Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Chính sách cai trị về văn hóa là thâm hiểm nhất vì các triều đại phong kiến phương Bắc muốn để thực hiện mưu đồ biến nước ta thành một phần lãnh thổ phương Bắc, từng bước xóa bỏ những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, các triều đại phương Bắc đã thực hiện chính sách đồng hóa về văn hóa
Kinh tế là chính sách tàn bạo nhất vì đã đẩy cuộc sống người dân Việt vào cuộc sống vô cùng khổ cực thông qua cống nạp và thuế khóa

TK:
- Những hình thức bóc lột chủ yếu của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc: + Sử dụng chế độ tô thuế. + Bắt cống nạp sản vật quý (ngọc minh cơ, sừng tê, ngà voi, đồi mồi...). + Nắm độc quyền về sắt và muối đối với người Việt.
Về kinh tế:
- Những hình thức bóc lột chủ yếu của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc:
+ Sử dụng chế độ tô thuế.
+ Bắt cống nạp sản vật quý (ngọc minh cơ, sừng tê, ngà voi, đồi mồi...).
+ Nắm độc quyền về sắt và muối đối với người Việt.
Về xã hội và văn hóa:
- Chính sách cai trị về văn hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc:
+ Mở trường lớp dạy chữ Hán
+ Áp dụng luật Hán.
+ Tìm cách truyền bá văn hóa, phong tục phương Bắc.
- Nho giáo, tư tưởng lễ giáo phong kiến Trung Quốc được truyền bá vào Việt Nam.
- Tuy nhiên, việc dạy chữ chỉ giới hạn trong một số ít người ở các vùng trung tâm. Cả ngàn năm Bắc thuộc, số người Việt được trọng dụng chỉ là thiểu số.

7 : Lực lượng chủ yếu lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh chống lại sự cai trị của các tiều đại phương Bắc là
A. nông dân. C. địa chủ người Việt.
B. hào trưởng người Việt. D. lạc tướng.
Câu 8: Trong thời Bắc thuộc, tầng lớp hào trưởng bản địa có nguồn gốc từ
A. nông dân. C. địa chủ người Hán.
B. hào trưởng người Việt. D. quý tộc trong xã hội Âu Lạc cũ.

7 : Lực lượng chủ yếu lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh chống lại sự cai trị của các tiều đại phương Bắc là
A. nông dân. C. địa chủ người Việt.
B. hào trưởng người Việt. D. lạc tướng.
Câu 8: Trong thời Bắc thuộc, tầng lớp hào trưởng bản địa có nguồn gốc từ
A. nông dân. C. địa chủ người Hán.
B. hào trưởng người Việt. D. quý tộc trong xã hội Âu Lạc cũ.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ có ý nghĩa và vai trò rất lớn đối với nhân dân thời bấy giờ nói riêng và nhân dân cả nước Việt Nam ta nói chung .Đó là cuộc đâu tranh giành độc lập của Việt Nam thoát khỏi chế độ thực dân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh lực lượng cách mạng của quân dân ta đã giành chiến thắng .Ngày 7 tháng 5 năm 1945 ta giành thắng lợi toàn bộ ban tham mưu của địch phải ra đồ hàng .
Vào ngày 7 tháng năm 2-14 , Việt Nam chào mừng lễ kỉ niệm 80 năm chiến thắng đã chắm dứt chế độ cai trị của Pháp tại Đông Dương .Có thể nói ,chiến thắng Điện Biến Phủ là điểm bước ngoặt trong lịch sử . Đó không chỉ là thắng lợi cho Việt Nam , mà còn được chào đón tại nhiều đất nước khác trên thế giới .Nói đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp kính yêu của chúng ta ,là một huyền thoại , là một cách tay phải đắc lực của Bác .Đại tướng là người lên kế hoạch và trực tiếp chỉ huy trận đánh .Nhớ lời căn dặn của Bác khi ở ở Việt Bắc đại tướng cố làm theo đánh chắc thắng, không chắc, không đánh .Nên Đại tướng suy đi tính lại rất tỉ mỉ và thấu đáo .Vì từng câu nói ,từng suy nghĩ , từng hành động của đại đướng đưa là cả một vấn đề quan trọng , biết bao sức người , sức của đổ ra .
