Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Huy Cận (1919 - 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tình Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê rồi vào Huế học trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông rồi tham gia mặt trận Việt Minh (1941). Sau Cách mạng, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, từng giữ nhiều trọng trách khác nhau, đồng thời có những đóng góp quan trọng trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
Thơ Huy Cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Nó tất nhiên là cái điệu chung của thơ mới, song nỗi buồn trong thơ Huy Cận có sắc thái riêng.
2. Tác phẩm
Toàn bộ Tràng Giang đều thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh. Ở bài thơ ngày, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh đầy đủ, hài hòa qua các khổ thwo, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.
II. Trả lời câu hỏi
1. Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn đây chính là nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài".
2. Âm hưởng chung của bài thơ là âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn.
3. Bài thơ tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang vô biên, đậm chất Đường thi. Chất liệu để tạo nên bức tranh đó là hệ thống các hình ảnh ước lệ thường được sử dụng trong thơ cổ.
Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề. "Tràng giang" chứ không phải trường giang mặc dù hai từ đều có chung một nghĩa. Nhờ cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ, đặc biệt nó khơi gợi được xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian.
Trong khổ thơ thứ hai, chính Huy Cận đã thừa nhận: ở trong câu "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu", ông đã học chữ "đìu hiu" trong bản dịch Chinh phụ ngâm (Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò). Hơn thế, các hình ảnh đối lập, hình ảnh "chợ chiều vãn" gợi cái buồn da diết, không gian vắng lặng, cô tịch rất cổ điển.
Ở khổ thơ thứ ba và khổ cuối đều có thể tìm thấy những nét gợi nên hình ảnh bức tranh thiên nhiên trường gặp trong thơ xưa. Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những âm hưởng kì lạ do tác giả chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở hai câu thơ cuối. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ đến quê hương - Hoàng Hạc Lâu, Huy Cận không cần có khói sóng - tức không cần cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn.
Sự hòa quyện của hai hệ thống hình ảnh vừa cổ điển vừa gần gũi, thân thuộc nêu trên tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà quen thuộc.
4. Trước Huy Cận, đã có không ít các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió qua thơ văn như Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non nước của Tản Đà... Trước Tràng giang, Huy Cận cũng đã từng viết về nỗi buồn sông núi- nỗi buồn của người dân thuộc địa khi giang sơn bị mất chủ quyền. Ở bài thơ này, nỗi buồn này, nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.
5. Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hòa. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/lớn lao; không/có...
- Sử dụng thành công các loại tự láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp...). Các biên pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh...
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
a. Cuộc đời
– Huy Cận (1919 -2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận
– Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ Mới
– Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân
– Quê làng Ân Phú huyện Lương Sơn tỉnh Hà Tĩnh
– Hồi nhỏ ông học ở quê sau đó rời vào Huế học, sau đó là ra hà Nội học tại trường Cao đẳng canh nông
– Từ năm 1942 ông tham gia cách mạng và tham gia nhiều cuộc hội nghị quan trọng
– Không những thế nhà thơ Huy Cận còn làm cộng tác của nhóm Tự lực văn đoàn
b. Sự nghiệp:
– Trước cách mạng tháng Tám:
• Tác phẩm tiêu biểu: lửa thiêng, kinh cầu tự, vũ trụ ca…
• Phong cách nghệ thuật của ông thời kì này là: Thơ thời kì này mang một nỗi niềm u uất người ta gọi là nỗi sầu vạn kỉ
– Sau cách mạng tháng Tám:
• Tác phẩm tiêu biểu: trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, bài thơ cuộc đời, hai bàn tay em, những năm sáu mươi…
• phong cách nghệ thuật thời kì này của Huy Cận mang niềm vui hồ hởi hơn so với kì trước cách mạng tháng Tám, ông cũng mang một tâm trạng chung với toàn dân tộc đó là niềm vui xây dựng chế độ mới, và đấu tranh vì hòa bình dân tộc
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: Nhà thơ Huy cận là một người có tâm hồn phong phú, ông dễ nhạy cảm với những khoảnh khắc của cuộc đời. điều làm nên tứ thơ của Tràng Giang đó chính là mỗi chiều chủ nhật ông thường đạp xe một mình lên đê ngắm dòng sông Hông lặng lẽ trôi, bốn bên bờ cát lặng, những hình ảnh thiên nhiên như lạc vào trong mắt ông.
b. Nhan đề:
– Ban đầu nhà thơ đặt tên bài thơ là chiều bên sông, nhưng thấy đặt như thế thì cụ thể quá không có sức gợi tả
– Về sau Huy Cận đặt lại thành Tràng Giang
– Tràng Giang có nghĩa là sông dài nhưng nhà thơ lại không đặt là sông dài hay trường giang
– Tràng Giang là một từ hán Việt cho nên nó sẽ tạo được trang trọng cổ kính cho dòng sông Hồng
– Thêm nữa vần “ang” được điệp lại trong hai từ -> âm hưởng như âm vang gợi cái mênh mông bao la rộng lớn của dòng sông Hồng
c. Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
– Hai chữ bâng khuâng thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ: cảm giác bâng khuâng trước tràng Giang rộng lớn
– Trời rộng được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Bốn câu thơ đầu: cảnh nước thuyền và sóng
– sóng Tràng Giang không ồn ào ồ ạt vỗ bờ mà thay vào đó gần như nó ở trạng thái tĩnh lặng chỉ gợn thôi. Cái chữ “gợn” thật mang nhiều tâm trạng
– từ láy “điệp điệp” thể hiện nỗi buồn giằng giặc khó mà có thể thoát khỏi nó. phải chăng nỗi buồn của nhà thơ đang chế ngự chính nhà thơ, khiến nhà thơ không thể nào thoát khỏi nó được
– Con thuyền xuôi hai mái nước song song, con thuyền thì lướt trên sóng, rẽ nước mà đi
– Biện pháp nghệ thuật đối “về” >< “lại” -> sự chia li mang nỗi sầu trăm ngả
– Một cành củi khô lạc mấy dòng -> sự cô đơn, giống như một đời người trôi dạt phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn của dòng đời
-> Bốn câu thơ gơi lên một nỗi buồn trăm ngả, cảnh tượng sông Hồng hiện lên nên thơ nên họa, Cảnh có đẹp đấy nhưng mà lại buồn man mác, nỗi buôn ấy không khiến cho người ta đau đáu trong lòng nhưng nó lại cứ bủa vây giằng giặc không chịu thôi
2. Bốn câu thơ tiếp:
– “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” -> sự thưa thớt, sự nhỏ bé -> cô đơn vắng lặng
– Tiếng chợ chiều vãn nhỏ nhẹ->sự tàn úa giống như phiên chợ tan, đâu đó gần đây tiếng chợ chiều vang lên, phải chú ý lắm, phải tĩnh lặng lắm thì mới nghe được tiếng chợ chiều đó
– Không gian ba chiều được mở ra , nhà thơ không dùng nắng cao chót vót mà dùng từ sâu chót vót để cho ta thấy được không gian bà chiều nhìn từ dưới lên bầu trời như sâu thẳm
– Sông càng dài càng rộng thì bến đò người lái càng thấy cô đơn, cô liêu
-> Những hình ảnh bên bờ cũng trở nên buồn thiu khi mọi vật hiện lên đều thưa thớt và nhỏ bé. Nó gợi đến cho ta sự cô đơn đến ghê người. Không gian như cao hơn, hun hút hơn khiến cho con người càng nhỏ bé
3. Bốn câu tiếp:
– Những đám bèo hàng nối hàng cứ trôi lênh đênh gợi cho ta liên tưởng đến kiếp người lênh đênh trên dòng đời
– Mênh mông như thế nhưng không có một chuyến đò ngang
– Không có cầu để qua bên kia sông tìm một chút niềm thân mật
– Mà chỉ lặng lẽ có một chút bờ cỏ xanh rồi đến bãi cát vàng
-> Không gian mênh mông như choáng ngợp lấy người nghệ sĩ, trên sông không một cây cầu bắc ngang để cho người qua lại để cho sông không còn vắng lặng như thế này nữa. Sông cũng không có lấy nổi một chuyến đò chỉ có bãi cát vàng với những bãi cỏ xanh làm bạn với nhau mà thôi.
