Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án D
Thành công của Việt Nam trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế- tài chính- văn hóa sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đã giúp nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân; góp phần đưa đất vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc; đồng thời bước đầu thể hiện thể hiện tính ưu việt của chế độ mới.
Đáp án D: âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của các thế lực thù địch thất bại không phải là ý nghĩa của việc giải quyết những khó khăn về kinh tế - tài chính – văn hóa sau Cách mạng tháng Tám
Đáp án B
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng và hai hình thức đấu tranh cơ bản: chính trị và vũ trang (quân sự) và kết hợp chặt chẽ giữa hai lực lượng và hai hình thức đấu tranh đó trong quá trình làm cách mạng
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng bạo lực vì nó là cuộc nổi dậy của toàn dân tộc, lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật dựa vào 2 lực lượng chủ yếu là lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Trong cách mạng, sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ tranh của 2 lực lượng này đã tạo nên sức mạnh áp đảo của toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi cuối cùng
Đáp án C
Khoảng thời gian từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật là thời cơ ngàn năm có một, điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền:
+ Kẻ thù chính của Việt Nam là phát xít Nhật đã gục ngã, kẻ thù mới vẫn chưa xuất hiện
+ Tầng lớp trung gian khi Nhật đảo chính Pháp mới chỉ hoang mang dao động nay đã ngả hẳn về phía cách mạng
+ Đảng cộng sản Đông Dương đã có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối, phương pháp, lực lượng; quần chúng nhân dân đã sẵn sàng hành động
Đáp án C: thời điểm quân Đồng minh vào Dông Dương cũng là lúc thời cơ cách mạng qua đi. Nếu đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền sẽ phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Tổng khởi nghĩa nếu giành thắng lợi cũng phải đổ máu nhiều
Đáp án D
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam thành công một phần là nhờ quyết định của hội nghị Ianta (2-1945) là một nhận định đúng. Vì tại hội nghị Ianta 3 cường quốc Mĩ, Anh, Liên Xô đã thống nhất cùng nhau tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật Bản- kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam. Từ đó tạo ra điều kiện khách quan thuận lợi để nhân dân Việt Nam đứng lên giành chính quyền thắng lợi nhanh chóng (trong 15 ngày) và ít đổ máu
* Thời cơ cách mạng tháng Tám 1945
- Khách quan :
+ Đầu tháng 8/1945, quân đồng minh tấn công quân Nhật ở Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki
+ Ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung quốc. Ngày 14/8/1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện
- Chủ quan :
+ Ngay từ ngày 13/8/1945, khi nhận được những thông tin về Nhật đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban bố Quân lệnh số 1 chính thức phát Lệnh Tổng khởi nghĩa cả nước.
+ Từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành chính quyền.
+ Tù ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân được triệu tập ở Tân Trào, tán thành Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy Ban dân tộc Giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kì, bài hát Tiến quân ca là quốc ca.
* Thời cơ ngàn năm có một :
- Ngày 15/8/1945, Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt, bọn tay sai hoang mang, dao động đến cực độ. Trong lúc đó quân Đồng Minh chưa kịp vào nước ta.
Như vậy khoảng thời gian sau khi Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh và trước khi quân Đồng Minh vào nước ta là thời cơ "Ngàn năm có một" ta phải đứng dậy Tổng khởi nghĩa dành chính quyền và đứng ở tư thế của nước độc lập để tiếp Đồng Minh
- Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 cũng diễn ra đúng trong khoảng thời gian đó và ta dành thắng lợi nhanh chóng
đúng nhơ stick
* Thời cơ cách mạng tháng Tám 1945
- Khách quan :
+ Đầu tháng 8/1945, quân đồng minh tấn công quân Nhật ở Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki
+ Ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung quốc. Ngày 14/8/1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện
- Chủ quan :
+ Ngay từ ngày 13/8/1945, khi nhận được những thông tin về Nhật đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban bố Quân lệnh số 1 chính thức phát Lệnh Tổng khởi nghĩa cả nước.
+ Từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành chính quyền.
+ Tù ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân được triệu tập ở Tân Trào, tán thành Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy Ban dân tộc Giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kì, bài hát Tiến quân ca là quốc ca.
* Thời cơ ngàn năm có một :
- Ngày 15/8/1945, Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt, bọn tay sai hoang mang, dao động đến cực độ. Trong lúc đó quân Đồng Minh chưa kịp vào nước ta.
Như vậy khoảng thời gian sau khi Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh và trước khi quân Đồng Minh vào nước ta là thời cơ "Ngàn năm có một" ta phải đứng dậy Tổng khởi nghĩa dành chính quyền và đứng ở tư thế của nước độc lập để tiếp Đồng Minh
- Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 cũng diễn ra đúng trong khoảng thời gian đó và ta dành thắng lợi nhanh chóng
Lê Văn Tám là có thật
“Dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám.
Hình tượng Lê Văn Tám dựa trên một câu chuyện có thật.
Giải thích về hình tượng nhân vật Lê Văn Tám, GS Phan Huy Lê, một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam dẫn lời kể và lời dặn của GS Trần Huy Liệu như sau:
"Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10/1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh, nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét".
GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: "Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng". GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý.
GS Trần Huy Liệu không hề "hư cấu" sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ "dựng lên", theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.
GS giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì Tổ quốc, nhưng "dựng" chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám.
Kho xăng Thị Nghè
Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Cũng xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28/8/1945 đến ngày 1/1/1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1/1/1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2/3/1946, nghĩa là trong thời gian xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy, chứ không phải trong thời gian "1946 - 1948?" sau sự kiện trên.
Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.
Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8/4/1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.
Điểm lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng "ngọn đuốc sống" gắn với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám. Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám".
Trong bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám" đã đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới một "biểu tượng", một "tượng đài" yêu nước. Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học, GS Phan Huy Lê nói.
Biểu tượng "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám" thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám.
Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám. Đó không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.
Trích bài đăng của GS Phan Huy Lê