Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nội dung cải cách:
Ngay từ khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.
a) Về chính trị:
- Cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải họ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.
- Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.
- Đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.
b) Về kinh tế tài chính:
- Phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng.
- Ban hành chính sách hạn điền.
- Quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.
c) Về xã hội:
- Ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.
- Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.
d) Về văn hoá, giáo dục:
- Bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.
- Cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ.
- Sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.
e) Về quân sự: thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.
Nhận xét:
- Trong tình trạng đất nước khủng hoảng, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn khởi xướng và tiến hành hàng loạt các chính sách cải cách trên nhiều mặt. Cuộc cải cách của ông có nhiều mặt tiến bộ giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
=> Ông là một nhà yêu nước có tài năng, có hoài bão, tiến bộ, là một trong những nhà cải cách nổi tiếng trong lịch sử nước ta thời phong kiến.
- Hạn chế và sai lầm lớn nhất của ông là để đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh do đường lối kháng chiến sai lầm và cũng do những hạn chế trong cuộc cải cách của ông
Nội dung cải cách:
Ngay từ khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.
a) Về chính trị:
- Cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải họ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.
- Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.
- Đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.
b) Về kinh tế tài chính:
- Phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng.
- Ban hành chính sách hạn điền.
- Quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.
c) Về xã hội:
- Ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.
- Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.
d) Về văn hoá, giáo dục:
- Bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.
- Cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ.
- Sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.
e) Về quân sự: thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.
Nhận xét:
- Trong tình trạng đất nước khủng hoảng, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn khởi xướng và tiến hành hàng loạt các chính sách cải cách trên nhiều mặt. Cuộc cải cách của ông có nhiều mặt tiến bộ giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
=> Ông là một nhà yêu nước có tài năng, có hoài bão, tiến bộ, là một trong những nhà cải cách nổi tiếng trong lịch sử nước ta thời phong kiến.
- Hạn chế và sai lầm lớn nhất của ông là để đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh do đường lối kháng chiến sai lầm và cũng do những hạn chế trong cuộc cải cách của ông
- Hồ Quý Ly là một nhà yêu nước có tài năng, có hoài bão, tiến bộ, là một trong những nhà cải cách nổi tiếng trong lịch sử nước ta thời phong kiến.
- Tuy nhiên những cải cách đó không phù hợp với hoàn cảnh -> thất bại.
- Có năng lực nhưng không được lòng dân và để mất nước vào tay giặc Minh
Em tham khảo:
những cải cách của Hồ Quý Ly khá toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, bao gồm cả thời gian trước và sau khi nhà Hồ được thành lập.
Lời giải:
Nhận xét về những cải cách của Hồ Quý Ly:
- Trong tình trạng đất nước khủng hoảng, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn khởi xướng và tiến hành hàng loạt các chính sách cải cách trên nhiều mặt.
- Cuộc cải cách đã đánh đúng vào những vấn đề căn bản của xã hội lúc bấy giờ là vấn đề quan lại, ruộng đất, lực lượng sản xuất
- Tuy nhiên một số chính sách chưa được thực hiện triệt để (gia nô, nô tì được giải phóng thân phận), chưa giải quyết được đông đảo yêu cầu bức thiết của đông đảo nhân dân
Đáp án cần chọn là: D
- Về chính trị ông cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần bằng những người có tài năng và thân cận với mình, đổi tên một số đơn vị hành chính.
- Về quân sự ông thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường, củng cố quân sự và quốc phòng để đề phòng giặc ngoại xâm.
- Về kinh tế, xã hội: Ông đặt lại hạn nộp đất canh tác. Hạn chế hạn nô.
- Về văn hóa, giáo dục : Ông bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục. Sửa đổi chế độ thi cử
+ Giai đoạn đầu nhà Trần, thể chế chính trị vững chắc là nhờ “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục”. Vua anh minh, cần mẫn, tôi tận tụy, liêm trung. Chính lệnh “lúc thường thì khoan sức cho dân’. Điều này đã tạo cho nhà Trần một sự hưng thịnh vào giai đoạn đầu.
