Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a) Tính cách nhân vật A Phủ qua các tình huống:
- A Phủ xuất hiện trong cuộc đối đầu với A Sử: "Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lang vào giữa mặt. Nó vừa kịp bung tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”.
Hàng loạt các động từ chỉ hành động nhanh, mạnh, dồn dập thể hiện một tính cách mạnh mẽ, gan góc, một khát vọng tự do được bộc lộ quyết liệt.
Cuộc sống khổ cực (nhà nghèo, cha mẹ chết trong trận dịch đậu mùa) đã hun đúc A Phủ tính cách ham chuộng tự do, một sức sống mãnh liệt, một tài năng lao động đáng quý: "biết đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do, hồn nhiên, chất phác.
- Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra các lỗ cửa sổ như khói bếp. "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong lần lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm". Còn A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tưọng đá.
Hủ tục và pháp luật trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra.
Cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng và cảnh A Phủ bị đánh, bị trói vừa tố cáo sự tàn bạo của bọn chúa đất vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân.
b) Bút pháp của Tô Hoài khi miêu tả nhân vật Mị có những nét khác với khi miêu tả nhân vật A Phủ. Tác giả dành cho Mị những trang văn buồn thương, đau xót; còn với A Phủ, tác giả dùng những lời văn mạnh mẽ, rắn rỏi (bên nhừng câu buồn thương, đau xót xuốnu nhân vật Mị).
Các nhân vật giao tiếp có vị trí xã hội: lão Hạc là người nông dân nghèo “ông giáo” là người sống thanh bạch, gần gũi với người dân
- Quan hệ thân sơ: là hàng xóm, nhưng có quan hệ thân mật, gần gũi, tin cậy lẫn nhau ( lão Hạc tin tưởng giao phó mọi thứ cho ông giáo)
- Tuổi tác: lão Hạc hơn tuổi ông giáo ( xưng hô của ông giáo tôi- cụ)
- Không có “con chó mà nói “cậu Vàng” ông giáo vẫn hiểu, cách gọi thể hiện sự nuối tiếc và tình cảm yêu quý của lão Hạc dành cho con chó.
- Cách xưng hô thể hiện cách nói thân mật, kính trọng, thân mật
Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.
Đáp án cần chọn là: D
Các nhân vật luân phiên lượt lời: lão Hạc và ông giáo, lão Hạc nói trước sau đó kết thúc tới lượt lời của ông giáo. Lão Hạc nói 5 lượt, ông giáo là 4 lượt lời
- Đoạn trích đa dạng về ngữ điệu: ban đầu Lão Hạc nói với giọng thông báo (Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!) tiếp đến giọng than thở, đau khổ,có lúc nghẹn lời
- Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ở đoạn trích trên, nhân vật giao tiếp sử dụng biện pháp miêu tả, gợi lên hình ảnh đáng thương, khốn khổ của Lão Hạc
- Từ ngữ dùng trong đoạn trích khá đa dạng, nhất là từ ngữ mang tính khẩu ngữ, những từ đưa đẩy, chêm xen (đi đời rồi, à, ư, khốn nạn, chả hiểu gì đâu, thì ra…)
- Về câu, đoạn trích sử dụng câu tỉnh lược (bán rồi! Khốn nạn… ông giáo ơi!) mặt khác nhiều câu lại có yếu tố dư thừa, trùng lặp
Cô Hiền là người luôn lưu giữ những nét đẹp của người Hà Nội, nuôi dưỡng niềm tin vào cuộc sống:
+ Khi còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa cách ngồi, cách cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn
+ Răn dạy lũ trẻ: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.
+ Có niềm tin mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền: “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế”.
=> Cô Hiền là “một hạt bụi vàng” của Hà Nội, biểu tượng cho vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hóa Hà Thành.
