đã khắng định:
Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết.
Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu đã được tôn vinh là “Ông hoàng thơ tình” với hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Hai tập thơ này cùng chung một mạch cảm xúc là say đắm tình yêu và khao khát hạnh phúc cuồng nhiệt. Đủ thấy nhà thơ đã tìm nguồn cám hứng lãng mạn ờ ngay cuộc đời trần thế. Thơ Xuân Diệu là thơ của một. tâm hồn rất yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống. Đối với tác giả tập Thơ thơ, điều kì diệu nhất là cuộc sống, điều đẹp đẽ đầy ý nghĩa nhất là con người, tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ ham sống, tha thiết với đời và khao khát tình yêu đến độ mê say. Thật vậy, Xuân Diệu yêu cuộc sống trần thế này với tất cả vẻ bình dị, trong trẻo và nồng nhiệt nhất bằng một trái tim đắm đuối đến phút cuối cùng.
Hãy để cho tôi được giã từ vẫy chào cõi thực đế vào hư.Trong hơi thở chót đăng trời đất Cũng vẫn si tinh đến ngất ngư
(Không đề)
Chính vì vậy, nhà thơ đã quan sát, ghi nhận, và phái hiện ra dược những lạc thú của cuộc sống. Hãy nghe chính Xuân Diệu đã tâm sự: "Với long tôi, trời đất chính là mùa: Xuân với Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh... Chữ còn từ Đông sang Xuân, sao mà sung sướng thế! Lạnh chuyển ngược lên ấm, từ một rất khó chịu chuyển ngược sang một điều rất dễ chịu. Theo lộ ấy, Hè sang Thu; hiểu khoái trá cho giác quan, được rời bỏ lửa chói chang mà vào trong nước hiền hòa mát mẻ. Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi. Và ấm hay mát Thu hay Xuân, lòng cũng rạo rực những tiếng mùa ái tình ghé môi gọi mời trong gió.
Dũng là phải ham sống, biết yêu, biết tận hưởng cuộc sống trần thế như Xuân Diệu mới viết nên được những dòng cảm nhận chính xác và tinh tế đến như vậy.
Cũng với tâm hồn đắm say và lãng mạn, trong bài Vội vàng nhà thơ đã viết:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ pha phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi...
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Trước mắt Xuân Diệu, cuộc sống diễn ra vô cùng sôi động, một nguồn nhựa sống bất tuyệt như đang tuôn trào dào dạt. Hai tiếng “này đây” lặp đi lặp lại nhiều lần như cho thấy những hương màu cùa mùa xuân mà nhà thơ đang trưng bày ra dãy là nhiều, là dọn sẩn món ngon của bữa tiệc trần gian không sao kể cho xiết được. Này đây, này đày... là những hình ảnh đẹp đẽ và hấp dẫn của thiên nhiên cây cỏ, lá cua cành tơ, khúc tình si của yến anh và cả hàng mi với đôi làn mắt chớp. Tất cả đều đă hiện ra trong một sắc màu sáng sủa và sinh động thể hiện “một nguồn sống dào dạt đắm say chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.
Là người gắn bó với sự sống, vồ vập trước mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, cây cỏ và con người lại khao khát tình yêu một cách cuồng nhiệt. Xuân Diệu muốn ôm cả hương sắc của trần thế vào lòng mình.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muối riết máy đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng...
Đoạn thơ này với nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, trào tuôn khiến người đọc không khói liên tương đến nhịp rộn ràng cùa trái tim thi nhân phút nầy. Xưa nay, đả mấy ai có được cái ham muốn nhiệt cuồng và mãnh liệt đến như vậy. Ở đây Xuân Diệu muốn ôm vào vòng tay mình cả sự sống... mơn mởn, nhà thơ muốn net mây đưa, muốn say cánh bướm, muốn thâu trong một cái hôn nhiều... Ngay trong nụ hôn thôi, đó là cái riêng từ giữa hai người với nhau mà thi nhân lại tưởng như trong đó đã thâu tóm cả nước non, cày cỏ. Đã vậy, lòng khát khao gợi cảm, niềm say đắm với cánh trời với tình yêu của thi nhân lại ngày một tăng lên mạnh mẽ và dữ dội.
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn cào
(Vội vàng-Xuân Diệu)
Cũng chỉ có Xuân Diệu mới có thể say đắm thèm khát tình yêu đến nỗi đã khẳng định:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào
(Bài thơ tuổi nhỏ - Xuân Diệu)
Trong thơ tình của thi nhân này còn biết bao vần điệu nồng nàn, mãnh liệt và đắm say đến độ nhiệt cuồng, dữ dội:
Anh nhớ tiếng.
Anh nhở hình
Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!
(Tương tư chiều - Xuân Diệu)
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời cà!
Ta muốn uống hồn em!
(Vô biên- Xuân Diệu)
Tuy Xuân Diệu đã khẳng định “cái tôi” một cách mạnh mè bằng khát vọng tận hưởng hạnh phúc trần gian như thế, nhưng do lúc bấy giờ thiếu một quan niệm biện chứng về thế giới, nhà thơ chỉ thấy thời gian là biến suy, là tàn tạ, là phôi pha và chỉ thấy ở cuối chặng đường đời là cái già, cái chết là sự hư vô:
Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi
Già nua đã bó sẵn hai tay
Hôm ấy trông ta gượng ánh ngày
Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc,
Ta ngồi góp lực nhớ hôm nay.