+ Từ khi Trần Dụ Tông lên ngôi:
Đối với vua thì ăn chơi vô độ khiến triều đình bạc nhược.Vua Dụ Tông sai đào hồ lớn ở vườn ngự, chất đá làm núi, bắt đào kênh thông với sông lớn để lấy nước vào làm chổ vui chơi,… Trộm cướp không trừa ai, cướp bóc cả vua (ví dụ: năm 1366,vua Dụ Tông ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thúy úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở, đến canh ba mới về. Khi tới sông Chữ Gia, bị cướp mất ấn báu).
Điều này đã làm xuất hiện hàng loạt tên nịnh thần và việc triều chính bị lũng đoạn đã gây ra những biến cố lớn như: Chúa Chiêm là Chế Bồng Nga đem dâng lên vua 10 mâm vàng. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm. Quyết ý thân chinh. Phải chăng đây cũng là một nguyên nhân khiến quan hệ Việt - Chiêm càng xấu đi trong giai đoạn cuối Trần. Đồng thời trong triều không có vua càng tạo cơ hội cho bọn nịnh thần lộng hành.
Trước hoàn cảnh ấy những những hiền thần đã nhiều lần dâng sớ để khuyên vua có những sự điều chỉnh mà vua không chịu nghe như Chu Văn An khuyên Dụ Tông không nghe bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần…Sớ dâng lên nhưng không dược trả lời nên ông đã trả ấn từ quan về quê. Còn Trần Nguyên Đán thì lui về Côn Sơn trí sĩ để tránh mối họa sau này.
Khủng hoảng cung trình cũng đã xẩy ra nghiêm trọng đến hai lần:
Lần thứ nhất là khi Hiến từ Hoàng Thái Hậu đưa Dương Nhật Lễ, con của người làm trò (tên là Dương Khương) lên ngôi. Nhật Lễ tiếm vị, rượu chè dâm dật, hàng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ dương. Nhà trần mất ngôi hơn một năm (từ tháng 6 – 1369 đến tháng 10 – 1370). Đến tháng 10 – 1370, cuộc hội quân của hoàng gia có Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán, Cung tuyên Vương Kính cùng công chúa Ngọc Tha…tham gia, đã từ Đại Lại Thanh Hóa kéo về Thăng Long dành lại ngôi vua.
Lần thứ hai là sau khi Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành bị tử trận, Đế Hiện lên thay rồi bị phế (Phế Đế). Thuận Tông lên ngôi rồi bị giết. Thiếu Đế lên thay được hai năm, nhà Trần bị diệt. Ngôi vua về tay Hồ Quý Ly.
+ Sự khủng hoảng kinh tế, văn hóa – xã hội
Cuối nhà Trần bộc lộ những mâu thuẫn:
Mâu thuẫn giữa yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất đã được nhà nước Trần thừa nhận từ đầu thế kỷ XIII (khi nhà Trần cho phép bán ruộng công thành ruộng tư) với chế độ công hữu về đất đai vẫn được bảo tồn nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện rõ ở việc bãi lệ “Sa châu tiệt cước” vào năm 1379.
Mâu thuẫn giữa sự chiếm hữu lớn về đất đai và sức lao động nô lệ gia đình (gia nô, nô tì của phong kiến) với sở hữu vừa và nhỏ của địa chủ bình dân và địa chủ quan liêu mới phát triển. Chính điều này đã dẫn đến đòi hỏi là sức lao động cần được giải phóng để tạo ra những người lao động tự do. Nhưng hoàn cảnh cuối thời Trần đã không đáp ứng được điều này.
Bao trùm nhất là mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển đến chừng mực nhất định trong thời thịnh Trần với kinh tế còn bảo lưu phương thức sản xuất châu Á có tính đặc thù Việt Nam là chế độ nô lệ gia đình, chế độ điền trang thái ấp của quý tộc và việc bảo tồn ruộng đất công hữu.