Một lần nữa ta lại khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ta đã gìanh thắng lợi vẻ vang . Quay về hiện tại ,Điện Biên Phủ vẫn luôn có ý nghĩa quan trọng và cũng là dịp để suy tư về cuộc sống đời thường .Đánh thức tinh thần Điện Biên Phủ để làm phấn khởi xã hội hiện nay tại Việt Nam là chủ đề lặp đi lặp lại trong các diễn văn của tướng Giáp .
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ có ý nghĩa và vai trò rất lớn đối với nhân dân thời bấy giờ nói riêng và nhân dân cả nước Việt Nam ta nói chung .Nó là một cuộc đâu tranh giành độc lập của Việt Nam thoát khỏi chế độ thực dân Pháp đạt đến đỉnh điểm trong một các trận đánh hùng tráng nhất thế kỉ - cuộc bao vây 56 ngày ở Điện Biên Phủ . Dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh lực lượng cách mạng của quân dân ta đã giành chiến thắng .Này 7 tháng 5 năm 1945 ta giành thắng lợi toàn bộ ban tham mưu của địch phải ra đồ hàng .Vào ngày 7 tháng năm 2-14 , Việt Nam ta chào mừng lễ kỉ niệm 80 nắm chiến thắng đã chắm dứt chê độ cai trị của Pháp tại Đông Dương .Có thế nói ,chiến thắng Điện Biến Phủ là điểm bước ngoặt trong lịch sử . Đó không chỉ là thắng lợi cho Việt Nam , mà còn đc chào đón tại nhiều thuộc địa khác .Cái tên này đã trở thành ẩn dụ cho một chiến thắng vĩ đại trong các ngôn ngữ khác .Nói đến Đại tướng Vó Nguyên Giáp kính yêu của chúng ta ,là một huyền thoại , là một cách tay phải đắc lực của Bác .Đại tướng là người lên kế hoạch và trực tiếp chỉ huy trận đánh .Nhớ lời căn dặn của Bác khi ở ở Việt Bắc đại tướng cố làm theo đánh chắc thắng k chắc k đánh .Nên Đại tướng suy đi tính lại rất tỉ mỉ và thấu đáo .Vì từng câu nói ,từng suy nghĩ , từng hành động của đại đướng đưa là cả một vấn đề quan trọng , biết bao sức ng , sức của đổ ra sẽ trở thành con số 0 .Một lần nữa ta lại khẳng định dưới sự lanh đạo của Đảng và Nhà nước mà ta đã gìanh thắng lợi vẻ vang chói lọi .Quay về hiện tại ,Điện Biên Phủ vẫn luôn có ý nghĩa quan trọng và cũng là dịp để suy tư về cuộc sống đời thường .Đánh thức tinh thần Điện Biên Phủ để làm phấn khởi xã hội hiện nay tại Việt Nam là chủ đề lặp đi lặp lại trong các diễn văn của tướng Giáp .Nhưng từ cái nhìn của nhiều trí thức và cựu chiến binh, điều này phụ thuộc vào việc làm tái sinh sự quan tâm dành cho công bằng xã hội và giải quyết khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng .
Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, hay Chiến dịch Léa theo cách gọi của người Pháp, là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương. Chiến dịch này được xem là chiến thắng lớn đầu tiên của phe Việt Minh trong cuộc chiến, làm thất bại chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp.[4]
Chiến dịch này đã ghi dấu thất bại của Pháp trong việc tiêu diệt đầu não kháng chiến và quân chủ lực của Việt Minh.[4]
Mục lục
Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động và tầm quan sát, khả năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành tác chiến lớn phải theo mùa... nên ngay từ tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Phạm Văn Đồng và Nguyễn Lương Bằng ở lại Tân Trào một thời gian, trực tiếp chỉ đạo củng cố khu căn cứ của Trung ương.
Đến cuối tháng 10 năm 1946 (trước ngày Toàn quốc kháng chiến), thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Các huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn), Chiêm Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên), được chọn làm An toàn khu (ATK). Bắt đầu từ tháng 11 năm 1946, để bảo toàn lực lượng, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần lượt rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.
Đầu năm 1947, sau khi giải pháp chính trị lập chính phủ bù nhìn bế tắc, thực dân Pháp đã quyết định dùng quân sự để giải quyết vấn đề Chiến tranh Đông Dương. Tướng Salan được chính phủ Pháp cử sang Bắc kỳ thay thế đại tá Dèbes trong chức vụ Chỉ huy quân lực Pháp ở Bắc Đông Dương. Tướng Valluy vẫn giữ chức Chỉ huy tối cao quân đội viễn chinh thay thế Leclerc từ hồi tháng 6 năm1946.
Tướng Jean-Etienne Valluy (Valuy) – Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương đã giao cho tướng Raoul Salan (Xalăng) – Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương gấp rút chuẩn bị "Kế hoạch tấn công Việt Bắc". Valluy và Salan nghiên cứu một cuộc hành quân đại quy mô vào vùng Việt Bắc mục đích phá vỡ các tổ chức quân sự dân sự của Việt minh, lùng bắt chính phủ Hồ Chí Minh và đặt các căn cứ kiểm soát vùng biên giới Hoa - Việt.
Sau khi chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ và các đô thị lớn tại miền Bắc, theo chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh", quân Pháp mở cuộc tấn công mới lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh đang đóng tại đây, hoàn tất việc tái chiếm Đông Dương.
Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước[5]:
Cuộc hành quân mệnh danh là LÉA, lấy tên một ngọn đèo cao 1362 mét trên đường thuộc địa số 3 giữa Bắc Kạn và Cao Bằng. Mục tiêu của Pháp là: "Diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh, tìm diệt chủ lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên giới Việt–Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và loại trừ mọi chi viện từ bên ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ…"[6]
Lực lượng hai bên[sửa | sửa mã nguồn]
Lực lượng Pháp tham gia tiến công trên 15 nghìn quân, gồm:
Về phía Việt Minh, lực lượng quân đội trên toàn quốc có 105.990 người (Bắc Bộ có 45.802 người); biên chế thành 20 trung đoàn, có hai trung đoàn 147 và 165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị của các đơn vị đều thiếu thốn và không thống nhất, có gì dùng nấy. Một tiểu đoàn thường chỉ được trang bị tương đương với 1 đại đội của Pháp, với 2 đại liên, 1-2 súng cối 60mm, tám trung liên, 140 đến 160 súng trường đủ các kiểu (Nhật, Nga, Pháp); hơn một nửa quân số phải dùng các vũ khí thô sơ như súng kíp tự chế và cả gươm giáo, cung tên... Chỉ có một số tiểu đoàn của Bộ là có pháo 20mm, trọng liên 13,2 mm, 12,7 mm và súng cối 81mm. Vũ khí chống tăng thì rất thô sơ (chỉ có duy nhất 2 thứ đó là lựu đạn và bom ba càng), xe cơ giới và phi cơ thì không hề có.
Bộ đội và cán bộ chỉ huy các cấp chưa được huấn luyện thành thục về kỹ thuật, chiến thuật. Trình độ và khả năng chiến đấu giữa các đơn vị không đồng đều. Trừ Trung đoàn Thủ đô và Trung đoàn Lạng Sơn đã được thử thách qua chiến đấu, phần lớn các đơn vị còn lại chưa hề qua chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ, tình hình trang bị không cho phép tiến hành những trận đánh lớn. Các binh chủng pháo binh, công binh chưa được tổ chức thành đơn vị. Phương tiện thông tin liên lạc và vận tải thiếu nhiều, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Chỉ có Bộ, Khu và trung đoàn là có vô tuyến điện, từ tiểu đoàn trở xuống liên lạc bằng chạy chân và tín hiệu thủ công. Cung cấp, tiếp tế hậu cần rất khó khăn, chủ yếu dựa vào chính quyền và nhân dân địa phương. Điểm mạnh duy nhất là tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian khổ hy sinh của bộ đội và sự hỗ trợ, đùm bọc của nhân dân địa phương.
Riêng trên địa bàn chiến dịch, Việt Minh có 7 trung đoàn bộ binh, tổng cộng 18 tiểu đoàn chủ lực (trong đó có hai tiểu đoàn của Bộ), 30 đại đội độc lập, 4.228 dân quân du kích tập trung; ngoài ra còn có lực lượng tự vệ của các thị xã, thị trấn, công xưởng trên toàn Quân khu Việt Bắc. Pháo binh chỉ có tất cả là bốn khẩu (ba khẩu sơn pháo 75mm, một khẩu 70mm).Hệ thống Phòng không có hai pháo 20mm, hai khẩu 13,2 mm và sáu khẩu 12,7 mm.
