Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Sai
- Lor – ca tên đầy đủ là Phê – đê ri – cô Gar – xi – a Lorca (1898 – 1936), một trong những tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha. Từ nhỏ, Lor – ca được coi là thần đồng với năng khiếu thiên bẩm trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật: thơ ca, hội họa, âm nhạc, sân khấu,…Lor – ca nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng, khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Sự có mặt của Lor –ca và nhiều tài năng khác lúc bấy giờ đã khiến cho đời sống tinh thần của Tây Ban Nha và cả một vùng rộng lớn thuộc khu vực Tây Âu trở nên sôi động. Hoảng sợ trước sự ảnh hưởng xã hội to lớn của Lor – ca, năm 1936, chế độ phản động cực quyền thân phát xít đã bắt giam và bắn chết ông.
- Đúng
“Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”
=> Lời đề từ chính là di chúc của Lor – ca khi dự cảm về cái chết của mình
Hình tượng Lor-ca là người nghệ sĩ tự do nhưng đơn độc
- “Những tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật lung linh mà Lor-ca tạo ra, đó là dự cảm về số phận ngắn ngủi, mong manh của Lor-ca
- Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt: cuộc chiến đấu quyết liệt giữa dân chủ tự do với phát xít độc tài
→ Người anh hùng Lorca đơn độc, dũng cảm trên con đường đấu tranh cho cách tân nghệ thuật và dân chủ
Lor-ca cái chết đầy oan khuất
- Lor-ca đầy khí phách, ngang tàng trên quê hương Tây Ban Nha
- Cái chết oan khuất, bi thảm ập tới, cả đất nước Tây Ban Nha nuối tiếc trước sự ra đi của chàng
- lor-ca cho tới lúc chết vẫn say sưa, ngẩng cao đầu trong miền cách tân nghệ thuật
Lor-ca người nghệ sĩ bất tử cùng nghệ thuật chân chính
- Cảm hứng trong nghệ thuật của Lor-ca vì quê hương, vì tình yêu và vì chính nghệ thuật
- Tiếng ghi ta có nhiều biến thể đa dạng, phong phú: tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy
- Số phận của nghệ thuật Lor-ca sau khi chàng mất:
- Hành trình cách tân nghệ thuật của Lor-ca có sức sống mãnh liệt, đó cũng là sự thương cảm về cái chết bi thảm của Lor-ca
- Giọt nước mắt vầng trăng: hình ảnh siêu thực, đa nghĩa, bắt nguồn từ cái chết thương tâm của Lor-ca. Đó cũng là tình thương, sự cao khiết, sự hóa thân, sự thăng hoa của tâm hồn nghệ sĩ
- “Ném lá bùa”, “ném trái tim” là sự giải thoát của Lor-ca sau khi chết, người nghệ sĩ chân chính ý thức “cái chết” của bản thân để được tái sinh mạnh mẽ, để thế hệ sau tiếp tục cách tân
+ Ý thức sự gắn bó của Lor-ca với nghệ thuật, ông muốn thế hệ kế cận vượt qua án ngữ nghệ thuật của mình
- Tiếng đàn bất tử, tâm hồn nghệ sĩ bất tử của Lor-ca
→ Sự ngưỡng mộ của người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX bị giết hại
- Đúng
- “không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang”: Khi Lor – ca chết đi, nền nghệ thuật Tây Ban Nha thiếu vắng kẻ dẫn đường, như cỏ mọc hoang. Đồng thời , tác giả Thanh Thảo đã so sánh sức sống nghệ thuật của Lor – ca như cỏ mọc hoang, sức sống mãnh liệt và lưu truyền mãi. Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật, là khát vọng nghệ thuật mà cả đời Lor – ca theo đuổi, là cái đẹp mà mọi thế lực đều không thể hủy diệt được.
- Đúng
- Câu thơ Lor – ca bơi sang ngang / trên chiếc ghi ta màu bạc tượng trưng cho hình ảnh Lor – ca giã từ cõi thực sang thế giới bên kia nhưng vẫn luôn gắn bó với nghệ thuật. Dù cuộc đời Lor – ca ngắn ngủi, đơn độc nhưng với ông nghệ thuật là khát vọng cả đời ông theo đuổi.
Thanh Thảo là một nhà thơ khoác áo lính, ông sinh ra tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp khoa văn trường Đại Học Tổng Hợp nhưng sau đó vào chiến trường miền Nam công tác. Thanh Thảo luôn nỗ lực tìm tòi hướng để cách tân thơ Việt. Ông đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là một trong những người đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã xây dựng thành công hình tượng nghệ sĩ Lor-ca.