Đáp án cần chọn là: D
– Việt và Chiến là hai nhân vật đươc Nguyễn Đình Thi khắc họa đậm nét nhất. Chiến có những nét rất giống mẹ. Theo lời kể của chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào” – Giống ở tính gan góc và kiên trì chịu khó. Trước lúc nhập ngũ Chiến đã nói với em mình rằng: “ Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con em gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!” Trong hoàn cảnh vậy Chiến đã sớm trưởng thành và gánh vác công việc nặng nề, lo cho em thay má. Cô rất đảm đang tháo vát cả trong việc gia đình lẫn việc đánh giặc, một người con của đát nước. Chiến thu xếp việc nhà xong xuôi để chuẩn bị lên đường đã chứng tỏ Chiến là người trưởng thành thật sự tuy đôi lúc còn giành với em nhưng không quên mình là một người chị cả, Chiến lo lắng cho em, nhường nhịn em hết mức. Chiến là cô gái mới lớn, nên trong túi luôn mang chiếc gương nhỏ xinh xắn, đó là nét nữ tĩnh dịu dàng của người con gái xưa.
– Việt là một cậu con trai mới lớn, tâm hồn vẫn còn rõ nét trẻ thơ, Việt tranh giành với chị mình công bắt ếch, công bắn tàu giặc và tranh cả phần nhập ngũ. Do “sợ mất chị” nên khi Việt tham gia chiến đấu không bao giờ phô là mình có chị gái, một nét rất đáng yêu, ngây thơ của cậu bé. Trong khi bị thương nằm ở mặt trận, Việt không sợ chết mà chỉ sợ ma và bóng tối. Trong người luôn mang theo chiếc ná thun mà gắn với tuổi ấu thơ của Việt hay đi bắn chim vào những buổi trưa hè. Việt là một cậu bé tuy nhỏ tuổi nhưng rất gan dạ, dũng cảm và không cả sợ chết, khi những hồi đại liên vang lên Việt còn nghĩ “ Chúng đến giết mình đây! Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mười lần bị thương” .
– Tình cảm của Việt đối với chị Chiến rất sâu đậm, hai chị em vốn mồ côi chị là người chăm lo cho mình từng li từng tí, Việt yêu thương chị không muốn mất chị.
– Cả hai hình tượng Việt và Chiến là những hình tượng tiêu biểu của những người con miền Nam trong thời đánh Mĩ. Là những người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất anh hùng, họ đứng lên cầm súng để trả nợ nước trả thù nhà, mang trái tim tâm hồn hiến dâng cho nghĩa lơn. Cả hai đều mang trong mình một nét riêng, Việt tuy là em nhưng có một ý thức chiến đấu mạnh mẽ, một tình cảm yêu thương mọi người xung quanh, Việt có nét rất hồn nhiên thơ trẻ. Chiến là người chị đảm đang, là người con nối tiếp tâm hồn cũng như khí phách của ba má để lại. Thật đáng khen ngợi và biểu dương cho những thế hệ trẻ như Việt và Chiến.
Bảng hệ thống các sự kiện, nhân vật, chi tiết linh thiêng, kì ảo trong "Hải Khẩu Linh Từ":
Sự kiện/Nhân vật/Chi tiết
Tính chất linh thiêng, kì ảo
Ý nghĩa
Bích Châu
Nàng tiên cá, có nhan sắc lộng lẫy, phép thuật phi thường
Thể hiện vẻ đẹp, sức mạnh của thế giới tâm linh
Cung điện dưới đáy biển
Nơi Bích Châu sinh sống, nguy nga tráng lệ, có nhiều điều kỳ lạ
Thể hiện thế giới huyền bí dưới đáy biển
Giấc mơ của vua Trần Duệ Tông
Mơ thấy Bích Châu báo mộng về việc vua Chiêm Thành xâm lược
Lời cảnh báo, giúp vua có sự chuẩn bị
Giấc mơ của Bích Châu
Mơ thấy gặp lại vua Trần Duệ Tông và con trai
Niềm tin, hy vọng vào tương lai
Giấc mơ của người con trai
Mơ thấy mẹ mình
Giúp con trai nhận ra mẹ, tạo điều kiện đoàn tụ
Long Quân
Giúp vua Trần Duệ Tông đánh tan quân Chiêm Thành
Sức mạnh của thần linh, thể hiện sự phù hộ
Bích Châu hóa thành con cá chép
Giúp vua Trần Duệ Tông tìm được con trai
Thể hiện phép thuật phi thường, lòng nhân hậu
Vua Trần Duệ Tông được Bích Châu cứu sống
Thể hiện sự che chở của thần linh
Bích Châu được minh oan
Lòng tin vào công lý, chiến thắng của cái thiện
Vua Trần Duệ Tông lập đền thờ Bích Châu
Lòng biết ơn, thể hiện sự tôn kính