4. Bốn câu cuối:
– về chiều những lớp mấy đùn lên trắng xóa như những núi bạc
– Hình ảnh cổ điển: chim nghiêng cánh nhỏ đón buổi chiều buông xuống
– Lòng nhớ quê của tác giả bỗng dợn lên vời con nước -> ý thơ được lấy gần giống với câu thơ của Thôi Hiệu, những ở đây nhà thơ không cần đến khói sóng tác động vẫn cứ dợn dợn nhớ nhà
-> Khổ cuối như kết lại những gì mà nhà thơ muốn thể hiện, nỗi buồn kia chính là nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà.
III. Tổng kết
– chàng sinh viên trường Canh Nông đã có những phút giây đắm mình trong không gian rộng lớn của Tràng Giang nhưng trong anh lúc ấy cũng xuất hiện thường trực, một nỗi lo âu về cuộc đời mình. đó còn là nỗi nhớ nhà, là nỗi sầu vạn kỉ. Bài thơ này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Đạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Bút danh Tản Đà là tên ghép của hai địa danh ấy.
Ông xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo phương thức của tầng lớp tiểu tư sản thành thị; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và rất ham học hỏi để tiến kịp thời đại; là nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Sáng tác văn chương của Tản Đà chủ yếu vẫn theo các thể loại cũ nhưng nguồn cảm xúc lại rất mới mẻ... Thơ Tản Đà hay nói về cảnh trời. Điều đó đã trở thành mô típ nghệ thuật có tính hệ thống trong thơ ông.
2. Tác phẩm
Bài thơ Hầu trời ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái xót đau. Nười tri thức có lương tri không thể không chấp nhận vào cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu.
Qua câu chuyện Hầu trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện "cái tôi" cá nhân - một "cái tôi" ngông, phóng tung, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.
II. Trả lời câu hỏi
1. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng "chẳng biết có hay không". Đó là cách nhập đề là, một sự hư cấu nghệ thuật. Nó là cái cớ hoàn hảo để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong "cỗi mộng" của mình.
2. Câu chuyện chính trong "giấc mơ" của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và các vị chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc, chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tản Đà. Ông trời thì khen rất nhiệt thành, để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa.
Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ "bản ngã" cái tôi đó. Tản Đà đã rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thương đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ, tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện.
3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực:
"Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
...
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều".
Trong đoạn thơ này nhà thơ nói đến nhiệm vụ truyền bá "thiên lương" mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó chứng tỏ Tản Đà lãng mạn nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời.
Xúc động nhất trong đoạn thơ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về cuộc đời của nhà thơ và của nhiều văn sĩ khác. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ. Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà.
Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng scahs nát và một be rượu.
4. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tếm gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ.
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.
- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.
Đề bài: Soạn bài Hầu trời của Tản Đà lớp 11
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Tản Đà (1889 -1939) con người của hai thế kỉ
– Tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ nhà văn nhà viết kịch nổi tiếng của văn học Việt Nam
– Bút danh Tản Đà được ghép từ núi Tản sông Đà quê hương ông
– Ông xuất hiện như một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam, với ngòi bút phóng khoáng, cái tôi tự tin và xông xáo trên nhiều lĩnh vực
– Sự nghiệp:
• Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ An nam tạp chí, hầu trời… các bài thơ dùng nhiều thể loại thơ khác nhau rất phong phú và đa dạng
• Ngòi bút cũng thể hiện cái ngông nghênh của cá nhân
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: vào những năm đầu của thế kỉ XX, lãng mạn trở thành những khúc thơ tâm tình của những người tri thức, bấy giờ xã hội thực dân phong kiến lại đầy những u hám, tối tăm và bất công. Người trí thức muốn chống lại song cũng chưa ai có dũng khi để làm. Nhà thơ Tản Đà đã sáng tác bài thơ này để thể hiện tấm lòng của mình
b. Xuất xứ: in trong tập chơi xuân
c. Bố cục: 3 phần
– Phần 1: 20 câu thơ đầu: kể chuyện thi sĩ được mời lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên cùng nghe
– Phần 2: tiếp đến Đế Khuyết: cuộc đọc văn và đối thoại với trời
– Phần 3: còn lại: ra về và suy nghĩ
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Kể chuyện thi sĩ lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên
– Nhà thơ kể về chuyện mình lên tiếng, tự hỏi mình không biết thật hay mơ nhưng thật hồn thật phách thật thân thể
– Khi ấy là canh ba mà nhà thơ chưa ngủ được bèn dậy đun nước uống trà và ngâm thơ làm văn
– Bỗng có hai cô tiên xuống nói rằng chẳng hay làm gì mà không ngủ để cho trời đang mất ngủ đang mất, có hay thì lên đọc cho trời nghe coi
– Tản Đà tỏ ra không sợ sệt điều gì mà tự tin cùng hai cô tiên lên đọc văn cho trời nghe
-> Cách mở đầu câu chuyện bằng thơ của Tản Đà quả thật rất hấp dẫn, nó mang đến cho người đọc cảm giác như quay trở về với cổ tích, truyện dân gian
2. Cuộc đọc thơ cho trời và đối thoại với trời
a. Khi mới lên
– Đi theo hai cô tiên lên đường mây vù vù không có cánh mà cũng có thể bay được
– Cảnh thiên môn đẹp trang trong đỏ chói
– Nhà thơ thấy trời hành lễ cúi xuống lậy thì trời sai hai cô tiên lôi dậy lấy ghế mây ra cho ngồi thiết đãi như một vị khách quý chứ không phải lên để bắt tội
– Sau đó lại pha trà trời cho nhà thơ uống để nhấp giọng đọc văn
– Nhà thơ có trà trời nhấp giọng cùng với sự đông đủ của trư tiên lại càng hăng hái đọc, đọc hết từ văn vần sang văn xuôi, sang cả tiểu thuyết
-> Nhà thơ quả là một người có tài, xông xáo trên nhiều lĩnh vực
b. Thái độ của trơi và chư tiên khi nghe nhà thơ đọc văn
– Tâm thì như nở dạ, cơ lè lưỡi vì ngạc nhiên. Trời thì khen lấy làm hay
– Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày, Thỏ Ngọc đứng lắng tai nghe
– Nhà thơ tiếp tục nhắc đến những tạp thơ của mình.Nhà thơ than về bán văn dưới hạ giới trời còn khuyên mang lên đây bán chợ trời
– Trời phê cho văn của Tản Đà những lời phê có cánh nhất, chau chuốt như sao băng, hùng mạnh như mây chuyển
c. Đối thoại của trời và nhà thơ
– Khi đọc xong, khen xong trời mới hỏi đến tên tuổi của nhà thơ. Khi ấy nhà thơ mới giới thiệu về quê quán cũng như tên thật của mình
– Nhà trời cho xem lại sổ sách và nhận ra người này bị đày xuống vì tội ngông nhưng thực chất ra không phải là ngông mà là trời sai xuống làm việc lương thiện cho thiên hạ trách nhiệm trọng trách của những nhà văn nhà thơ
– Nhà thơ kể về những nỗi khó khăn của mình nhưng trời khuyên cứ về dưới, lòng thông không sợ gì
– Xong việc sẽ cho trở về Đế Khuyết
-> Qua đoạn thơ này ta thấy tài thơ văn của Tản Đà quả thật là một bậc thiên tài. Ông tự tin nhận văn mình là hay. Đồng thời qua đây nhà thơ cũng thể hiện được trách nhiệm của nhà thơ nhà văn với cuộc sống này
3. Cảnh ra về và suy ngầm của nhà thơ
– Nhà thơ được tiễn về rất đàng hoàng
– Trư tiên còn vương vấn tiễn biệt mà rơi lệ
– Lúc về trần giới nhà thơ trông lên không còn ai, chỉ còn tiếng gà gáy và tiếng người dậy
– Nhà thơ hối tiếc mong muốn được lên hầu trời
III. Tổng kết
– Bài thơ khẳng định tài năng của Tản Đà, không chỉ thông thạo thơ ca mà tác giả còn đạt được thành công trong tiểu thuyết kịch ca
– Nghệ thuật: câu chuyện mang màu sắc cổ tích, sử dụng nhiều biên pháp nghệ thuật
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Hồ Chí Minh (1890 – 1969), là búp sen xanh của làng Kim Liên – Nam Đàn – Nghê An
– Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo cha là ông nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan
– Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã thông minh và lớn lên đã được tiếp thu tư tưởng làm cách mạng
– Sinh ra trong một thời đại đất nước làm nô lệ, Hồ Chí Minh đã đi theo con đường cứu nước và trở thành một vị lãnh tụ đầu tiên của nước Việt Nam ta.