Lor-ca là một nghệ sĩ thiên tài người Tây Ban Nha. Ông có một tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị cũng như đời sống nghệ thuật của Tây Ban Nha. Trong đời sống nghệ thuật, ông là một trong những người đi đầu đẻ cách tân nền nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha thời bấy giờ. Trong đời sống chính trị ông là người khởi xướng phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã hết sức phản động. Năm 1936 bè lũ Phrăng-cô quá hoảng sợ trước tầm ảnh hưởng của Lor-ca nên chúng đã tìm cách bắt và sát hại ông. Tuy nhiên sau cái chết của Lor-ca , sự ảnh hưởng của ông càng trở nên mạnh mẽ hơn. Nó vượt qua biên giới của Tây Ban Nha. Tên tuổi của Lor-ca đã trở thành biểu tượng cho công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại. Sự ảnh hưởng của Lor-ca không chỉ trong thời đại của ông mà nó còn tồn tại cho tới bây giờ. Cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến của Lor-ca chính là những tác động khơi nguồn cảm xúc để Thanh Thảo viết bài thơ.
“khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”
“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li la li la li la
đi lang thang vè miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây Ban Nha
hát ngêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du
Tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
không ai chon cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
lòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li la li la li la. . .
Thanh Thảo đặt nhan đề bài thơ là “Đàn ghi ta của Lor-ca”, đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha, Lor-ca là người nghệ sĩ thiên tài của Tây Ban Nha, nhan đề bài thơ đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ là Lor-ca và gắn liền với hình tượng ấy biểu tương nghệ thuật mang tính cách tân của Lor-ca, của đất nước Tây Ban Nha: đàn ghi ta. Lor-ca là người nghệ sĩ sáng tạo, đàn ghi ta là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tạo.
Lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là lời chăng chối cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống của Lor-ca, đồng thời cũng nói lên tâm nguyện của Lor-ca. Nếu cây đàn mang nghĩa biểu trưng cho xứ sở Tây Ban Nha, cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha thì lời đề từ đã thể hiện tình yêu, sự gắn bó của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, với nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Cũng có thể hiểu cây đàn là biểu trưng cho sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca, điều này cho ta thấy Lor-ca sẵn sàng dũng cảm lùi mình vào quá khứ để mở ra con đường thênh thang cho thế hệ sau thỏa sức mà sáng tạo. Lor-ca coi sự nghiệp sáng tạo, những cống hiến của mình là nền móng chứ không phải bức tượng đài, không phải ranh giới để thế hệ sau có thể đứng trên nền móng đó được thỏa sức sáng tạo.
Bài thơ được viết theo trường phái thơ tương trưng siêu thực nên khi đọc thì độc giả có thể thỏa sức tưởng tượng để hiểu những hình ảnh theo nhiều chiều khác nhau. Khổ thơ đầu bài thơ Thanh Thảo tái hiện hình ảnh của Lor-ca trên nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” biểu trưng cho sự sống và sự sáng tạo của Lor-ca vô cùng mỏng manh và rất dễ vỡ, tan biến . “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” biểu trưng cho môi trường chính trị ở Tây Ban Nha bức bối, ngột ngạt, phản động. Trong hai câu thơ đầu tác giả đặt hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” bên cạnh hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” như một dụng ý cho thấy cuộc sống của Lor-ca đang cực kì bức bối, ông dường như đang phải cố gồng mình lên để đối mặt với một chế độ xã hội phản động, già nua, có thể nói cuộc sống của ông là đầy thách thức. Câu thơ thứ ba ghi lại chuỗi hợp âm của tiếng đàn ghi ta “li la li la li la”, nó biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca . Như vậy dù sống trong một môi trường xã hội ngột ngạt nhưng người nghệ sĩ Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật, vẫn say xưa với những sáng tạo nghệ thuật của mình. “Đi lang thang về miền đơn độc”, người nghệ sĩ đi nhưng chưa xác định rõ được đích đến, người nghệ sĩ vừa đi vừa suy nghĩ vừa tìm tòi. Đi về miền đơn độc là đi về miền của tâm trạng, miền của cảm xúc. Đây là hành trình đi tìm cái tôi sáng tạo, đi tìm cái tôi của người nghệ sĩ, tìm cảm hứng sáng tạo. Đồng hành cùng với người nghệ sĩ là vầng trăng, là chú ngựa nhưng lại là vầng trăng “chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn”. Vầng trăng thì xa vời, hư ảo, nửa say nửa tỉnh, chú ngựa cũng mỏi mòn, mệt mỏi rã rời, một hành trình vô cùng nhọc nhằn và cô đơn, hành trình “đơn thương độc mã”. Lor-ca là một người nghệ sĩ dám sống và cả dám chết vì nghệ thuật, dám cháy hết mình cho nghệ thuật. Mặc dù luôn luôn phải đối mặt với khó khăn khốc liệt nhưng khát vọng cách tân nền nghệ thuật già nua lúc nào cũng bùng cháy mãnh liệt trong Lor-ca.
