Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hoa Hồng Muốn Tặng – Tác Giả: Nguyễn Nhật
Rộn ràng ngày tám tháng ba
Hỏi người còn có lượt là điểm trang
Đường yêu có bước vội vàng
Hồn theo lối mộng lang thang kiếm tìm
Cuối trời hoang một cánh chim
Nửa đời chở nặng nỗi niềm ai hay
Ngày xưa chẳng dám tỏ bày
Giờ đây chắc đã phôi phai cuộc tình
Hoa buồn cũng nhạt hương trinh
Nụ hồng muốn tặng… chùng chình… lại thôi!
Bông hoa không tặng
Tác giả: Phan Thị Thanh Nhàn
Lời bài thơ:
Hẹn gặp anh trước Tết
Mang theo một đoá hồng
Bao nhiêu lời chúc đẹp
Định nhờ hoa nói giùm
Chuyện trò bâng quơ mãi
Mẹ già thêm tuổi trời
Những hàng cây Hà Nội
Việc đang làm nay mai.
Biết đời anh từng trải
Công với việc ngập đầu
Vẫn tấm lòng ưu ái
Đôi mắt nhìn xa sâu
Tay cầm hoa bỗng ngượng
Ý nghĩ mình trẻ con
Anh sẽ cười nếu tặng
Đem hoa về thôi nhé
Đoá hồng vô duyên ơi
Hoa đâu còn ý nghĩa
Khi ở bên một người...
Hoa hồng nhung chóng tàn!
c1:
câu thơ này chỉ cảnh buôn bán tấp nập, giàu có của mảnh đất kinh thành xưa
c2:
lục bát , đặc điểm là thơ lục bát có một câu 6 và một câu 8 , có điệp vần câu trên với câu dưới.
Câu 3: Tìm trong đoạn thơ 1 từ láy. Nêu tác dụng của từ láy đó.
lưu truyền
tác dụng : giới thiệu rõ ràng việc chép bài thơ như thế nào.
Câu 4: Tìm 1 cụm từ trong câu " Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ ". Đó là loại cụm từ gì? Do loại từ nào làm phần chính?
nhớ cảnh ngẩn ngơ
cụm từ tự do
loại từ chính là : cảnh.
câu1: câu thơ này chỉ cảnh buôn bán tấp nập, giàu có của mảnh đất kinh thành xưa
câu2: lục bát , đặc điểm là thơ lục bát có một câu 6 và một câu 8 , có điệp vần câu trên với câu dưới.
câu 3: Tìm trong đoạn thơ 1 từ láy. Nêu tác dụng của từ láy đó. lưu truyền tác dụng : giới thiệu rõ ràng việc chép bài thơ như thế nào.
câu 4: Tìm 1 cụm từ trong câu " Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ ". Đó là loại cụm từ gì? Do loại từ nào làm phần chính?
nhớ cảnh ngẩn ngơ
cụm từ tự do loại từ chính là : cảnh.
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh cùa cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Mặc dù “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã cách xa chúng ta hơn ba thế kỉ nhưng những câu thơ trong “Truyện Kiều” vẫn cứ réo rắc, ngân nga, lặng lẽ chảy vào trong chiều sâu văn hóa, tâm hồn của mỗi người dân Việt. Ta không khó để có thể bắt gặp những con người yêu Kiều như bói Kiều, vịnh Kiều và ngâm Kiều… Vậy, đâu là điều làm nên sức ảnh hưởng và sực sống lâu bền ấy của tác phẩm? Đó không chỉ nhờ có phương diện nội dung mà còn có cả những đóng góp về yếu tố nghệ thuật độc đáo, đặc sắc. Một trong các thủ pháp nghệ thuật đạt tới đỉnh cao hiếm có trong “Truyện Kiều” là thủ pháp “tả cảnh, tả tình” (hay còn gọi là tả cảnh ngụ tình). Sáu câu thơ cuối đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một minh chứng tiêu biểu cho sự thành công về mặt nghệ thuật ấy.
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu như ở những câu thơ trước, khung cảnh thiên nhiên và bức tranh lễ hội mùa xuân hiện lên thật sống động, tươi vui, chan chứa sức sống với lòng người rộn rã, náo nức, đông vui vào lúc sáng sớm dưới ánh sáng bình minh ấm áp, thì đến sáu câu thơ cuối, nhịp thơ như chùng xuống, chậm lại nhẹ nhàng trong bức tranh của buổi chiều hoàng hôn, thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đó là khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Từ láy “tà tà” rất giàu tính tạo hình, lại vừa giàu tính biểu cảm, vừa có tác dụng diễn tả sự chuyển động về mặt không gian, lại vừa diễn tả sự vận động về mặt thời gian. Ánh nắng xuân ấm áp mươn man đã phải nhường chỗ cho ánh nắng chiều sắp tắt. Cảnh vật trở nên hư ảo, bao phủ một màu sắc của bóng tối. Vì thế tâm hồn con người cũng bắt đầu “chuyển điệu” cùng với cảnh vật. “Thơ thẩn” nghĩa là vẩn vơ, mơ mang, lan man trong suy nghĩ. Chị em Kiều dắt tay nhau trở về trong một trạng thái bịn rịn, lưu luyến ngập ngừng, chậm rãi như đang tiếc nuối trước bước đi quá vội vã của thời gian ngày xuân.