Chiến dịch do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Sở chỉ huy cơ bản ở Yên Thông; đến chiều 20 tháng 10 năm 1947, chuyển sang Tràng Xá (Thái Nguyên). Giai đoạn 2 chuyển về vùng Lục Rã, Quảng Nạp.[7]
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Giai đoạn 1[sửa | sửa mã nguồn]
Pháp huy động 12.000 quân cùng với hầu hết máy bay ở Đông Dương. Chiến dịch này bắt đầu ngày 7 tháng 10 năm 1947 với đạo quân gồm 800 lính đổ bộ xuống Bắc Cạn dưới quyền chỉ huy của đại tá Henri Sauvagnac, chiếm đóng các công sở, nhà thương, kho bạc, nhà máy đèn...
Valluy đã lầm lẫn lớn khi cho rằng thị xã Bắc Kạn là "Thủ đô mới" của Việt Minh. Valluy không hề biết rằng, trong suốt chiến tranh, không khi nào có cơ quan Trung ương Việt Minh nào ở tại một thị xã, thị trấn, mà tất cả đã chia thành những bộ phận nhỏ, thường xuyên di chuyển, được sự che chở của nhân dân, nếu một bộ phận bị phá thì vẫn có những bộ phận khác thay thế.
Khi quân Pháp nhảy dù tập kích, lực lượng Việt Minh ở thị xã Bắc Cạn chỉ có một bộ phận của tiểu đoàn 49, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn lúc này cũng chỉ có một tiểu đoàn tân binh. Hai đơn vị nhỏ này chủ yếu nổ súng để bảo vệ cho nhân dân và một số cơ quan đóng ở đây tản cư rút vào rừng núi an toàn. Pháp phá được xưởng in tiền và công binh xưởng, một số kho tàng và thu được 10 triệu bạc Việt Nam của Ty Ngân khố, nhưng còn quá xa so với mục tiêu "phá huỷ tiềm năng chiến tranh của Việt Minh" mà Pháp đề ra.
Raoul Salan coi cuộc hành binh Léa ngày 7 tháng 10 năm 1947 là một đòn quyết định "đánh thẳng vào tim kẻ thù". Ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Lúc 11 giờ 35 phút, Sauvagnac từ mặt đất báo cáo qua vô tuyến điện: "Ông Hồ Chí Minh bị bắt đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh". Salan vội bay về Hà Nội báo tin mừng với Sài Gòn. Cao uỷ Bollaert và quyền tổng chỉ huy Battet bay ngay ra Hà Nội. Nhưng ít giờ sau, Salan đã biết mình lầm, đành phải xin lỗi. Hai quan chức trên quay về Sài Gòn sau khi đã trách mắng Salan nặng nề... Thực chất hôm ấy, lính dù bắt được một cụ già chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược nên tưởng lầm. Đó là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Lúc biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Pháp đã bắn ***** Tố khi cụ tìm cách chạy trốn.
Ngày 8 tháng 10 năm 1947, 200 lính dù Pháp khác đổ bộ xuống chiếm Chợ Đồn. Cùng lúc các lực lượng khác theo hai đường thủy-bộ. Đạo thủy quân dưới quyền chỉ huy của Trung tá Pierre Communal theo đường thủy ngược sông Đà, sông Gầm tiến chiếm Phủ Đoan ngày 12, chiếm Tuyên Quang ngày 13 và Chiêm Hoá ngày 17 tháng 10. Đạo bộ binh khoảng 8.000 quân do Đại tá André Beaufre chỉ huy, tiến từ Lạng Sơn dọc theo đường thuộc địa số 4 tiến qua Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Đông Khê tới Cao Bằng ngày 12 tháng 10, rồi từ Cao Bằng dọc theo quốc lộ 3 xuống Bắc Kạn để bao vây Chiến khu Việt Bắc từ hướng Đông.
Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân dân du kích Việt Minh liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí: Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp. Đại đội bảo vệ 15 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Cảnh vệ - Bộ Nội vụ và Lữ đoàn cận vệ 144 - Bộ Quốc phòng sau này) bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan trung ương khẩn trương sơ tán đến nơi an toàn.
Ngày 9 thá...