Hai khổ thơ tiếp theo, Thanh Thảo tái hiện cái chết của Lor-ca cũng vẫn qua những hình ảnh thơ mang tính tượng trưng. “Tây ban Nha hát nghêu ngao”, Tây Ban Nha ở đây chính là Lor-ca, dường như tất cả những tinh hoa những vẻ đẹp của Tây Ban Nha đã hội tụ trong con người Lor-ca. Lor-ca bây giờ không chỉ là con người cá nhân mà là một biểu tương cho xứ sở Tây Ban Nha. Thanh Thảo đã thể hiện rất rõ tình cảm ngưỡng mộ, khâm phục, kính trọng của mình dành cho thần tượng – Lor-ca. Hành động “hát nghêu ngao” cho thấy một tâm trạng phấn khích, vui vẻ, một cuộc sống đang diễn ra bình dị. “bỗng kinh hoàng”, tín hiệu báo hiệu tin dữ, việc xấu ập đến. “áo choàng bê bết đỏ”, Lor-ca đã bị bắn trọng thương. Sau hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”, nghĩa là sau khi Lor-ca đã bị bắn trọng thương là một loạt hình ảnh diễn tả sự biến đổi liên tục, liên hoàn của tiếng đàn: “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta xanh”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước”, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Từ khi viên đạn xuyên thấu vào cơ thể Lor-ca, nó đã phá tan những điều giản dị nhưng đáng quí như là tình yêu, hi vọng, để rồi cuối cùng kết lại trong một cái chết oan nghiệt và thảm khốc. Thanh thảo đã có cách diễn đạt hình tượng hóa giúp chúng ta như cảm nhận được quá trình ập đến của cái chết và qua đó cũng ta cũng cảm nhận được sự đau đớn, xót xa của Thanh Thảo trước sự ra đi của thần tương trong lòng mình.
Khổ thơ tiếp theo chính là tiếng nói tri âm đồng vọng của Thanh Thảo với Lor-ca. Hai câu thơ đầu của khổ thơ mang hình thức đối thoại “không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang”, đó là lời đối của Thanh Thảo lại lời chăng chối của Lor-ca là lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Lor-ca nhắn nhủ rằng hãy đưa tôi vào quá khứ, hãy để tôi làm nền móng để cho thế hệ sau xây lên lâu đài nghệ thuật vĩ đại hơn nhưng thực tế thì “không ai chôn cất tiếng đàn” nghĩa là không ai thấu hiểu và thực hiện được tâm nguyện chân chính mà Lor-ca đã gửi gắm. Tiếng đàn được ví như cỏ mọc hoang, nền nghệ thuật của Tây Ban Nha đang phát triển nhưng không theo một đường lối thống nhất, nó phát triển tùy theo sở thích và cảm hứng của người sáng tạo. Thanh Thảo và Lor-ca là hai người nghệ sĩ cách xa nhau về thế hệ, khác xa nhau về nề văn hóa nhưng ở họ vẫn có những tiếng nói tri âm đồng vọng, phải chăng đó là sự gặp gỡ của người nghệ sĩ có cùng quan điểm sáng tác, có chung nguồn cảm hứng sáng tạo. hai câu thơ cuối đoạn thơ đã thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Thanh Thảo trong một hình ảnh được khúc xạ nhiều chiều không gian “giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng”, Phải chăng hình ảnh này xuất phát từ một sự việc sau khi giết chết Lor-ca, để giấu giếm tôi ác, để phi tang, bọn giết Lor-ca đã vứt thi thể ông xuống giếng. Phải chăng đó là hình ảnh biểu thị cho một nỗi đau không thể nguôi ngoai?
Hai khổ thơ cuối bài thơ Thanh Thảo tập trung diễn tả sự giã từ của Lor-ca, Lor-ca đã chết nhưng đối với Thanh Thảo Lor-ca có thực sự đã vĩnh viễn ra đi? Thanh Thảo nhắc tới “đường chỉ tay đã đứt” là nhắc tới cái chết, nhắc tới sự hữu hạn của đời người, nhắc tới “dòng sông rộng vô cùng” chỉ sự vô hạn của cuộc đời chung, dòng sông cuộc đời. Đó là một quy luât nghiêt ngã mà mỗi người đều phải trải qua và Lor-ca cũng không thể tránh khỏi. Chỉ có điều trong cảm nhận của Thanh Thảo, đây là cuộc giã từ chủ động và thanh thản. Chàng chủ động bơi sang bên kia dòng sông cuộc đời trên chiếc ghi ta đã ngả màu bạc. Chàng chủ động để lại tín ngưỡng, tình yêu “chàng ném lá bùa cô gái Di-gan – vào xoáy nước – chàng ném trái tim mình – vào lặng yên bất chợt”. Lor-ca không chết trong cảm nhận của Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống, sống ở phía bên kia của dòng sông cuộc đời. thanh Thảo đã bất tử hóa hình tượg nhân vật Lor-ca. Với Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống bằng những sáng tạo, bằng những cống hiến cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha và nền nghệ thuật thế giới. Câu thơ cuối bài ghi lại hợp âm tiếng đàn ghi ta “li la li la li la . . .” và nó tiếp tục biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca. Như vậy trong cảm nhận của Thanh Thảo ở phía bên kia dòng sông cuộc đời Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật. Hay nói cách khác Lor-ca và những sáng tạo của ông vẫn còn mãi trong tâm tưởng của tác giả Thanh Thảo và của mọi người. Hai câu thơ đặc biệt đã mang lại tính nhạc cho bài thơ, hơn nữa câu thơ cuối bài như một giai điệu ngân vang tạo nên dư âm trong lòng người đọc.
Bằng việc sử dụng hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao, Thanh Thảo đã xây dựng thành công hình tượng Lor-ca từ sự sống tới cái chết, đồng thời thể hiện những tình cảm của mình dành cho thần tượng. Từ đó giúp người đọc cảm nhận được Lor-ca là một người chiến sĩ, người nghệ sĩ đấu tranh không ngừng nghỉ cho những khát vọng chân chính và cao cả: cách tân nền nghệ thuật già nua, đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã quá phản động.
Bên cạnh việc sử dụng hình ảnh thơ mang tính tượng trưng Thanh Thảo còn tổ chức bài thơ, phân câu theo một trật tự khác thường.Bài thơ có hình thức âm thanh, nhưng câu thơ không vần, không dấu chấm, không dấu phẩy, không viết hoa đầu dòng.
Bài thơ thành công trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật của trường phái thơ tượng trưng siêu thực . Tác phẩm cũng là một minh chứng cho việc luôn luôn tìm hướng để cách tân thơ Việt của ông. Hình tượng nghệ sĩ Lor-ca mang tầm vóc vĩ đại sẽ sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ.
- Tên đầy đủ: Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a-Lor-ca (1898-1936) là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha. Được coi là thần đồng với năng khiếu thiên bẩm trên nhiều lĩnh vực của nghệ thuật: Thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, sân khấu...
- Lor-ca cổ vũ nhân dân đấu tranh, đòi quyền sống và là người khởi xướng những cách tân nghệ thuật
- Hoảng sợ trước ảnh hưởng xã hội to lớn của Lor-ca, năm 1936 bọn phát xít đã bắt giam và bắn chết ông.
- Cái chết của Lor-ca đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trên thế giới. Tên tuổi Lor-ca từ đó trở thành một biểu tượng, là ngọn cờ tập hợp các nhà văn hóa Tây Ban Nha và thế giới chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại.
Thị là người có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết gì về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không còn phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, Thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
Đáp án cần chọn là: B
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Khi hòa bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.
Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ.
Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật như anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đồng", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng.
Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ấm áp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua".
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một con người có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là cả một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.
Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
* * *
Chúc bạn hok tốt!!!
Cái chết:
- "Bỗng kinh hoàng/ áo choàng bê bết đỏ": Cái chết của Lorca được miêu tả bất ngờ, dữ dội và đầy bi thương.
- "Máu chảy đêm qua/ trên đường trắng ngà": Hình ảnh ẩn dụ cho sự hy sinh của Lorca.
- "Đường chỉ tay đứt": Biểu tượng cho sự kết thúc của cuộc đời Lorca.
Sự bất tử:
- "Tiếng đàn ròng ròng máu chảy": Tiếng đàn của Lorca vẫn tiếp tục ngân nga, bất chấp cái chết.
- "Tiếng đàn không ai chôn cất": Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lorca, sẽ sống mãi trong lòng người.
- "Cây đàn ghi ta/ lá hoa rụng đầy": Hình ảnh ẩn dụ cho sự bất tử của nghệ thuật Lorca.
Ngoài ra:
- Giọng thơ đa dạng: Bi tráng, hào hùng, trữ tình.
- Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, thể hiện cảm xúc mãnh liệt của tác giả.
Kết luận:
- Bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca" đã thể hiện sự tiếc thương của tác giả trước cái chết của Lorca, đồng thời khẳng định sự bất tử của nghệ thuật Lorca. Tiếng đàn của Lorca sẽ mãi mãi sống trong lòng người yêu nghệ thuật.