– Bác không chủ tâm làm thơ văn nhưng vì để phục vụ cho cách mạng và yêu thơ văn cho nên Bác đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh ra đời
– Bài thơ được viết trong lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Bài thơ là một bức tranh xinh xắn về miền sơn cước đồng thời toát lên ở đó vẻ đẹp của một con người cách mạng với tinh thần lạc quan vượt qua mọi gian khổ của cuộc chuyển lao, vẫn ung dung ngắm cảnh. Bài thơ không nói chuyện thép, không lên giọng thép nhưng vẫn lấp lánh chất thép
b. Vị trí xuất xứ: nằm trong tập thơ Nhật Kí Trong tù của Hồ Chí Minh
II. Phân tích
1. Hai câu thơ đầu:
Cảnh núi rừng khi chiều tối và tâm trạng của nhà thơ
– Cảnh:
• “Chim mỏi” -> đây chính là cánh chim cổ điển, hình ảnh cánh chim trong thơ xưa đều xuất hiện vào khung cảnh buổi chiều
• Cánh chim nhỏ kia về rừng tìm chốn ngủ, đây là hoạt động kết thúc một ngày. Trong thời gian ấy cánh chim kia đã được bay về nơi trú ngụ của nó còn nhà thơ thì vẫn phải hành xác trên con đường đầy gian khổ để đến nhà lao mới
• ở câu hai phần dịch không sát với bản chính “cô vân” gợi sự lẻ loi một mình cô độc, còn phần dịch nghĩa lại là “chòm mây” không gợi lên được sự cô độc, đồng điệu với nhà thơ cũng đang cảm thấy khi hành trình gian khổ chỉ có một mình
-> cảnh thiên nhiên hiện lên thật đẹp, đó là mộ buổi chiều với mây trôi bảng lảng, cánh chim trở buổi chiều về, những hành động đang đi vào trạng thái tĩnh.
– Tình
• Qua bức tranh thiên nhiên ta thấy được tâm trạng của Bác, tình yêu thiên nhiên luôn tìm đến sự hòa hợp với thiên nhiên
• Cảnh được nhìn bằng tâm trạng nên cũng nhuốm màu tâm trạng: chim thì về nghỉ còn bác thì vẫn phải đi, cô vân kia giống như một mình Bác trên đường chuyển lao cô đơn
• Tâm hồn Bác luôn hướng về sự sống: cánh chim chỉ về ngủ để bắt đầu sáng mai lại hành trình kiếm ăn chứ không bay vào cõi vĩnh hằng “ Chim bầy vút bay hết- mây lẻ đi một mình”
• Đó còn là một tâm hồn luôn hướng về đất nước, vì đất nước Bác cô gắng đi hết con đường chuyển lao chờ ngày tự do hoạt động cách mạng đó chính là tinh thần thép của Bác.
2. Hai câu thơ cuối
– Cảnh:
• “sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”
+ trong thơ cổ dưới áng chim chiều mây nổi thì xuất hiện con người đó là những đạo sĩ, ẩn sĩ lánh đời
+ Trong thơ lãng mạn: xuất hiện những con người là mỹ nhân tuyệt đẹp
+ Trong thơ bác lại chính là người lao động
• Hoạt động gắn liền với cô gái ấy chính là hoạt động say ngô tối, cái chữ tối bộc lộ sự chăm chỉ cần mẫn của con người. đây là một hình ảnh tuyêt đẹp về cuộc đời người thiếu nữ vất vả đáng quý đáng yêu
• Điệp vòng “ma bao túc” cho thấy công việc diễn ra thường xuyên hàng ngày
• Từ “hồng” như làm sáng cả bài thơ, nhãn tự của bài thơ, có tác dụng mang lại tươi sáng niềm ước vọng cho ngày mai
– Tình:
• Nhà thơ phải là người yêu cuộc sống lắm mới có thể làm cảm nhận được cái đẹp trong công việc lao động thường ngày
• Không những thế còn phải có một trái tim nhân hậu và một sự lạc quan tin vào tương lai tươi sáng hơn
III. Tổng kết
– Nhà thơ Hồ Chí Minh đã mang đến cho chúng ta một bức tranh miền sơn cước khi về tối. Cảnh tượng thiên nhiên hiện lên bàng bạc ánh chiều, sự vật hiện tượng đang chuyển từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh. Nhưng riêng có Người và cô gái xay ngô tối kia vẫn đang hoạt động. đó là một tinh thần lạc quan đáng khen ở Người
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Hồ Chí Minh sinh ngày 19 - 5 - 1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Thuở nhỏ, người học chữ Hán trong già đình, rồi học ở trường Quốc học Huế. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước (1911) người từng có một thời gian dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) với tên gọi Nguyễn Tất Thành.
Từ năm 1919, Nguyễn Ái Quốc (tên hoạt động của Bác lúc đó) tham gia nhiều hoạt động cách mạng ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2/1941, Người trở về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Cách mạng thành công, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ cộng hòa. Từ đó, người luôn đảm nhiệm những chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Người qua đời ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.
2. Tác phẩm
Chiều tối (Mộ) là bài thơ thứ 31 của tập Nhật kí trong tù. Nó được Bác sáng tác vào cuối mùa thu năm 1942 trên con đường từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Đó là một buổi chiều tối, dù đã trải qua một ngày gian lao vất vả nhưng Bác vẫn còn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà giam chật hẹp, bẩn thỉu.
Bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh: nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ nội tâm mà biểu hiện qua cách cảm nhận hình ảnh, cảnh vật khách quan. Qua bức tranh cảnh vật ta thấy được những nét đẹp tâm hồn của một nhà thơ - chiễn sĩ: lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm.
II. Trả lời câu hỏi
1. Bức tranh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu của bài thơ
Chiều tối là thời khắc cuối cùng của một ngày và với một tù nhân như Bác đấy cũng là chặng cuối cùng của một ngày đày ải. Thời gian và hoàn cảnh như thế dễ gây tâm trạng mệt mỏi chán chường. Vậy mà ở đây cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên. Trời về chiều lại đi giữa nơi đường núi, như một lẽ tự nhiên, người tù ngước lên cao để đón chút ánh sáng cuối cùng của ngày, đó cũng chính là lúc người bắt gặp cánh chim mỏi mệt đang tìm bay về tổ, bắt gặp chùm mây chầm chậm trôi qua lưng trời. Bài thơ không gợi tả màu sắc mà người đọc vẫn cảm thấy rừng núi chiều tối thật âm u, không hề gợi âm thanh mà nghe thật vắng vẻ, quạnh hiu.
Câu thơ thứ hai trong bản dịch không thể hiện được hết ý của câu thơ trong nguyên tác. Câu này phải hiểu đúng là: "Chòm mây lẻ loi lững lờ qua qua lưng chừng trời". Câu thơ gợi nhớ thơ Thôi Hiệu "Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay" - Hoàng Hạc Lâu và thơ Nguyễn Khuyến "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt" - Thu điếu, chỉ có điều, trong thơ Bác không phải là áng mây trằng ngàn năm vẫn bay gợi sự vĩnh hằng, hay tầng mây lơ lửng gợi sự không vĩnh viễn mà mang bao nỗi khắc khoải, mơ hồ của con người trước cõi hư không. Phải có một tâm hồn thật ung dung thu thái thì người tù mới có thể dõi theo một chòm mây thong thả giữa bầu trời bao la. Hơn thế, chòm mây như có hồn người, như mang tâm trạng. Nó cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ, lờ lững trôi giữa không gian rộng lớn của trời chiều.
2. Bức tranh đời sống trong hai câu thơ cuối
Nếu như trong hai câu thơ đầu cảnh vật mang tính ước lệ cổ điển thì hình ảnh ở trong hai câu thơ cuối lại được gợi tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. Và chính nét vẽ đời thường này đã làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại, hơn thế, trong sự đối sánh với hình ảnh cánh chim và chòm mây ở trên, hình ảnh cô gái xay ngô, hình ảnh con người nổi bật lên như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh trong hai câu thơ cuối vẽ cảnh người thiếu nữ xóm núi trong lao động. Trong hoàn cảnh đầy tâm trạng, Bác đã quên đi cảnh ngộ đau khổ của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Câu thơ cho thấy sự quan tâm và tình yêu thương của Bác với những người lao động nghèo. Hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động và chính cuộc sống lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng tôn trọng biết bao giữa núi rừng chiều tối âm u,heo hút - nó đưa lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui hạnh phúc và hạnh phúc trong lao động của con người.
Hai câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu đều và khỏe khắn, đó là do sự vắt dòng giữa cụm từ "ma bao túc" ở câu 3 với "bao túc ma hoàn" ở câu 4. Hình ảnh cô gái và bếp lửa tượng trưng cho cảnh gia đình, ngô xay xong, bếp lửa đỏ hồng lại tượng trưng cho công việc, sự nghỉ ngơi và sum họp - thấp thoáng trong những hình ảnh ấy như có một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà, xa quê hương đất nước.
3. Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của bài thơ
- Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có những nét cổ điển vừa có nét hiện đại. Bài thơ chủ yếu là gợi tả chứ không phải miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.
- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm. Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khỏe khoắn. ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng , có thể làm sáng lên cả bài thơ, ví như chữ hồng trong câu thơ cuối chẳng hạn.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
A-lếch-xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin (1799-1837) là nhà thơ vĩ đại “có ý nghĩa to lớn không chỉ trong lịch sử văn chương mà cả trong lịch sử thức tỉnh của dân tộc Nga” (N.A. Đô-brô-liu-bốp).
Pu-skin thành công trên nhiều thể loại văn chương. Không chỉ là một thi sĩ lừng danh, ông còn là tác giả của tiểu thuyết bằng thơ nổi tiếng Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin – tác phẩm mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực Nga.
Các sáng tác phong phú cả về đề tài lẫn thể loại nêu trên đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và tính cách nhân dân Nga, nhất là sự khao khát tự do và tình yêu.
2. Tác phẩm
Bài thơ “Tôi yêu em” liên quan đến mối tình giữa A.Pu-skin với A.Ô-lê-nhi-na, người mà mùa hè năm 1829, Pu-skin đã cầu hôn nhưng không được nhận lời.
Ra đời trong hoàn cảnh ấy, Tôi yêu em thấm đượm nỗi buồn của mối tình vô vọng, nhưng là nỗi buồn trong sáng của một tâm hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu và vị tha.
II. Trả lời câu hỏi
1. Bài thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành. Nó thấm đượm một nỗi buồn nhưng không hoàn toàn bi lụy, không hề có suy nghĩ gì mang tính tiêu cực. Bài thơ mở ra ngay lập tức đi thẳng vào điều cốt yếu: “Tôi yêu em”, như lời thú nhận lại như lời tự nhủ, trực tiếp, ngắn gọn và giản dị.
Trong bốn câu thơ đầu, dường như có một “cái tôi” đang tự soi vào tâm hồn mình, ở đó tình yêu vẫn chưa tắt hẳn nhưng lại có một “cái tôi” khác, nghĩ đến người (cô gái), dùng ý chí mà chế định cảm xúc: “hãy để tình yêu không làm phiền em thêm nữa”. Đó là một sự dằn lòng, một sự chế ngự, một sự vươn lên. Cách ứng xử của Pu-skin đúng là một lời từ giã tình yêu thật đặc biệt.
2. Điệp khúc Tôi yêu em là giọng điệu chủ đạo của bài thơ. Trong tiếng Nga, với hai đại từ ya và vư, người ta có thể dịch sang tiếng Việt thành một số cặp quan hệ từ nhau: tôi yêu cô, anh yêu em, tôi yêu em. Có thể nói việc người dịch chọn dịch thành tôi yêu em là khá đạt, bởi cụm từ này đã diễn đạt được một cách chính xác mối quan hệ vừa gần vừa xa, vừa rụt rè lại vừa đằm thắm.
Bốn câu thơ sau mở ra bằng điệp khúc Tôi yêu em để rồi sự chế ngự của lí trí phải nhường lại cho mạch cảm xúc dào dạt tuôn trào:
Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen.
Nhịp thơ nhanh hơn với những từ lúc, khi, diễn tả những trạng thái tình yêu biến đổi vô cùng, dồn dập. Nhân vật trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu âm thầm, không hi vọng như để tô đậm thêm nét đặc biệt của mối tình đơn phương này. Hai câu thơ khơi mở ra những lớp tình cảm phức tạp mà rất con người dưới đáy sâu tâm hồn, sau lớp vỏ ngôn từ bình thản, điềm tĩnh thể hiện qua cách xưng hô, qua vẻ bề ngoài lặng lẽ, rụt rè, qua ý thức cos ghìm nén tình cảm, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa lụi tắt chứ không phải là đang bùng cháy mãnh liệt.
Trong mạch thơ như vậy, hai câu kết vừa nối tiếp tự nhiên vừa mang đến ấn tượng bất ngờ:
Tôi yêu em chân thành như thế đó, đằm thắm như thế đó,
Cầu trời cho em (lại) được ai khác yêu thương (cũng) như thế.
Điệp khúc Tôi yêu em lại được láy lại lần thứ ba với một lời khẳng định bản chất của mối tình này: chân thành và đằm thắm. Trong điệp nhữ Tôi yêu em, ở bản tiếng Nga, động từ yêu luôn được để ở thể chưa hoàn thành, điều ấy có nghĩa là ngọn lửa tình yêu trong trái tim nhà thơ sẽ không bao giờ tắt, không bao giờ lụi tàn, nhạt phai.
3. Hai câu thơ cuối của bài thơ quả thật rất bất ngờ và thú vị:
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Hai câu kết cũng mở đầu bằng điệp khúc Tôi yêu em nhưng không chỉ trở về quá khứ mà còn là sự tiếp nối liên tục hết sức đặc biệt từ quá khứ tới tương lai. Câu 7 khái quát tấm hình được diễn tả trong toàn bộ sáu câu trước đó. Câu thơ thể hiện bản lĩnh và tấm lòng tha thiết với người yêu của nhân vật trữ tình. Câu 7 chuyển ý đến câu 8 băng một so sánh tương ứng. Nếu ở câu 6 nhân vật trữ tình bì giày vò bởi nỗi ghen tuông, thì đến đây anh đã vượt lên sự ích kỉ thường tình để có thể gửi gắm vào một người khác, một người thứ ba tất cả tình cảm nâng niu mà anh dành cho người anh yêu với ước mong nàng được hạnh phúc.
Lời cầu mong cuối bài thơ cũng còn là lời nhắn nhủ của một trái tim giàu độ lượng, chở che như nhà thơ đã viết trong một bài thơ khác:
Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn
Em thầm thì hãy gọi tên lên
Và hãy tin: còn đây một kỉ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim.
Chính thái độ trân trọng, tôn thờ, sùng kính, “sự thuần khiết” đối với phụ nữ đã đưa bài thơ của Pu-skin vươn tới những giá trị nhân văn cao cả trong kho tàng thơ tình nhân loại.
4. Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Pu-skin. Thơ Pu-skin thường không trang sức rực rỡ cầu kì, vẻ ngọc của những bài thơ sáng lên chủ yếu ở xu hướng vươn tới cái cao cả trong tâm hồn và tư tưởng.
Tình yêu vốn là một chủ đề lớn trong thơ trữ tình của Pu-skin. Thơ tình của Pu-skin thường bắt nguồn từ những cảm xúc cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Tôi yêu em là vẻ đẹp tâm hồn của Pu-skin. Nó đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chuang của loài người.
1. Pu-skin là đại diện xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông thành công ở các thể loại như truyện ngắn, trường ca và thơ trữ tình. Thể loại nào của Pu-skin cũng đậm chất trữ tình và đề cao khát vọng tự do của con người. Nhưng với Tôi yêu em, Pu-skin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại. Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới, bài thơ đã gắn với tên tuổi Pu-skin trong lòng bạn đọc.
2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giãi bày tâm trạng theo mạch cảm xúc. Bài thơ được chia làm hai câu, mỗi câu hai vế, mỗi vế hai dòng thơ :
Hai dòng thơ đầu : khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình “tôi” đối với em : vẫn còn yêu em.
Hai dòng tiếp theo : tấm lòng hi sinh cao cả của nhân vật “tôi” dành cho người. Một biểu hiện cao thượng của tình yêu. Đây là phần lí trí.
Hai dòng tiếp theo : cảm xúc và tâm trạng thật của nhân vật trữ tình. Đó là những trạng thái, cung bậc tình cảm rất chân thực của người đang yêu. Chứng tỏ tình yêu vẫn đang rất mãnh liệt và chân thành.
Hai dòng cuối cùng : vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Dù là mối tình đơn phương nhưng tình yêu của nhân vật “tôi” là một tình yêu đẹp thể hiện một tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp của toàn bộ cảm xúc thơ toả sáng ở dòng thơ cuối cùng. Một lời tỏ tình, một cách thổ lộ tình yêu đẹp nhất và tinh tế nhất.
3.Đọc hiểu
“Mỗi chúng ta có một Pu-skin của mình, và chỉ có một Pu-skin với tất cả mà thôi. Ông đã đi vào cuộc sống chúng ta với ngay từ đầu của nó và mãi mãi không từ bỏ chúng ta” (Alếch-xan-đrơ Tra-đốp-xki). Nhận định này không chỉ khẳng định sức sống và khả năng tác động mạnh mẽ của thơ ca Pu-skin đối với đông đảo độc giả mà còn nói đến sự phong phú đa dạng trong sáng tác của ông. Ở Pu-skin, chúng ta có thể gặp một thanh niên quý tộc với tư tưởng chán chường, muốn xa lánh xã hội thượng lưu giả dối để đến với cuộc sống thanh bình, tự do chốn thôn quê. Cũng có thể gặp một chiến sĩ cách mạng với khát vọng tự do, hoặc một nhà cải cách xã hội có tư tưởng tiến bộ, và còn có cả một nhà văn hiện thực trong một nhà thơ tình lãng mạn. Quá trình sáng tác của Pu-skin là một quá trình vận động tư tưởng theo chiều tiến bộ, từ một thanh niên quý tộc có tư tưởng tiến bộ nhưng còn xa rời nhân dân đến một chiến sĩ cách mạng ưu tú luôn vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nhưng cao hơn tất cả chúng ta gặp một nhân cách Pu-skin – một Con người đích thực ở mọi phương diện sống. Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc với rất nhiều điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống vinh hoa nhưng là một Con người, nhà thơ đã không chấp nhận, đã nguyện làm một “ca sĩ của tự do”, trở thành kẻ thù của bọn cầm quyền. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho khát vọng về một xã hội tốt đẹp, tự do và bình đẳng. Sáng tác của Puskin là lí tưởng cao cả về những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống, trong đó có tình yêu – tình cảm tuyệt vời nhất của cuộc đời.
Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. Ông sáng tác cả thơ trữ tình và văn xuôi, và đều thành công. Ở mảng thơ trữ tình, nhà thơ quan tâm đến hai đề tài lớn : đề cao khát vọng tự do và khám phá đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động (thể hiện ở mảng thơ về tình yêu).
Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ.
Trong các trường ca như Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin, Đoàn người Tsư-gan, Người tù Cáp-ca-dơ, nhân vật chính của Pu-skin đều là những thanh niên quý tộc chán ghét tình yêu chốn thượng lưu đi tìm tình yêu ở nơi khác, nhưng rồi bản tính ích kỉ trong tình yêu của những thanh niên quý tộc mà họ không bỏ được vẫn đưa họ đến những bi kịch. Tình yêu với họ đã từng chỉ là những trò chơi, những cuộc chinh phục, sự ghen tuông có thể dẫn đến những cuộc đấu súng một mất một còn (E. Ô-nhê-ghin và Len-xki trong Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin), họ sẵn sàng giết chết người yêu khi cảm thấy bị phản bội (A-lê-cô trong trường ca Đoàn người Tsư-gan), có lẽ tấn bi kịch cuối đời của Pu-skin cũng xuất phát từ chính những thành kiến kiểu quý tộc ấy mà Pu-skin đã không thể tự vượt qua. Những mối tình thượng lưu kiểu ấy đã khiến nhà thơ suy ngẫm về một tình yêu đích thực. Cảm hứng về một tình yêu cao thượng đã được gửi gắm trong hình tượng nhân vật trữ tình của bài thơ Tôi yêu em. Dưới hình thức một lời tỏ tình là khát vọng về một tình yêu chân chính với tình cảm cao thượng. Bài thơ là sự kết hợp tuyệt vời của một lí trí sáng suốt và một trái tim biết yêu thương thực sự. Mạch cảm xúc của bài thơ tự nó đã chia thành hai phần dưới hình thức hai câu, mỗi câu bốn dòng thơ. Và trong mỗi câu thơ lại có hai vế. Một kết cấu hài hoà cân đối đã làm nên vẻ đẹp của bài thơ nhưng không làm suy giảm sự tinh tế của cảm xúc. Thơ Pu-skin vốn rất giản dị, gần gũi cuộc sống. Những hình ảnh biểu tượng trong thơ ông thường dễ hiểu nhưng rất có chiều sâu. Hiểu ở mức độ nào phụ thuộc vào sự đồng cảm và rung động của trái tim người đọc. Thế nhưng điều mà bất cứ độc giả nào cũng cảm nhận được chính là những giá trị đạo đức trong thơ Pu-skin. Những vần thơ trong sáng và đầy cảm hứng nhân văn của ông có khả năng tác động rất mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc. Và tình cảm cao đẹp của nhân vật trữ tình trong Tôi yêu em có thể tạo nên khả năng thanh lọc tâm hồn đối với nhiều thế hệ bạn đọc.
Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình “tôi” được bắt đầu bằng một lời thổ lộ rất chân thành :
Tôi yêu em : đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai ;
Có thể nhận ra một sự không bình thường trong lời bày tỏ của nhân vật trữ tình. Đó không phải là một lời tỏ tình ở một giai đoạn bắt đầu một mối tình. Có vẻ như là một sự xác nhận về một tình cảm đơn phương từ phía “tôi”. Một tình cảm như đã từng bị cố làm cho lụi tàn nhưng nó lại “chưa hẳn đã tàn phai”. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi quên. Nhưng điều đáng nói là mục đích của lời bày tỏ ấy. Mong muốn được đáp lại tình cảm hay thể hiện một điều gì khác :
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.
Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với người mình yêu thương : “Tôi chẳng muốn em buồn vì bất cứ lẽ gì”.
Quả thực tình yêu đã nâng con người lên cao hơn. Mặc dù nhân vật “em” không xuất hiện trong bài thơ nhưng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình thì đó phải là một người con gái rất đáng yêu. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.
Câu thơ đầu có sự tham gia rất mạnh mẽ của lí trí. Đây là giai đoạn mà lí trí vẫn điều khiển được trái tim. Ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng : còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm em phải suy nghĩ. Câu thơ như lời tự nhủ với chính mình với một quyết tâm rất cao. Nhưng nếu chấp nhận dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với em chưa đủ sức thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn dòng thơ tiếp theo :
Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Dường như lí trí đã nhường chỗ cho cảm xúc. Những trạng thái cảm xúc phức tạp và đầy mâu thuẫn của trái tim đang yêu đã được bày tỏ rất chân thành. Sự tăng tiến của tình cảm, cảm xúc khiến câu thơ có khả năng truyền tải tình cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Sức nặng của tâm trạng và trung tâm thẩm mĩ của bài thơ nằm ở câu thơ thứ hai này :
Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen,
Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận. Vì không muốn em phải bận lòng thêm nữa nên phải “âm thầm”. Yêu không hi vọng, yêu đơn phương vẫn là tình yêu, thậm chí còn là một tình yêu rất sâu sắc. Có rụt rè có ghen tuông thì đích thị là tình yêu. Nhưng sự hờn ghen và không hi vọng ấy không làm giảm đi vẻ đẹp của tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho “em". Đó là một lời bày tỏ chân thành. Nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc, đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Trong bài thơ có tới ba cụm từ tôi yêu em thì hai cụm tập trung ở câu thứ hai và được gắn với những tính từ cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm).
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
“Chân thành”, “đằm thắm” là hai phẩm chất mà mọi tình yêu đều muốn đạt tới, đó là tiêu chuẩn lí tưởng của mọi mối tình. Nếu thiếu hai “tiêu chuẩn” thì không còn là tình yêu nữa. Và mức độ chân thành, đằm thắm được xác nhận và cụ thể hoá một cách khéo léo và đầy thuyết phục ở dòng thơ cuối cùng :
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này. Chỉ một lời cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều. Nó khẳng định tấm tình chân thành của “tôi”, đồng thời thể hiện “tôi yêu em” là tình yêu mãnh liệt và chân chính. Câu thơ hội tụ vẻ đẹp của cảm xúc và cảm hứng của nhân vật trữ tình.
Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ. Tâm trạng được thể hiện không quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng. Cảm xúc có khi mâu thuẫn với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự đã thể hiện một tư tưởng nhân văn cao đẹp. Một vấn đề thuộc về đạo đức và nhân cách con người đã được nhà thơ thể hiện dưới một hình thức giản dị và giàu khả năng gợi cảm. Đây cũng chính là một trong những thành công nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Pu-skin.
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Lời cầu chúc giản dị mà thể hiện được cả một nhân cách. Đó là lời cầu chúc tuyệt vời nhất của nhân loại. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng “hậm hực lòng ghen”. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện tình yêu như “cầu em được người tình như tôi đã yêu em”. Bài thơ là lời bày tỏ tình cảm, vì vậy cái ẩn ý đằng sau câu thơ, làm cho cảm xúc thơ chân thực hơn chính là ở lời cầu mong này. Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em. Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Chấp nhận yêu đơn phương, chấp nhận sự thực là em sẽ có người khác nhưng lại nhấn mạnh và xác nhận tình yêu mãnh liệt của mình, liệu có mâu thuẫn không ? Liệu có cô gái nào yên lòng trước lời cầu chúc chân thành và đáng yêu như thế. Quả thực bài thơ thật đẹp, thật trong sáng. Với một tình yêu như thế dù được đáp lại hay không thì vẫn là một tình yêu lí tưởng, những trái tim yêu như thế sẽ giúp con người ngày càng người hơn.
Thơ trữ tình Pu-skin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân văn. Tôi yêu em là kết tinh xuất sắc nhất. Pu-skin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà cay đắng và khắc nghiệt hơn :
Giữa vườn xuân và bóng đêm tĩnh mịch
Chim hoạ mi thánh thót bên nhành hồng
Nhưng đoá hồng kia chẳng chút động lòng
Mà lặng lẽ đong đưa rồi thiếp giấc
Bản tình ca vẫn du dương và réo rắt.
Tình cảm của chim hoạ mi nhân vật trữ tình cũng mãnh liệt và da diết, thậm chí rất kiên nhẫn mặc dù thái độ của “nhành hồng” rất lạnh lùng, lạnh lùng đến vô tâm. Có lẽ vì thế mà sự kiên nhẫn không được đáp lại ấy đã biến thành một tâm sự cay đắng, lời yêu ngọt ngào trở thành một lời chì chiết :
Vì sắc đẹp lạnh lùng người hót làm chi ?
Hỡi thi nhân hãy mau tỉnh dậy đi
Uổng công thôi người nhìn thấy đấy
Nó mơn mởn sắc hương lộng lẫy
Nhưng chẳng có gì xúc động cảm rung
Nó làm ngơ chẳng đáp lại tiếng lòng.
(Pu-skin, Con chim hoạ mi và nhành hồng)
Tất nhiên đây không đơn giản là một bài thơ thuần tuý nói chuyện tình yêu, mà còn là tâm sự của nhà thơ về cuộc đời. Dù sao trước hết nó vẫn là một bài thơ tình với hai hình ảnh thơ rất lộng lẫy “con chim hoạ mi” và “nhành hồng”. Hai nhân vật trữ tình ở hai bài thơ đều có chung một điều là đều yêu đơn phương nhưng lại có hai thái độ ứng xử hoàn toàn khác nhau. Một đòi hỏi được đáp lại ; một cao thượng và giàu đức hi sinh. Tôi yêu em là một định nghĩa chuẩn mực về tình yêu. Dù đơn phương hay song phương thì tình yêu cũng cần đức hi sinh và sự cao thượng. Sự ích kỉ sẽ biến lòng ghen tuông thành thứ thuốc độc giết chết mọi tình yêu. Trong trường ca Đoàn người Tsư-gan, mối tình giữa A-lê-cô và cô gái Tsư-gan là một mối tình ích kỉ. A-lê-cô từ chối và chạy trốn khỏi cuộc sống vương giả của xã hội thượng lưu, nơi mà theo chàng là :
Cảnh giam hãm phố phường ngột ngạt
Một đống người nhung nhúc giữa đường
(Puskin, Đoàn người Tsư-gan)
để đến với cuộc sống tự do giữa thảo nguyên. Nơi đó chàng đã có một mối tình đẹp và đã từng “Chỉ mơ ước được yêu em mãi mãi”. Nhưng đến khi cô gái Tsư-gan quen với cuộc sống tự do đi tìm tình yêu khác cho mình, lòng ghen tuông đã biến chàng thành thú dữ :
Con không thể : con không chịu mất
Để cho người mà không giành giật
Ít ra con hưởng khoái trả thù.
Và chàng đã nhẫn tâm giết chết hai người trẻ tuổi. Có thể thấy tình yêu của A-lê-cô điển hình cho kiểu tình yêu ích kỉ của lớp thanh niên thượng lưu. Đoàn người Tsư-gan quen sống tự do và cao thượng không thể chấp nhận anh, như lời lão trượng nói khi đuổi A-lê-cô khỏi đoàn :
Chúng ta sống man di không luật lệ
Chẳng nhục hình chẳng giết hại một ai
Chẳng đòi người có tội phải đền bồi
Chẳng đòi máu, chẳng đòi rên xiết.
Đó là phẩm chất của nhân dân. Họ yêu cuộc sống tự do và luôn cư xử rất cao thượng. Vì thế họ mới “sinh ra” thiên tài Pu-skin, họ mới có được tình cảm đẹp như Tôi yêu em. Họ chất phác và hồn hậu trong mọi mối quan hệ, vì thế những kẻ còn mang thói ích kỉ của quý tộc, tư sản không hợp với cuộc sống tự do của họ. A-lê-cô chán ghét xã hội thượng lưu nhưng chỉ biết đi tìm tự do cho riêng mình thì “Sinh ra không phải cho cuộc sống ngàn hoa nội cỏ”. Dù sáng tác ở thể tài nào, sáng tác của Pu-skin luôn thể hiện một tình cảm trong sáng và rất nhân văn. Thơ văn của ông vẫn luôn hướng đến những tình cảm đẹp đẽ và nhân đạo nhất.
Với thủ pháp nghệ thuật tạo sự tương phản giữa các vế của câu thơ, giữa hai câu thơ và ngôn ngữ thơ giản dị, giàu cảm xúc, Pu-skin đã thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về tình yêu. Đó là một tình yêu con người nhất. Đã có rất nhiều thi nhân viết về tình yêu và họ đều viết rất hay nhưng có lẽ Tôi yêu em là bài thơ giản dị, đời thường và chứa đựng nhiều nhất giá trị nhân văn. Với một trái tim biết yêu thương và một khả năng sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời, Pu-skin xứng đáng là "niềm tự hào không phải chỉ của văn học Nga mà của toàn bộ nền văn học thế giới”. Thơ tình của Pu-skin không chỉ chiếm được cảm tình của bạn đọc trẻ tuổi mà còn có sức tác động rất mạnh đến tâm hồn bạn đọc. Và một điều chắc chắn rằng Tôi yêu em là lí tưởng về một tình yêu đích thực, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến những nhà thơ tình xuất hiện sau ông. Một trong những luồng ánh sáng phát ra từ “mặt trời thi ca Nga” chính là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo của một trái tim luôn yêu thương tất cả bằng một tình yêu cao thượng, kết quả và kết tinh của văn hoá Nga.
CÂU 1.
Bố cục bài thơ : 3 phần
- Phần 1 : 13 câu thơ đầu : Là sự thể hiện tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.
- Phần 2 : 16 câu tiếp : sự băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước quy luật của tạo hóa.
- Phần 3 : còn lại : lời giục giã và tình yêu cuộc sống vội vàng của nhà thơ.
Câu 2. Đoạn thơ đầu : tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ
· Bài thơ mở đầu với 4 câu thơ 5 chữ.
- nghệ thuật điệp từ và điệp cấu trúc cú pháp.
- Khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt ( ngự trị thiên nhiên – đoạt quyền tạo hóa).
- Ý tưởng của Xuân Diệu mang sự mới lạ, độc đáo, in đậm sự cách tân nghệ thuật của thơ mới và tính sáng tạo của nhà thơ.
=>Bốn câu đầu gói gọn cảm xúc và ý tưởng của bài thơ.
· Bức tranh thiên nhiên :
- Hình ảnh : ong, bướm, hoa, lá, yến anh và ánh bình minh.
=>Tất cả đều đang trong trạng thái căng tràn, viên mãn nhất : ong bướm – tuần tháng mật ; hoa – đồng nội xanh rì ; lá – cành tơ lất phất…Tất cả đều có đôi có lứa xoắn xuýt bên nhau như mời gọi.
- Các biện pháp nghệ thuật :
+ Điệp từ « này đây » => điệp khúc, vang lên như giục giã người đọc xốn xang theo từng câu thơ.
+ biện pháp liệt kê tăng tiến với các hình ảnh thơ : « ong bướm », « hoa của đồng nội », « lá của cành tơ »…
+ cách dùng từ láy và từ ghép độc đáo : phơ phất, xanh rì, tuần tháng mật…
+ Nghệ thuật so sánh độc đáo : tháng giêng – cặp môi gần.
=>Hình ảnh so sánh độc đáo với lối diễn đạt mới lạ đã cho thấy quan điểm của nhà thơ về mùa xuân, cuộc sống, con người. Cái đẹp bắt nguồn từ sự tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn. .. Nhà thơ đã vật chất hóa khái niệm thời gian, bằng một hình ảnh cụ thể, hữu hình « cặp môi gần ». Câu thơ không chỉ gợi hình mà còn gợi hương thơm, vị ngọt khiến người đọc đắm say ngây ngất.
· Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống. Với nhịp thơ gấp gáp tạo nên cảm giác ngây ngất sung sướng của nhà thơ. Nó như là sự hối thúc, giục giã khiến mọi người bị cuốn vào cái guồng quay khẩn trương của tạo hóa để tận hưởng thiên đường nơi trần thế.
Câu 3. Đoạn thơ 2 : quan điểm của nhà thơ về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với nỗi băn khoăn của tác giả trước cuộc đời.
- Mùa xuân là thời đẹp nhất của thiên nhiên và con người. Mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ gắn liền với tình yêu.
- Xuân Diệu cho thấy mùa xuân cũng chính là dấu hiệu bước chuyển dời thời gian đang xa dần.
- Tuổi trẻ và tình yêu phải gắn liền với màu xuân. Và cũng theo quy luật của thời gian, tạo hóa, tuổi trẻ cũng không tồn tại vĩnh hằng.
- Tuổi trẻ chẳng bao giờ trở lại, nó không tuân theo vòng tuần hoàn của vũ trụ.
=>Quan điểm hoàn toàn mới của Xuân Diệu về thời gian. Thời gian tựa nhưu một dòng chảy xuôi chiều, một đi không bao giờ trở lại. Tác giả đã lấy sinh mệnh con người làm thước đo thời gian, lấy thời gian hữu hạn của con người để làm thước đo vũ trụ.
- Sở dĩ ông cảm thấy băn khoăn day dứt ngay trong sug sướng rạp rực vì ông nhận ra thời gian, mùa xuân và tuổi trẻ đang đến nhưng cũng chính là lúc nó trôi đi và không bao giờ trở lại.
- Cảm nhận về thời gian luôn thường trực trong tâm hồn thi sĩ. Ông cảm nhận rất rõ những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời. Ông xót xa nhận ra rằng tát cả những tươi đẹp của màu xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu sẽ ra đi không bao giờ trở lại.
=>Đoạn thơ cho thấy quan niệm về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ của nhà thơ. Đồng thời ta còn thấy được một Xuân Diệu khao khát đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng luôn cảm thấy lo sợ.
Câu 4. Đoạn thơ cuối : khát vọng sống, khát vọng yêu thương, cuồng nhiệt đến cháy bỏng.
- Hình ảnh thơ tươi mới và tràn đầy sức sống. Đó là một thiên nhiên quyến rũ, tình tứ. Cảnh sắc lôi cuốn con người như muốn tan ra, muốn hòa mình vào thiên nhiên để tận hưởng : sự sống mơn mởn, cánh bướm với tình yêu…
- Ngôn từ : sử dụng những động từ mạnh : ôm, riết, thau, cắn…
- Nhịp điệu thơ được tạo nên bởi những câu dài, ngắn xen kẽ. Cùng với điệp từ « ta muốn » => nhịp thơ sôi nổi.
- Hình ảnh mởi mẻ và sáng tạo ( câu cuối).
=>Các hình ảnh và điệp từ …lột tả tận cùng sự cuống quýt, vội vàng của nhà thơ.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Xuân Diệu (1916 - 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh khác là Trảo Nha. Quê cha của Xuân Diệu ở Hà Tĩnh nhưng ông sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn.
Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho, sau đó ông ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn là thành viên của Tự lực văn đoàn. Trước cách mạng, thơ Xuân Diệu là tiếng nói thiết tha với cuộc đời. Sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và giàu tính thời sự.
2. Tác phẩm
Vội vàng được in trong tập Thơ thơ (1938) là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám. Bài thơ thể hiện rất rõ ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới, mang đạm bản sác riêng của hồn thơ Xuân Diệu. Vội vàng là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của đời mình nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một tâm hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.
II. Trả lời câu hỏi
1. Bài thơ là dòng cảm xúc mãnh liệt, dạt dào, tuôn trào nhưng vẫn tuân theo mạch luân lí, có bố cục chặt chẽ. Bài thơ có thể được chia thành ba đoạn:
- Đoạn 1 (13 câu thơ đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế thiết tha
- Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi quá nhanh chóng của thời gian.
- Đoạn 3 (còn lại): Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ trụ.
2. Thời gian của tự nhiên thì luôn tuân thủ theo quy luật vận động bất biến. Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận về thời gian thì ở mỗi thời đại và mỗi cá nhân lại có thể có những nét khác nhau.
Ở Xuân Diệu và nhất là trong Vội vàng, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới, một cảm nhận mới về thời gian. Thời gian thật sự khắc nghiệt, đời người có hạn và tuổi xuân ngắn ngủi.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Nhà thơ đã lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy khoảng thời gian quý giá nhất của mỗi cá nhân là tuổi trẻ để làm thước đo thời gian. Lời thơ được cấu trúc thành một cuộc tranh biện, theo đó nhà thơ khẳng định dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn, nhưng "tuổi trẻ chẳng hai lần nhắm lại".
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng đời chứ cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn.
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Nhìn thấu sự trôi chảy quá nhanh chóng, một đi không trở lại của thời gian nên cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, chia lìa.
Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu, xét đến cùng là do ý thức sâu sắc về "cái tôi" cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh bình thường của đất nước, đây là một quan niệm và thái độ sống tích cực, thấm đượm tư tưởng nhân văn.
3. Vội vàng cuống quýt níu giữ thời gian, khát khao sống dạt dào cảm xúc với thời trai trẻ, Xuân Diệu đã phát hiện ra có một thiên đường ngay trên mặt đất này, không xa lạ mà rất đỗi thân quen, ở ngay tầm tay của mỗi chúng ta. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống được Xuân Diệu gợi lên vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, tình tứ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất...
Qua cách miêu tả hình ảnh thiên nhiên, Xuân DIệu đã thể hiện một quan niệm mới về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Đó lầ một quan niệm mới, tích cực, thấm đượm tinh thần nhân văn.
4. Đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu của đoạn thơ cuối bài:
- Hình ảnh trong đoạn thơ cuối gần gũi, quen thuộc mà tươi mới, giàu sức sống, đầy quyến rũ và tình tứ. Đó là những hình ảnh rất táo bạo, đầy cảm giác và có tính sắc dục.
- Ngôn từ của bài thơ tự nhiên, gần với lời nói thường, nhưng đã được nâng lên thành nghệ thuật Cảm xúc dạt dào, mãnh liệt đã tạo nên những làn sóng ngôn từ vừa đan vào nhau, vừa cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến.
- Nhịp điệu của đoạn thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, người làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình). Ông sinh ra trong một gia đình viên chức ngheo theo đạo Thiên Chúa. Cha mất sớm, ông sống với mẹ ở Quy Nhơn.
Học xong, Hàn Mặc Tử làm công chức cho sở đạc điền Bình Định rồi vào Sài Gòn làm báo. Đến năm 1936, mắc bệnh phong, ông về hẳn Quy Nhơn chữa bệnh rồi sau đó mất tại trại phong Quy Hòa năm 1940. Tuy cuộc đời có nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.
2. Tác phẩm
Xuất xứ của bài thơ Đây thôn vĩ dạ khá đặc biệt. Khoảng giữa những năm 1932-1933, Hàn Mặc Tử làm nhân viên Sở đạc điền Bình Định. Thi sĩ có thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc quê ở Vĩ Dạ nhưng sống ở Quy Nhơn. Ít lâu sau Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, khi mắc bệnh phong, trở lại Quy Nhơn thì Kim Cúc đã theo cha về quê nhà. Nhà thơ đã nhờ một người bạn có việc ra Huế mang tập Gái quê tặng Cúc. Nhận được sách, Kim Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một bức tranh phong cảnh Huế có hình người chèo đò trên sông Hương với lời hỏi thăm hỏi chúc thi sĩ mau bình phục. Sau đó, khoảng năm 1939, Kim Cúc nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Hàn Mặc Tử tặng kèm theo mấy dòng cảm tạ chân thành.
Như vậy, có thể nói, bức tranh phong cảnh và những lời hỏi thăm của Kim Cúc đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc tử viết Đây thôn Vĩ Dạ, thể hiện tình yêu thầm kín của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, cần hiểu rằng đây chỉ là một dyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, với đất nước và con người.
II. Trả lời câu hỏi
1. Câu thơ mở đầu "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là câu hỏi mà thực ra là lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Thực ra câu hỏi vọng lên từ phương trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế, trước hết là về Vĩ Dạ, nơi có người mà nhà thơ thương mến.
Câu thơ "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" như phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những tán cây khác, những tàu lá cau lấp lánh ánh sáng mặt trời buổi sớm mai. Câu thơ có 7 chữ mà có tới 2 chữ nắng, tưởng như Hàn Mặc Tử đã gợi đúng cái đặc trưng của nắng miền trung: nắng chiều và nắng rực rỡ ngay từ lúc bình minh.
Câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" lại là cái nhìn thật gần của người như đang đi trong những khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ. Từ mướt gợi sự tươi non, sạch sẽ, láng bóng của từng chiếc là dưới ánh mặt trời. Trong khi đó, hình ảnh so sánh xanh như ngọc gợi hình dung về những tán cây xanh mướt, mượt mà được ánh nắng mặt trời rực rỡ buổi sơm mai chiếu xuyên qua ánh lên màu xanh trong suốt như màu ngọc.
Trong ba câu đầu, con người chưa xuất hiện. Đến câu thơ thứ tư, sự xuất hiện ấy cũng không trọn vẹn. Nó ngượng ngùng, e ấp "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Một sự xuất hiện kín đáo rất đúng với bản tính của con người đất Huế, bởi chỉ có thể thấy thấp thoáng sau những chiếc lá trúc là khuôn mặt chữ điền, khuôn mặt của người ngay thẳng, cương trực, phúc hậu theo quan niệm của người xưa. Nếu ta hiểu câu thơ đầu là lời của người con gái Huế thì ở câu này hẳn nhân vật trữ tình có lẽ là chủ nhân của "vườn ai". Thế nhưng nếu câu đầu là lời của tác giả thì cũng có thể hiểu đây là hình ảnh của người thi sĩ đang rất khổ đau.
2. Hàn Mặc Tử chuyển mạch thơ sang khổ thứ hai một cách khá đột ngột bằng những hình ảnh ấn tượng. Ở khổ thơ này tâm trí Hàn Mặc Tử hướng về sông Hương với hai nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ mộng. Nhưng không chỉ có vậy, câu thơ còn ẩn sâu trong đó là biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ.
Trong hai câu đầu, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, hợp với nhịp điệu khoan thai của xứ Huế. Tuy nhiên, có vẻ như sự êm đềm chỉ ở cái hình thức bên ngoài, bởi câu thơ đã tàng ẩn một sự chia lìa, tan tác "gió theo lối gió, mây đường mây". Sự chia lìa đã diễn ra ngay trong cả những thứ vốn không thể chia lìa được. Động từ lay thật gợi buồn, buồn đến hiu hắt vây.
Hai câu thơ sau là hai chiều cảm xúc: tâm hồn nhà thơ có buồn , có cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu con người và thiên nhiên xứ Huế. Cảnh thực mà cứ như ảo, vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông sánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thể có thực trên sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng. Nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Chữ kịp hé mở cho ta một mặc cảm: mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy chủ thể đang cố chạy đua với thời gian.
3. Ở hai khổ thơ trên, Hàn Mặc Tử hướng đến thiên nhiên xứ Huế để mà tâm sự. Trong khổ thơ cuối này, nhà thơ trực tiếp tâm sự với người xứ Huế. Câu thơ mở đầu khổ như nhấn mạnh thêm nỗi xót xa "Mơ khách đường xa, khách đường xa" như lời thầm tâm sự của nhà thơ với chính mình trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ mãi chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế chỉ là người khách trong mơ mà thôi.
Câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời "Ai biết tình ai có đậm đà?". Đại từ phiếm chỉ "ai" mở ra hai lớp nghĩa của câu thơ dù hiểu theo theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.
4. Về tứ thơ và bút pháp của bài thơ
- Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ. Ở bài thơ này, tứ thơ bất đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dàng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực - ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hy vọng và niềm tin yêu.
- Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hòa điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tính chất tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn, chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông thân sinh của Tố Hữu là một nhà nho nghèo nhưng rất ham thơ và thích sưu tầm ca dao, tục ngữ. Mẹ Tố Hữu cúng là con một nhà nho. Bà thuộc nhiều ca dao, dân ca xứ Huế và rất giàu tình thương yêu con. Quê hương và gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến hồn thơ Tố Hữu sau này.
Các chặng đường thơ Tố Hữu luôn gắn bó song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng, đồng thời cũng thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ. Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Đây là đặc điểm bao quát nhất sự nghiệp thơ Tố Hữu và cũng chi phối mọi đặc điểm khác của thơ ông.
2. Tác phẩm
Bài thơ Từ ấy nằm trong phần Máu lửa của tập Từ ấy. Bài thơ này có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của một nhà thơ.
Năm 1937, Tố Hữu được giác ngộ và bắt đầu hoạt động cách mạng. Táng 7/1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ ấy chính là cái mốc đánh dấu thời điểm ấy.
II. Trả lời câu hỏi
1. Tố Hữu mở đầu bài thơ bằng những câu thơ đầy háo hức say mê:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hai câu thơ kể lại một kỉ niệm đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ Tố Hữu, đó là khi nhà thơ được giác ngộ lí tưởng cộng sản và được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Để thể hiện niềm vui ấy, nhà thơ đã chọn dùng một loạt từ ngữ gợi hình và gợi cảm: bừng (nắng hạ), chói (qua tim)… Đây đều là những từ ngữ có khả năng tô đậm, nhấn mạnh cảm xúc, tình cảm của nhà thơ. Nó vừa đột ngột, mạnh mẽ vừa sôi nổi và sâu sắc.
Ở hai câu thơ tiếp theo, bút pháp trữ tình lãnh mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã diễn tả nổi bật niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Hai câu thơ thực sự là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hát. Đối với vường hoa lá ấy còn gì đáng quý hơn mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì đáng quý hơn khi có môt lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?
2. Khi có ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi rọi, nhà thơ đã có những nhận thức mới về lẽ sống. Trong quan nhiệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi” cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã khẳng định lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải vơi trăm nơi
Tình thương yêu con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp:
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
3. Giác ngộ lí tưởng cộng sản, nhà thơ đã có những chuyển biến sâu sắc trong tình cảm. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tinh thân yêu ruột thịt:
Tôi đã là con của vạn nhà
Nhà em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Những điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quân chúng lao khổ, đó là những kiếp phôi pha, những em nhỏ “không áo cơm cù bất cù bơ” Qua những lời thơ ấy, người đọc có thể thấy được lòng căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ.
4. Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.