Do vua ăn chơi, không quan tâm đến phát triển kinh tế. Đồng thời lại thu thuế nặng nề nhất là vào thời Phế Đế như vào năm 1378 đang có việc dùng binh nhưng kho tàng trống rỗng. Đỗ Tử Bình kiến nghị thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền. Vua đã nghe theo. Trước chỉ có thuế ruộng nay có cả thuế đinh. Đièu này đã làm cho những người nông dân đã khổ nay lại cành khổ hơn.Do đó đã diễn ra rất nhiều cuộc đấu trang của nông dân như khỡi nghĩa Ngô Bệ (khởi nghĩa tồn tại trong 10 năm),
+Khủng hoảng tư tưởng phong kiến:
Tư tưởng phong kiến mang nặng tàn dư phương thức sản xuất châu Á lấy phật giáo làm quốc giáo, từng phát huy tác dụng ỏe thời lý, thời thịnh trần nay không còn thích hợp với sự thay đổi của kinh tế - xã hội đang rơi vào khủng hoảng. chế độ phong kiến theo tống nho đang hình thành đã tấn công vào hệ tư tưởng phong kến quý tộc mà nghệ tông đã ra sức bảo vệ.
Nghệ Tông còn phê phán bọn tống nho có xu hướng phong kiến quan liêu là “bọn học trò mặt trắng” : khoảng năm đại trị, bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép củ của tổ tông thay đổi theo tục phương bắc cả, như về y phục, âm nhạc,…Thật không kể xiết.
Nhưng dầu Nghệ Tông có phê phán thì khổng giáo vẫn ngày càng đóngvai trò quốc giáo. Trong khi đó, phật giáo lại luôn bị các nhà khoa bảng tống nho chỉ trích. Tiêu biểu là sự chỉ trích của trương hán siêu và lê quát.
Năm 1354, Trương Hán Siêu đã từng phê phán phật giáo đề cao nho giáo: “chùa bỏ ooiflaij xây, đã chẳng phải ý muốn của ta. Dựng bia rồi khắc chữ, ta biết nói chuyện gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá phong hóa nhà vua, để chấn hưng phong tục đang bị suy đồi, dị đoan đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm sĩ đại phu, không phải đạo nghiêu thuấn thì không trình bày, không phải đạo khổng tử thì không trước thuật. thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện phật, ta định lừa dối ai đây?”
Sự phát triển kinh tế xã hội kể trên đã dẫn đến một tất yếu là phong kiến quan liêu tống nho sẽ thắng phong kiến quý tộc phật giáo.
+Yếu tố chủ quan
Sử cũ chép lại lại lịch của Hồ Quý Ly không rõ ràng về năm sinh và năm mất, nhưng lại hgi khá đầy đủ những chi tiết về nhân vật Hồ Quý Ly trên chính trường Trần mạt vào cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV.Ông tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc. Từ đời Ngũ Quý (907-959) sang bên ta, lập ấp tại làng Bào Đột thuộc Diễn Châu (Nghệ An) sau chuyển ra Thanh Hóa, làm con nuôi của Lê Huấn.
Tháng 3 năm 1371 Hồ Quý Ly được phong làm Khu mật viện Đại sứ. Đến tháng 9 cùng năm lại được phong làm Trung tuyên Quốc thượng hầu.
Trong tình đất nước luôn bị Chiêm Thành đánh phá thì yêu cầu đòi hỏi một người có khả năng và quyền lực để nhận lãnh sứ mệnh giúp Vua làm việc nước, chống ngoại xâm và người đó chính là Hồ Quý Ly. Ông xuất hiện như là một người trung hòa trong mâu thuẫn giữa phong kiến quý tộc và phong kiến quan liêu, bởi vì ông vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến quý tộc vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến quan liêu. Là quý tộc ông đang là người có quyền thế nhất trong đám hoàng thân quốc thích, có hai bà cô là Hoàng hậu vợ Minh Tông, vợ Quý Ly lại là Công chúa; là quan liêu, ông thuộc giới quan liêu ngoại tộc, có tinh thần cải cách, đã có một số thể nghiệm được giới quan liêu chấp nhận.
Họa ngoại xâm
Bắt đầu từ việc triều Minh coi Đại Việt là cảu mình: Năm 1370, cho Diêm Nguyên Phục đến tế thần núi Tản Viên và các thủy thần sông Lô…Vào kinh thành nước ta làm lễ tế xong khắc bài văn vào bia đá ghi việc đó.