(Hư vô-Xuân Diệu)
Già sẽ đến, giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm chim làm sợ cả hoa hương
Và dần dà càng rõ rệt bộ xương
Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất.
(Thanh niên -Xuân Diệu)
Chẳng khác chi một người có vật báu, lòng luôn nơm nớp lo sợ mất nó. Xuân Diệu cũng vậy. Say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, thi nhân rất sợ mất nó, vì biết rằng tuổi xuân sẽ qua đi, cuộc đời sờ mất đi. Vì thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng, cuống quýt giục giã để tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình:
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em ơi em: tình non sắp già rồi
Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi
Mau với chứ, thời gian không đứng đợi ...
Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
(Giục giã - Xuân Diệu)
Ở bề sâu của cái “vội vàng", của lời “giục giã" ấy vần là một tâm hồn yêu đời sâu nặng, yêu cuộc sống một cách thiết tha của Xuân Diệu. Chính vì thế khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết. Tâm hồn của nhà thơ luôn khát khao được giao cảm với đời, say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời. Với tất cả tâm hồn mình, người đã bao lần lắng nghe những tiếng nói “huyền diệu” của đất trời:
Hãy lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tăn hôn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu thần tiên thẩm tận hồn
(Huyền diệu-Xuân Diệu)
Phải nồng nàn và tha thiết lắm nhà thơ mới nghe được cả tiếng lòng của đôi kẻ yêu nhau:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lẫn đâu rung động nỗi thương yêu
(Thơ duyên-Xuôn Diệu)
Với tất cả tâm hồn nhạy cảm đầy nồng nàn và tha thiết của mình, Xuân Diệu cũng nghe được cả sự rung động trong lòng ta và trong ý bạn.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
(Thơ duyên-Xuân Diệu)
Đó là trong niềm vui. Nhưng ngay trong nổi buồn, Xuân Diệu cũng không hề lặng lẽ mà vẫn rất nồng nàn và tha thiết. Chính điều này đã khiến nhà thơ nhìn mọi vật trong đời giữa cái thế luôn vận động. Thật vậy, chỉ có đôi mắt xanh non của Xuân Diệu mới nhìn thấy sự “rùng mình” của ánh trăng khi nghe tiếng đàn lạnh lẽo giữa đêm thu:
Linh lung ánh sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh!
(Nguyệt cầm - Xuân Diệu)
Cũng chính đôi mắt ấy đã phát hiện ra hình hài của cái lạnh đang luồn trong gió đến, khi mùa thu mới chớm về:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
(Đây mùa thu di-Xuân Diệu)
Trong thơ mình và ngay cả trong đời mình, Xuân Diệu lúc nào cùng thể hiện một sự tha thiết nồng nàn hay nói khác, một chất sống mãnh liệt dào dạt. Không thể tìm thấy ở nhà thơ tài danh này sự nguội lạnh hay sự nhàn nhạt một cách đơn điệu trung bình, đều đều, phẳng lặng. Với nhà thơ thì:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
(Giục giã -Xuân Diệu)
Phải hiểu là hai câu thơ này không thể hiện sự hưởng lạc hay gấp gáp mà chính là thể hiện một tấm lòng ham sống, say mê sống đến độ tha thiết, nồng nàn dạt dào và mãnh liệt của chính bán thân nhà thơ.
Tổng kết lại , đúng như nhận định của Hoài Thanh: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đái ngắn ngủi của minh. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết" Suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật cua mình, tình yêu đối với cuộc sống, với con ngươi với tuổi trẻ và tình yêu trong lòng của nhà thơ vẫn luôn luôn dạt dào và mãnh liệt. Chính vì vậy mà “ông Hoàng của thơ tình” đã khám phá được nhiều biến thất tình của thiên nhiên cũng như nội tâm con người và thể hiện được trong những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như đứng lại bao nhiêu là tinh hoa (Thế Lữ).
Ước muốn ngông cuồng táo bạo ...
Một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên - một ước muốn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.
Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ thì “tắt nắng” và “buộc gió” không phải là ý muốn cuối cùng, vì những câu chẵn của khổ thơ đều bắt đầu bằng một chữ “cho”.
Cho màu đừng nhạt mất,
......
Cho hương đừng bay đi.
Khát vọng ngông cuồng kia cũng xuất phát từ mong muốn giữ lại cái đẹp đẽ cho sự sống. Những câu thơ gợi cảm giác lo âu rằng cái đẹp sẽ giảm hương sắc đi, màu nắng sẽ bớt rực rỡ nếu nắng cứ toả, và làn hương kia sẽ bớt nồng nàn nếu gió cứ bay. Nhưng mong muốn càng trở nên thiết tha hơn khi nhà thơ dùng đến hai lần chữ “đừng” - chứa đựng một nguyện vọng thiết tha. Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật.