Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2. sự kiện tiêu biểu : khởi nghĩa Xipay , Đảng Quốc Đại ...
Ấn Độ là nước lớn thứ hai ở châu Á, với diện tích gần 3,3 triệu km2, dân số 1 tỉ 20 triệu người (năm 2000). Thắng lợi của Liên Xô và các nước đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã cổ vũ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi, Mĩ Latinh trong đó có Ấn Độ. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, giành độc lập của Ấn Độ phát triển mạnh mẽ.

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
Dù tôi có đưa ra ít ví dụ hơn nữa, thì mọi người vẫn phải đồng ý với tôi rằng: công nhân Anh không thể cảm thấy hạnh phúc trong tình cảnh của họ, cái tình cảnh mà ở đó, cả cá nhân cũng như toàn bộ giai cấp đều không thể sống, cảm giác và suy nghĩ như con người. Vì thế, công nhân phải đấu tranh, để thoát khỏi cái tình cảnh chỉ xứng với súc vật ấy, để có được một tình cảnh tốt hơn, hợp với con người hơn. Và họ không thể làm thế, nếu không tấn công vào lợi ích của giai cấp tư sản, lợi ích đó chính là ở chỗ bóc lột công nhân. Nhưng giai cấp tư sản lại bảo vệ lợi ích của mình, với tất cả sức mạnh mà tài sản và chính quyền của chúng cho phép. Khi công nhân vừa mới tỏ ra muốn thoát khỏi tình cảnh hiện tại, thì lập tức người tư sản trở thành kẻ thù công khai của họ.
Hơn nữa, công nhân lúc nào cũng thấy giai cấp tư sản coi họ như đồ vật và tài sản của chúng, chỉ điều này cũng đủ làm cho công nhân trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản. Tôi đã đưa ra hàng trăm ví dụ, và có thể đưa ra hàng trăm ví dụ nữa, để chứng minh rằng: trong điều kiện hiện nay, chỉ nhờ có việc căm thù và chống lại giai cấp tư sản, thì công nhân mới cứu vãn được phẩm giá con người của mình. Công nhân Anh có năng lực chống lại sự bạo ngược của bọn hữu sản một cách cực kì mãnh liệt; đó là nhờ họ tự giáo dục mình, đúng hơn là nhờ họ không được giáo dục, cũng như nhờ dòng máu nóng của người Ireland hòa trộn bên trong họ.
Công nhân Anh không còn là người Anh theo nghĩa thông thường: không phải thứ con buôn luôn tính toán như đồng bào tư sản của mình, anh ta giàu tình cảm hơn nhiều; ở anh ta, tính khí lạnh lùng của người miền Bắc đã bị át đi, bởi lòng nhiệt tình sôi nổi đã phát triển và chi phối anh ta, mà không bị trở ngại. Việc rèn luyện lí trí đã phát triển mạnh mẽ tính ích kỉ của người tư sản Anh, đã khiến sự ích kỉ trở thành nét tiêu biểu của y, làm cho toàn bộ tình cảm của y chỉ tập trung vào việc chạy đua kiếm tiền; công nhân không có sự rèn luyện lí trí ấy, thế nên nhiệt tình của họ cũng mạnh mẽ và kịch liệt như ở người nước ngoài. Ở công nhân, những đặc trưng dân tộc của người Anh đã mất đi.
Như ta đã thấy, ngoài việc đấu tranh chống lại tình cảnh của mình, thì công nhân không có chỗ nào khác để biểu lộ nhân cách của mình nữa; thế nên đương nhiên là chính trong sự phản kháng ấy, công nhân đã biểu hiện những điều tốt đẹp nhất, cao quí nhất, nhân đạo nhất. Ta sẽ thấy là toàn bộ lực lượng và hoạt động của công nhân đều nhằm vào hướng này, và cả những cố gắng để có được một nền giáo dục xứng đáng với con người đều có quan hệ trực tiếp với điểm ấy. Dĩ nhiên, ta phải nói đến một vài hành vi cá biệt có tính bạo lực, thậm chí là thô bạo, nhưng không bao giờ nên quên rằng: ở Anh đang diễn ra một cuộc chiến tranh xã hội công khai; và nếu giai cấp tư sản thích dùng chiêu bài hòa bình, thậm chí là bác ái, để tiến hành cuộc chiến ấy một cách đạo đức giả, thì chỉ có vạch trần sự thật, lột bỏ cái mặt nạ đạo đức giả ấy, mới có lợi cho công nhân; bởi vậy, ngay cả những hành động bạo lực dữ dội nhất của công nhân, để chống lại giai cấp tư sản và tay sai của nó, cũng chỉ là biểu hiện công khai, không che đậy, của cái mà giai cấp tư sản đã làm một cách kín đáo và lén lút đối với công nhân.
Công nghiệp phát triển chưa được bao lâu, thì cuộc đấu tranh của công nhân chống giai cấp tư sản đã nổ ra, và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ở đây tôi không thể nói tỉ mỉ về ý nghĩa lịch sử của những giai đoạn ấy đối với sự phát triển của nhân dân Anh; đấy là chủ đề của một tác phẩm khác. Tôi chỉ thuật lại những sự kiện cần thiết, để nói rõ tình cảnh của giai cấp vô sản Anh.
Hình thức đầu tiên, thô sơ và ít hiệu quả nhất của sự đấu tranh là phạm tội. Công nhân phải sống nghèo khổ, bần cùng, lại thấy đời sống của kẻ khác khá hơn mình; anh ta không hiểu: tại sao mình lao động cho xã hội nhiều hơn bọn nhà giàu ăn không ngồi rồi, mà phải chịu thiếu thốn như thế. Và sự đói khổ đã thắng lòng tôn kính cổ truyền của anh ta đối với quyền sở hữu, do đó anh ta ăn cắp. Ta đã thấy: cùng với sự phát triển của công nghiệp, những vụ phạm tội ngày càng tăng, số người bị bắt hàng năm tăng theo cùng tỉ lệ với số hàng bông được tiêu dùng.
Công nhân đã sớm nhận ra là làm thế thì chẳng ích gì. Việc phạm tội chỉ là hành động đơn thương độc mã chống lại chế độ xã hội hiện tồn, với tư cách cá nhân; mà xã hội có thể dùng mọi sức mạnh để đối phó, và áp đảo kẻ địch đơn độc bằng ưu thế tuyệt đối. Hơn nữa, trộm cắp là hình thức đấu tranh thô sơ và vô ý thức nhất; thế nên riêng một việc đó không thể trở thành biểu hiện chung của dư luận công nhân, dù họ vẫn ngầm tán thành. Sự chống đối của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản chỉ bắt đầu, khi công nhân dùng bạo lực để chống lại việc sử dụng máy móc, việc này đã xảy ra ở buổi đầu của cách mạng công nghiệp. Những nhà phát minh đầu tiên, như Arkwright và những người khác, đã bị thứ bạo lực ấy hãm hại, còn máy móc của họ thì bị phá hủy; về sau lại nổ ra nhiều cuộc nổi dậy chống sử dụng máy móc, nó hầu như giống hệt với những cuộc bạo loạn của công nhân in vải hoa ở Bohemia tháng Sáu 1844: máy móc và công xưởng đều bị phá hủy.
Hình thức phản kháng ấy cũng có tính cô lập, bị hạn chế ở những khu vực cá biệt, chỉ nhằm vào một mặt của các quan hệ xã hội hiện hành. Hơn nữa, ngay khi công nhân vừa giành được thắng lợi chốc lát, thì toàn bộ sức nặng của quyền lực xã hội liền đè lên những kẻ phạm tội không có gì tự vệ, và mặc sức trừng phạt họ, còn máy móc thì lại vẫn được dùng. Phải tìm ra một hình thức đấu tranh mới.
Khi đó, nghị viện cũ (trước khi cải cách), do đảng Tory nắm, đã thông qua một đạo luật để giúp công nhân; nó sẽ chẳng bao giờ được Hạ viện sau này thông qua, khi mà dự luật cải cách đã thừa nhận sự đối lập giữa tư sản với vô sản, và đưa giai cấp tư sản lên hàng thống trị. Được thông qua năm 1824, nó đã xóa bỏ mọi đạo luật trước kia cấm công nhân liên kết lại để bảo vệ lợi ích của mình. Thế là công nhân cóquyền lập hội, một quyền mà trước kia chỉ quí tộc và tư sản mới có. Thực ra thì trong công nhân vẫn thường có những hội bí mật, nhưng chúng không thể có thành tích gì đáng kể. Như ở Scotland, theo Symons ("Nghề thủ công và thợ thủ công", tr. 137 và các trang sau), năm 1812 đã có tổng bãi công của thợ dệt ở Glasgow, do một hội bí mật tổ chức. Năm 1822 lại có bãi công, có hai công nhân, vì không chịu vào hội nên đã bị coi là phản bội giai cấp mình; họ đều bị tạt acid sulfuric vào mặt, do đó bị mù. Năm 1818, hội thợ mỏ ở Scotland đã đủ mạnh để tiến hành tổng bãi công. Mỗi hội viên của hội này đã thề trung thành và giữ bí mật, có danh sách hội viên, quĩ hội, sổ sách và các chi hội địa phương. Nhưng tính chất bí mật của toàn bộ hoạt động đã gây trở ngại cho sự phát triển của các hội ấy. Đến năm 1824, công nhân có quyền tự do lập hội, thì những hội ấy lan rộng rất nhanh trên khắp nước Anh, và có ảnh hưởng lớn. Trong mọi ngành lao động đều thành lập các công liên như thế, với chủ trương công khai là bảo vệ từng công nhân riêng lẻ, chống sự bạo ngược và nhẫn tâm của giai cấp tư sản. Mục đích của những công liên ấy là: qui định tiền lương, thương lượng với giới chủ trên tư cách là một lực lượng, điều chỉnh tiền lương theo lợi nhuận của chủ, tăng lương khi có thể, và giữ một mức lương bằng nhau cho một nghề ở mọi nơi. Do đó, họ thường đấu tranh đòi các nhà tư bản thực hiện một mức lương chung, và tuyên bố bãi công với người nào không chấp nhận mức đó. Thứ nữa, công liên hạn chế việc tuyển thợ học việc, để giữ vững nhu cầu về nhân công của bọn tư bản, từ đó giữ vững tiền lương; cố gắng hết sức chống các thủ đoạn hạ thấp tiền lương của chủ xưởng, như việc dùng máy móc và công cụ mới, v.v.; cuối cùng là giúp tiền cho công nhân thất nghiệp. Việc này được tiến hành trực tiếp bằng tiền quĩ, hoặc gián tiếp bằng việc cấp một cái thẻ xác nhận là "người trong hội" cho mỗi công nhân; người có thẻ đó, khi đi từ nơi này tới nơi khác, sẽ được bạn cùng nghề giúp đỡ và chỉ cho nơi nào dễ tìm việc. Cảnh sống lang thang đó của công nhân được gọi là "the tramp", còn anh công nhân đi lang thang ấy được gọi là tramper. Để đạt những mục đích nói trên, công liên cử một chủ tịch và một thư kí ăn lương, vì rõ ràng là không chủ xưởng nào thuê những người ấy; và lập một ban chấp hành, để thu hội phí hàng tuần, đảm bảo rằng số tiền ấy được dùng đúng với mục đích của công liên. Khi có thể và có lợi, các công liên ở từng khu liên kết thành một liên hiệp công liên, có tổ chức hội nghị đại biểu định kì. Trong vài trường hợp riêng biệt, người ta đã thử tập hợp mọi công nhân của một ngành vào một công liên lớn của cả nước Anh; cũng có nhiều lần, đầu tiên là vào năm 1830, người ta đã thử lập một liên hiệp công nhân thống nhất toàn quốc, đồng thời mỗi ngành nghề vẫn giữ tổ chức riêng của mình. Nhưng các liên hiệp ấy không tồn tại lâu, thậm chí rất ít được thành lập; vì phải có một cao trào đặc biệt rộng khắp, thì chúng mới có thể ra đời và hoạt động hiệu quả.
Để thực hiện mục đích của mình, các công liên thường dùng những biện pháp sau: nếu có một vài chủ xưởng không thừa nhận mức lương do công liên qui định, thì công liên cử một đoàn đại biểu tới gặp họ, hoặc gửi cho họ một đơn thỉnh nguyện (ta thấy là công nhân biết coi trọng quyền lực chuyên chế tuyệt đối của chủ xưởng trong vương quốc nhỏ của y). Nếu làm thế không có kết quả, thì công liên ra lệnh đình công: tất cả công nhân giải tán về nhà. Nếu chỉ có một vài chủ xưởng không chịu theo mức lương do công liên đề xuất, thì cuộc bãi công đó (gọi là turn-out hoặc strike) chỉ là cục bộ; nếu tất cả các chủ xưởng trong một ngành đều làm thế, thì cuộc bãi công trở thành tổng bãi công. Đó là những thủ đoạn hợp pháp của công liên: chỉ là hợp pháp nếu cuộc bãi công được báo trước, thực tế thì không phải lúc nà...

6.
Nước Nga năm 1917 có 2 cuộc cách mạng:
- Đầu thế kỉ XX, nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân khó khăn, Nga hoàng tham gia chiến tranh TG thứ I.
- Nhân dân Nga tiến hành cách mạng tháng 2 lật đổ Nga, nhưng sau khi Nga hoàng bị lật đổ nước Nga tồn tại 2 chính quyền.
- Chính phủ tư sản vẫn theo đuổi chiến tranh TG thứ I, Lê Nin lãn đạo nhân dân Nga tiến hành cách mạng tháng 10 để lật đổ chính phủ tư sản.
------>nên năm 1917 nước Nga có 2 cuộc cách mạng.
Ý nghĩa LS cách mạng tháng 10:
- Đối với nước Nga:
+ Làm thay đổi vận mệnh của nước Nga, đưa người lao đọng lên nắm chính quyền.
+Xây dựng chế độ mới XH-CN.
- Đối với TG:
+ Để lại bài học quý báo cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Cổ vũ các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi.
c4 trong sách lịch sử 8 trang 37
chắn chắc luôn thầy mink bảo đó

- Phạm vi hoạt động: rộng lớn, diễn ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu là Trung, Bắc Kì, về sau chuyển về vùng trung du, miền núi.
- Lãnh đạo: gồm các văn thân sĩ phu yêu nước.
- Mục tiêu chung: đánh Pháp, giành lại độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, lập lại chế độ phong kiến.
- Lực lượng tham gia: các văn thân sĩ phu yêu nước và nông dân, đồng thời có các tộc người thiểu số.
- Hình thức đấu tranh: khởi nghĩa vũ trang.
- Kết quả: phong trào kéo dài hơn 10 năm, gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng cuối cùng đã thất bại.
-Ý nghĩa:+ Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động sự ủng hộ của đông đảo nhân dân; tranh thủ sự giúp đỡ mọi mặt của đồng bào.
+ Biết sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, khai thác sức mạnh tại chỗ, phát huy tính chủ động sáng tạo trong cách đánh, lối đánh của cuộc chiến tranh.

Cách mạng tư sản | Cách mạng công nghiệp |
Cách mạng tư sản, theo học thuyết Marx, là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm thay thế chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tư sản bắt đầu từ thế kỷ 16 kéo dài tới thế kỷ 20. Nó đã thiết lập nền dân chủ tư sản và tạo ra phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đồng thời có một tiến bộ vượt bậc về phương thức sản xuất, là một bước tiến có ý nghĩa lịch sử trong xã hội nhân loại. Mặc dù vậy, những học giả chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng cách mạng tư sản vẫn là sự thay thế chế độ bóc lột phong kiến bằng chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, chưa giải quyết được vấn đề cơ bản của xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người. | Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. |

2.Chủ nghĩa đế quốc Anh được gọi là "chủ nghĩa đế quốc thực dân” vì : Cho đến cuối thế kỉ XIX, cả hai đảng Tự do và Bảo thủ cầm quyền ở Anh đều thực hiện chính sách tích cực mở rộng hệ thống thuộc địa, đặc biệt ở châu Á và châu Phi. Đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Anh đã rải khắp Địa cầu, chiếm 1/4 diện tích lục địa (33 triệu km2) và 1/4 dân số thế giới (400 triệu người). Giai cấp tư sản Anh đã tự hào là "Mặt Trời không bao giờ lặn trên lãnh thổ Anh", Anh đã trở thành cường quốc thực dân hạng nhất. Khác với Pháp, Đức, phần lớn tư bản xuất cảng của Anh đều nằm ngoài châu Âu, chủ yếu là đầu tư sang các thuộc địa. Các công ti lũng đoạn thuộc địa của Anh đã dùng nhiều thủ đoạn bóc lột tinh vi, tàn nhẫn, nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, thu vẻ những khoản lợi nhuận kếch xù.
Câu 4: Trả lời:
Ngắn gọn, xúc tích nha!
Cuộc Duy Tân là cuộc cải cách làm cho các sĩ phu yêu nước của nhiều được cũng lãnh đạo nhân dân nổi dậy đấu tranh. Lấy cải cách Duy Tân Minh Trị là gương để thực hiện tốt hơn.
Xuất phát từ đặc điểm lịch sử của Ấn Độ, Đảng Quốc đại đứng đầu là M. Gandi lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng bạo lực như không đóng thuế, tẩy chay hàng hóa Anh... Phong trào này được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ hưởng ứng.
Đáp án cần chọn là: D