Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hình ảnh Rùa Vàng còn xuất hiện trong truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ.
Cây tre từ lâu đã là một biểu tượng của dân tộc Việt Nam, nó thể hiện tinh thần đoàn kết, sự cần cù chịu khó trong lao động và sự kiên cường bất khuất trong khó khăn gian khổ. Cây tre là hình ảnh của con người Việt Nam trên mọi chặng đường lịch sử, phẩm chất tốt đẹp của tre cũng chính là phẩm chất con người Việt Nam yêu nước, chí khí của tre là chí khí cách mạng của dân tộc, tâm hồn của tre là tâm hồn của triệu triệu đồng bào… Hình tượng cây tre trong tác phẩm Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới thật đẹp, thật đáng tự hào.
Nhà văn đã giới thiệu cây tre như là hiện thân của người dân Việt. Tác giả đã so sánh cây tre với muôn ngàn cây lá khác nhau: cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Sự so sánh ấy nhằm ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người. Tre bao bọc xóm làng, tre có mặt khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có nứa tre làm bạn. Tre được tác giả nhân hóa trở nên gần gũi, yêu thương với con người.
ám chỉ nhân dân ta khi ko có giặc thì nhân dân ta chăm chỉ làm việc và nhưng khi có giặc thì nhân dân ta sẽ đánh giặc
- Cái bọc trăm trứng cùng cha Long Quân mẹ Âu Cơ nhắc nhở cội nguồn dân tộc
- Cái bọc nở ra trăm người con với đặc điểm khác nhau thể hiện sự phong phú trong cộng đồng dân tộc
- Cái bọc trăm trứng cái bọc của tình đoàn kết các dân tộc anh em trong lãnh thổ Việt Nam
- Cái bọc của tinh thần mở mang bờ cõi, lên non xuống biển tinh thần ko ngại khó khăn
- Cái bọc trong tim mỗi con người Việt, cái bọc của niềm tự hào con rồng cháu tiên
Bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ và Lạc long Quân nhắc nhở cho chúng ta về cội nguồn dân tộc , dân tộc Việt Nam đều là anh em ,đồng bào ,cùng cha mẹ và phải có sự đoàn kết .
Bài làm
Từ thuở còn trong nôi, em đã được bà kể cho nghe nhiều câu chuyện lắm. Nhưng câu chuyện mà em nhớ nhất là truyện Thánh Gióng.
Truyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé Gióng (tên cậu do ông bà đặt) vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.
Cũng năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:
- Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
(Ngày xưa khi để cho em nghe đến chỗ này, bao giờ bà cũng thêm vào: Tiếng nói đầu tiên của cậu Gióng là tiếng nói yêu nước đấy. Phải nhớ lấy cháu ạ!)
- Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.
Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.
Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sỹ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.
Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.
Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế thệ học trò.
# Học tốt #
A. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết “Thánh Gióng”.
B. Thân bài (Diễn biến sự việc)
- Mở đầu
- Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
- Thắt nút - Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta.
- Phát triển
- Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
- Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
- Mở nút
- Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
- Kết thúc
- Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ.
C. Kết bài
- Ý nghĩa câu chuyện: Tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước
Giàn ý đây bạn tự viết nha
Study well
Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Biên giới (chiến dịch Cao – Bắc – Lạng). Trong chiến dịch, Bác Hồ đến thăm đơn vị chúng tôi và nghỉ lại nơi trú quân. Trời lạnh, thêm cơn mưa lâm thâm càng tăng thêm cái lạnh lẽo nơi núi rừng. Chính đêm ấy, tôi đa được chứng kiến vị chủ tịch vĩ đại cuẩ nhân dân trằn trọc thức cả đêm vì lo lắng, săn sóc cho những người chiến sĩ chúng tôi.
Đêm khuya, cảnh vật chìm trong bóng tối, tiếng mưa rơi tí tách trên từng cành cây, ngọn lá. Mọi vật dường như đang say sưa với giấc ngủ sau một ngày dài, cả tôi và những người đồng đội cũng yên giấc ngủ say. Ấy vậy mà khi tôi trở mình tỉnh giấc, lại thấy “người cha già” ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm với những nếp nhăn sâu hơn trên vầng trán rộng. Bác khơi cho đám lửa cháy bùng lên, hơi ấm lan tỏa khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác nhón chân nhẹ nhàng đi dém chăn cho từng người từng người một như sợ chỉ một tiếng động nhỏ sẽ làm cho chúng tôi tỉnh giấc. Bác ân cần săn sóc như người mẹ già chăm lo, yêu thương đàn con nhỏ, sợ chúng bị lạnh, bị ốm đau.
Từng cử chỉ, hành động của Bác càng sưởi ấm trái tim tôi, trong lòng tôi trào lên niềm yêu thương và biết ơn vô hạn, tôi cảm thấy mình được bao bọc, che chở dưới đôi cách rộng lớn tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi buồ hồi, rưng rưng trong niềm xúc động, rồi tôi thì thầm hỏi Bác:
- Bác ơi! Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không?
Bác ân cần nói:
- Chú cứ việc ngủ ngon để ngày mai đi đánh giặc.
Lòng tôi bồn chồn nhưng vẫn nghe theo lời Bác nhắm mắt ngủ. Trong cơn mơ màng, tôi lo Bác bị ốm, mệt mỏi bởi chiến dịch vẫn còn dài, còn nhiều khó khắn, Bác mà ốm thì lấy sức đâu mà chiến đấu với quân thù.
Tôi hốt hoảng, giật mình sau lần thứ ba thức giấc. Bác vẫn ngồi đó, bên bếp lửa hồng đang cháy rực, chòm râu im phăng phắc tựa như pho tượng vậy. Đôi mắt sáng trĩu nặng suy tư, đăm đăm nhìn bếp lửa. Lòng tôi đau xót, lo lắng lên tiếng:
- Bác ơi! Bác ngủ đi ạ. Trời sắm sáng mất rồi.
Giọng Bác trầm ngâm vang lên trong không gian:
- Chú cứ ngủ đi, đừng bận tâm về Bác. Ngày mai quân ta phải ra trận, Bác lại không yêu lòng. Bác thương mọi người đêm nay ngủ ngoài rừng, không có tấm chăn, chiếc gối, lại phải lấy lá cây làm chiếu, manh áo mỏng làm chăn. Trời mưa như thế này làm sao mà khỏi ướt, Bác chỉ mòng cho trời sáng mau mau để mọi người đỡ khổ.
Nghe Bác nói, lòng tôi càng thêm yêu quý Bác. Người lo cho chiến sĩ dẫn công, lo cho cuộc chiến dịch ngày mai. Tình thương của Người bao trùm lên đất nước và dân tộc.
Tôi vui sướng, tự hào vì là một người chiến sĩ dưới lá cờ Tổ quốc. Bác khơi dậy trong tôi tình yêu Tổ quốc, đồng bào, đồng đội. Vậy nên làm sao tôi có thể tiếp tục ngủ yêu trong chiếc chăn ấm áp cạnh ngọn lửa hồng trong khi dân tộc đang chịu bao gian khổ, tôi xin thức luôn cùng Bác. Ngọn lửa lại càng cháy rực như hiểu được lòng tôi, sau một đêm bên cạnh Bác Hồ, tôi càng quyết tâm cùng những đồng đội của mình dành lại đọc lập tự do cho Tổ quốc.