Tiếp theo là các yêu sách như “Đòi Đại Việt cấp lương cho binh lính Minh đóng ở Lâm An (Vân Nam). Lần này vua Trần sai vận tải 5000 thạch lương đưa đến đầu địa phận huyện Thụy Vĩ (thuộc tỉnh Lào Cai) giao nộp. trong chuyến vận tải này, quan quân ta vì nhiễm lam sơn chướng khí, bị bệnh chết khá nhiều. Đến năm 1385, nhà Minh lại sai sứ sang đòi ta nộp 20 nhà sư. Vua ta phải lo tuyển đủ để đưa sang Kinh Lăng giao nộp.
Lập lại âm mưu của nhà Nguyên một trăm năm trước, nhà Minh lại đòi mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành và đòi nhà Trần phải cung cấp đầy đủ cho chúng 50 thớt voi, đặt các cung trạm dọc đường từ phủ Nghệ An trỏ ra, ở mỗi trạm đều phải có sẵn lương thảo cho voi trên đường sang Vân Nam.
Đụng độ với Chiêm Thành diễn ra dồn dập chưa từng có. Nếu từ cuộc Trần Anh Tông đưa quân chinh phạt người Chiêm “phản trắc” năm 1312 đến hết năm 1341 khi Dụ Tông lên ngôi, trong khoảng 30 năm chỉ có hai lần phải đi chinh phạt Chiêm Thành (một của Huệ Vũ Vương vào năm 1318 và của Huệ Túc Vương vào năm 1326), thì từ cuộc cử quân đi đánh Chiêm Thành nhằm đưa Chế Mỗ về nước nhưng không thành công vào năm 1353 trở đi đến cuộc đánh thắng Chế Bồng Nga vào năm 1390, trong khoảng gần 40 năm mà đã có tới mười sáu lần quân Đại Việt đụng độ với quân Chiêm Thành. Trong đó có ba lần quân Chiêm Thành đã đánh vào tận thành Thăng Long. Hai lần vua tôi phải bỏ thành lánh nạn (1371,1383) – một điều chưa bao giờ diễn ra trong quan hệ Đại Việt – Chiêm Thành.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa nho sĩ và quý tộc phong kiến. Tầng lớp Nho sĩ lúc này đang phát triển, trong khi quý tộc phong kiến lại kìm hãm sự phát triển đó. Quý tộc phong kiến nắm một lượng lớn ruộng đất và nông nô, kìm hãm sự phát triển của xã hội
Phần II: NỘI DUNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH
I. Cải cách hành chính
Cùng với quá trình đi lên con đường chính trị Hồ Quý Ly từng bước thực hiện những cải cách hành chính trên một số lĩnh vực
Về tổ chức hành chính: Từ năm 1375, khi được giao chức tham mưu quân sự, Quý Ly đã đề nghị chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyệ tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân.
Từ năm 1397, Hồ quý Ly đã đổi một số lộ ở xa thành trấn như: Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô, Quốc Oai thành trấn Quãng Oai, Diễn Châu đổi thành trấn Vọng Giang,… và nâng một số châu lên thành lộ. Ở các lộ thống nhất việc chỉ huy quân sự và hành chính trong tay những quan chức gọi là Đô hộ, Đô thống, Tổng quản do các đại thần nắm. Các lộ vẫn đặt chánh, phó An phủ sứ như cũ, ở phủ đặt chánh, phó Trấn phủ như cũ; ở châu đặt Thông phán và Thiên phán; ở huyện đặt lệnh úy và chủ bạ, bỏ đại tiểu, tư xã và giữ giáp như cũ. Ở các trấn việc việc cai trị nặng nề mang tính chất quân sự. Để tăng cường giao thông liên lạc giữa trung ương và địa phương, các hệ thống trạm dịch được bổ sung. Để bảo đảm an ninh ở mỗi lộ có đặt chức liêm phóng sứ- một chức quan chuyên trông coi việc dò xét tình hình, trông coi bộ máy mật thám và dò la tin tức. Đồng thời quy định chế độ làm việc: “lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng dều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét.
Khu vực quanh thành Thăng Long được Hồ Quý Ly đổi thành Đông Đô lộ do phủ đô hộ cai quản. Hồ quý Ly cho dời đô về An Tôn (Tây Đô). Cùng năm này Hồ Quý Ly cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn( Vĩnh Tôn- Thanh Hóa), để lại cho đời sau một công trình kiến trúc lớn, tục gọi là thành nhà Hồ.