Khung cảnh náo nức, tưng bừng của ngày hội xuân cũng đã kết thúc. Trong lòng người xen lẫn những xúc cảm bâng khuâng xao xuyến. Cảnh vật không gian đã được co gọn lại trong bước chân của người ra về, của dòng nước tiểu khê và chiếc cầu nho nhỏ:
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Khác với bốn câu thơ mở đầu, cảnh vật thiên nhiên rộng lớn, mênh mông trong sắc cỏ xanh non tít tắp, trong cánh én bay lượn trên vòm trời bao la thì đến đây, cảnh vật lại trở nên nhỏ nhắn, mềm mại, rất vừa vặn trong khung cảnh buổi chiều tà. Chả lại cho thiên nhiên sự vắng lặng, yên ả đến lạ thường. Những từ láy: “nao nao, tà tà, thơ thẩn, thanh thanh” không chỉ có tác dụng miêu tả trạng thái của cảnh vật mà còn biểu lộ tâm trạng của con người: lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng hoàn toàn đối lập với không khí với ngày lễ hội mùa xuân vào buổi sáng sớm.
Nhà thơ thật tinh tế trong việc quan sát cảnh vật và phát hiện ra cái “nao nao” của dòng nước đang chảy. Tác giả như đang nhập vào hồn nhật vật trữ tình trong thơ mà cảm nhận thấm thía cái nỗi buồn bịn rịn. Thông thường, khi miêu tả nước chảy, người ta thường gắn với âm thanh “róc rách”, “rì rầm” nhưng ở đây, Nguyễn Du lại gắn dòng nước với cái “nao nao”. Nghệ thuật lấy “động để tả tĩnh” đã có tác dụng gợi lên một không gian tĩnh mịch, thanh thoát. Từ “nao nao” không chỉ cho thấy cái lưu tốc chảy thực chậm, nhẹ nhàng, dường như không chảy của dòng nước mà còn diễn tả cái tâm trạng buồn buồn vô cớ của con người. Phải chăng lòng người đang mang nỗi tâm tư nên cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Cảnh vật thực ra thì không buồn, nhưng thời gian thì lại đượm buồn; sắc xuân vẫn tươi thắm nhưng cảnh vật yên ắng khiến lòng người thổn thức, nao nao. Từ đó, gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng.
Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng miêu tả cảnh, tả tình của đại thi hào Nguyễn Du.
mik viết dc 1 đoạn mà mik nhớ
Tuổi thơ con có những gì
Có con cười với mắt tre trong hầm
Có làn gió sớm vào thăm
Có ông trăng rằm sơ tán cùng con
Sông dài, biển rộng, ao tròn
Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời
Ba tháng lẫy, bẩy tháng ngồi
Con chơi với đất con chơi với hầm
Mong ngày, mong tháng, mong năm
Một năm con vịn vách hầm con đi
Trời xanh các ngả ngoài kia
Cỏ xanh quanh những hàng bia trên mồ
Quả tim như cái đồng hồ
Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân
Dế con cũng biết đào hầm
Con cua chả ngủ, canh phòng đạn bom
Trong trăng chú cuội tắt đèn
Để cho mắt giặc mây đen kéo về
Cái hoa cái lá biết đi
Theo người qua suối, qua khe, qua làng
Chiến hào mặt đất dọc ngang
Sẽ dài như những con đường con qua
Hầm sâu giờ quý hơn nhà
Súng là tình nghĩa đạn là lương tâm
Mẹ nuôi ngọn lửa trong hầm
Để khi khôn lớn con cầm lên tay
Những điều mẹ nghĩ hôm nay
Ghi cho con nhớ những ngày còn thơ
Ngày mai tròn vẹn ước mơ
Yêu thương thêm chuyện ngày xưa nước mình
Tham khảo nek em
Tháng tư, rạo rực bằng những tia nắng mà tôi hay gọi bằng cái tên tia nắng vội vàng - những tia nắng vươn mình đầy sức sống; nó như muốn lan tỏa làn nhiệt nồng nàn, ôm chầm lấy trưa sớm, níu chân cả buổi tan tầm. Nó hối hả hơn bất kì lúc nào, như một con người hăng say nhịp sống, đang tràn đầy sức trẻ; như những con thú mùa động dục đang say sưa, hối hả, thể hiện vẻ đẹp mãnh liệt bản thân mình để tìm kiếm bạn tình.
Những tia nắng ấy lan tỏa vẻ đẹp của mình bằng cách trao những chiếc áo được phun màu vàng ngọc trên từng tán lá; thổi vào hoa lá một chút nhựa sống, làm cho từng hàng cây lá như rực rỡ, bóng láng; những tia nắng như đang quét lên từ chiếc lá một loại dầu bóng mới lạ, làm chúng lấp lánh như một viên ngọc xanh biếc, trông thật ngon mắt.