Hồ Quý Ly cũng định cách thức mũ và phẩm phục của các quan văn võ: Nhất phẩm màu áo tía, nhị phẩm áo màu đại hồng, tam phẩm áo màu hoa đào, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm trở xuống màu xanh biếc. Chế độ Thái thượng hoàng được bãi bỏ cuối thời trần, nhưng đến khi nhà trần thành lập, năm 1404 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự xưng là Thái Thượng hoàng.
Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.
Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.
Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.
Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.
Ngay từ khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.
- Về chính trị, ông cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải họ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.
+, Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.
+, Hồ Quý Ly đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.
-Về kinh tế tài chính, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng, ban hành chính sách hạn điền, quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.
- Về xã hội, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.
+, Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.
- Về văn hoá, giáo dục, Hồ Quý Ly bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục, cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ. Ông cũng sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.
- Về quân sự, để đề phòng giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly đã thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.
Tác dụng:
- Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Hạn chế:
- Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.
Bài 1: Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân
Bài 2: Bạn tham khảo phần đầu ở : Hồ Quý Ly và những cải cách của ông
Tích cực :
Cải cách của Hồ Quý Ly có nhiều điểm tiến bộ đã :
+ Góp phần củng cố quyền lực của chính quyền trung ương . Giảm bớt thế lực tầng lớp quý tộc
+ Tăng cường tiềm lực kinh tế đất nước và phát triển văn hóa dân tộc
Hạn chế :
+ Những cải cách đó vẫn còn chưa triệt để và kết quả trong thực tế còn hạn chế
Hồ Quý Ly đã thực thi được cải cách mạnh mẽ trên nhiều linh vực :
nông nghiệp , chính trị , quân sự , xã hội , kinh tế , văn hóa , giáo dục
Trước những yêu cầu khách quan của xã hội thời Trần với mong muốn cứu vãng tình thế Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực: chính trị quân sự, kinh tế -xã hội và văn- hóa giáo dục….
1. Trên lĩnh vực chính trị- quân sự :
Hồ Quý Ly đã cho cải tổ lại bộ máy chỉ huy quân sự lúc bấy giờ:tổ chức các kì thi xác hạch nhân tài, tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội như đưa vào đội ngũ những người khỏe mạnh và giảm bớt người yếu
Năm 1375 Hồ Quý Ly đã đề nghị “chọn các viên quan người nào có tài năng luyện tập võ nghệ thông hiểu thao lược thì không cử là tôn thất, đều cho làm tương coi quân”
Năm 1397 thay đổi một số lộ trấn trấn và quy định về cơ chế làm việc: “lộ coi phủ,phủ coi châu, châu coi huyện”.
Hồ Quý Ly cho xây dựng một kinh thành ở An Tôn (Vĩnh Phúc, Thanh Hóa) còn gọi là Thành Nhà Hồ
Tăng cường củng cố sức mạnh quân sự quốc phòng Hồ Quý Ly đã cho cải tiến các loại vũ khí tiêu biểu là Hồ Nguyên Trừng (con của Hồ Quý Ly ) đã chế tạo ra súng thần cơ, thuyền chiến cổ lâu đi biển.
Hồ Quý Ly đặt lệ cử quan ở Tam quán và Nội nhân , đi về các lộ thăm hỏi cuộc sống nhân dân và tình hình quan lại để thăng giáng cho hợp lý (năm1400).
2. Trên lĩnh vực tài chính- kinh tế và xã hội
2.1 Tài chính:
Năm 1396, Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy thu hồi hết các loại tiền đồng gọi là “thông bảo hội sao” có 7 loại hình vẽ khác nhau. Nhà nước quy định làm giả phải tội chết, 1 quan tiền đồng đổi được 1 quan 2 tiền giấy, ai dùng tiền đồng bị bắt cung bị tội như làm giả. Trước phản ứng của nhân dân, năm 1403 nhà Hồ ban điều luật về tội không tiêu tiền giấy, nâng giá hàng và đóng cửa hàng, đặt chức thi giám, ban mẫu về công thước thương đấu.
Năm 1402 Hồ Quý Ly cho định lại thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ đánh vào những người có ruộng được chia, còn không phải đóng thuế đinh đó là người không ruộng,trẻ mồ côi, đàn bà góa. Và thuế được đánh theo lũy tiến : người có 5 sào ruộng nộp 5 tiền, có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan..
2.2 Về kinh tế :
Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền vào năm 1397. Tất cả mọi người từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa:10 mẫu) trừ đại vương và trưởng công chúa. Người nào nhiều ruộng thì được phép lấy ruộng chuột tội còn ruộng thừa thì sung công.
Năm 1398 Hồ Quý Ly đã cho quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất với mục đích là để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền. Những ai có ruộng tư thi phải kê khai rõ số ruộng và phải cắm thẻ ghi tên của mình trên mảnh ruộng đó. Nếu sau 5 năm ruộng nào không có ai nhận thì nhà nước sung công.
2.3 Về xã hội:
Hồ Quý Ly chú trọng đến phép hạn nô. Năm 1401 Hồ Quý Ly quy định các quan lại , quí tộc theo các phẩm cấp chỉ được nuôi một số nô tì, nông nô nhất định số thừa ra sẽ sung công. Nhà nước đền bù 5 quan tiền cho 1 gia nô trừ loại mới nuôi với gia nô nước ngoài , các gia nô còn lại thị phải ghi dấu hiệu ở trên trán theo tước hiệu của chủ. Cho làm lại sổ hộ và biên hết tên những người từ 2 tuổi trở lên những dân phiêu tán thì không được ghi vào sổ còn các dân kinh thành sống ở các phiên trấn phải trở về quê quán.
Nhà Hồ đã đưa những người có của mà không có ruộng biên vào quân ngũ ở lại trấn giữ lâu đài khi đánh chiếm được vùng đất Hóa Châu đến Cổ Lũy vào năm 1403 và sau đó gọi nhà giàu nộp tâu vào đây.
Nhà Hồ đã cho quan địa phương khám xét nhà giàu có thừa thóc, bắt phải bán thóc cho dân đói theo thời giá, khi nạn đói xảy ra năm 1403 đồng thời đặt quản tế thự để chữa bệnh cho nhân dân
3. Trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục :
Hồ Quý Ly đã cho chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo đề cao Nho giáo và hạn chế Phật giáo, Đạo giáo. Năm 1396 Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi bắt họ phải Hồ Quý Ly hoàn tục vị nho giáo thực dụng chống giáo điều kết hợp với tinh thần pháp gia. Năm 1392 soạn sách” minh đạo” bàn về Nho giáo, phê phán thói giáo điều của Nho Hàn Dũ , Chu Đôn Di, Trình Hiệu La “trộm Nho” và đề Cao Chu Công. Ngăn cấm và xử phạt nặng những người làm nghề thương thuật.
Người có ý thức đề cao chữ Nôm, từ đó cho nên ông đã tự mình dịch “Thiên Vô Dật” để dạy cho vua Trần Nhuận Tông và dịch sách Kinh thi để cho các nữ quan dạy các phi tần, cung nữ.
Hồ Quý Ly rất quan tâm đến giáo dục và thi cử. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa lại chế độ thi cử đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Những người đã thi hội thì phải làm thêm một bài văn do vua đề ra để định vị thứ bậc. Ông đã bỏ trường thi ám tả cổ văn thay bằng thi kinh nghĩa trong 4 trường thi. Ông đã đặt thêm trường thứ 5 thi viết chữ và toán.
Ngay sau khi mới lên ngôi ông mở khoa thi hội lấy đỗ 20 người trong đó có Nguyễn Trãi Nhà sử học Ngô Thời Sĩ “phép khoa cử đến đây mới đủ văn tự 4 trường, đến nay còn theo , không thay đổi được”. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã đề nghị đặt học quan ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông.
Tham kharo
- Hồ Quý Ly là một nhà yêu nước có tài năng, có hoài bão, tiến bộ, là một trong những nhà cải cách nổi tiếng trong lịch sử nước ta thời phong kiến.
- Tuy nhiên những cải cách đó không phù hợp với hoàn cảnh -> thất bại.
- Có năng lực nhưng không được lòng dân và để mất nước vào tay giặc Minh