Chẳng phải thu, nhưng hạ như muốn tước đoạt đi một điểm đặc trưng của mùa thu, bằng mùa sấu trút lá vàng. Những chiếc lá nho nhỏ màu vàng nghệ, theo làn gió nhẹ dạo chơi không trung rồi lại từ từ rơi xuống mặt đất, như có những bàn tay nhè nhẹ, khẽ đỡ những chiếc lá nhỏ xà xuống đất. Một dải đường nhuộm đầy ánh vàng lộng lẫy như con đường đang trải một chiếc thảm màu vàng tuyệt đẹp và ta có thể nghe thoang thoảng đâu đó hương gió bên tai.
Nắng tháng tư, trao cho bản thân một đặc quyền mới đó là nắm giữ cả hai vị nắng: sắc nắng vàng nhạt của mùa xuân dịu nhẹ, sắc nắng nồng nàn của mùa hạ chói chang. Nó như một con người hoài niệm, muốn tìm kiếm thứ gì đó mới mẻ, nhưng vẫn muốn giữ một cái gì đó thô sơ, cổ kính.
Nắng tháng tư, như một điều báo trước một cuộc chia tay vội thôi, của tà áo trắng bay phất phới trên những chiếc xe đạp trên làn đường sấu vàng Hà Nội. Tiếng rộn cười, câu chuyện trò nhỏ vẫn theo từng nhịp đạp khẽ, bao giờ cũng mở đầu bằng một nụ cười trong nắng hạ, như một thứ gì dịu dàng bên mái tóc dài lả lướt hay được ví von như làn mây nhẹ trên bầu trời buổi tan tầm.
Với tôi nắng tháng tư là: một vị, một hương, một sắc... Mà tôi đã, đang và sẽ chờ đợi, để cảm nhận nó bằng mọi giác quan của mình.
#Châu's ngốc
Ôi cái lạnh mùa đông
Đã biến mất
Rồi cái ấm mùa xuân
Đã tràn về
Ngồi cạnh những bếp lò sưởi ấm mà thấy vui quá
Mùi hương ngào ngạt của bánh chưng xanh
Những chiếc bánh chưng tượng chưng cho đất
Ngào ngạt một mùi Tết sang .
P/S " Ko hay lắm đâu ! ĐỪng ném đá mik nhé !!!
Tham khảo:
Nguồn: Cô Nguyễn Thu Hương
- Nẻo đường lặng lẽ: là chỉ sự tần tảo, chắt chiu, hi sinh của mẹ. Mẹ làm vườn, chăm bón, vun trồng rồi lại quẩy gánh đi bán trên khắp nẻo đường. Chi tiết này làm hiện lên hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, cần cù.
- Ngọt ngào năm tháng mẹ chắt chiu: chi tiết này vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa ẩn dụ. Nghĩa tả thực làm hiện lên hình ảnh người mẹ vun xới, làm vườn cần mẫn để có trái chín, làm ra sản phẩm để đem bán. Nghĩa ẩn dụ nói về những vất vả, hi sinh, lo toan của mẹ. Mẹ dành hết tình yêu thương vào công việc để có thành quả tốt nhất. Và thành quả đó, qua từ "chắt chiu" lại chính là sự dành dụm để cho con.
- Nghe mùa thu vọng về những yêu thương: Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã khiến những miền kí ức vốn được cảm nhận bằng tâm tưởng, hồi tưởng, nay lại được cảm nhận bằng cả thính giác. Mùa thu là mùa của hoa cúc, hương cốm mới, đó còn là mùa tựu trường. Mùa thu dường như cũng lưu dấu kí ức, kỉ niệm và sự ân cần chăm sóc của mẹ. Hình ảnh mẹ nắm tay con dẫn qua cánh cổng trường khi bước vào năm học mới như là kỉ niệm ngọt ngào lưu dấu trong cuộc đời con.
- Chiều của mẹ: Phép ẩn dụ cho thấy, đó không phải là khoảng thời gian của một ngày mà là chỉ khoảng thời gian của đời người. Mẹ đã già, đã bước tới tuổi xế chiều. Liên kết với hình ảnh trên ta thấy được, sự hi sinh của mẹ chính là để tạo nên những "trái ngọt cho con".
- Nắng mong manh: gợi tới niềm vui, ngày tươi sáng, tới những kí ức đẹp, miền hoài niệm.
- Sương vô tình: chỉ những khó khăn, trở ngại, thử thách của đời người. Thiên nhiên, vạn vật, vũ trụ vẫn luôn nằm trong vòng luân hồi: sinh, trụ, dị, biệt. Sương gió của cuộc đời cũng như vậy, là những tác động của ngoại cảnh, của dòng thời gian vô thủy vô chung, khiến mẹ già cỗi, hao gầy. Ý thơ hàm chứa sự đau xót và thương mẹ