K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 1 2018

a)PTBĐ chính là:kể,tả

b)Nghệ thuật:nhân hóa,ẩn dụ.

c)Tác dụng:làm cho câu thơ giàu tính tạo hình,gợi cảm gợi tả được sâu sắc hơn

22 tháng 11 2017

Sen được đỡ bằng một cuống hoa dài và đưa sen mọc khỏi trên mặt nước. Lá sen rất xanh có một lớp nhung trắng phủ trên bề mặt khi ánh náng chiếu vào làm lớp nhung trắng đó óng ánh li ti mơ ảo rất đẹp.

Hoa sen là một lọai hoa thanh khiết và có truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông. Đây là một lòai thực vật sống dưới nước có nguồn gốc Á Châu và chiếm giữ một vị trí cổ xưa trong tất cả nền văn hóa đặc biệt của phật giáo. Những cánh, nhụy và gương hạt đã cấu thành một bông hoa sen có nét đẹp thanh thóat và màu tươi sáng.

Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Cũng giống như một người được sinh ra trên thế giới, tồn tại giữa cuộc đời nhưng đã vượt thoát khỏi sự tham lam, sâu hận, dục vọng và không bị vấy bẩn, ô nhiễm bởi dòng đời.

Ở Việt Nam, sen được xếp vào bộ tứ quý (4 mùa): Lan, sen, cúc, mai và xếp vào hàng “tứ quân tử” cùng tùng, trúc, cúc. Hoa sen rất thích hợp với môi trường có khí hậu nhiệt đới như nước ta. Từ Bắc vào Nam, nó có mặt khắp mọi nơi, gần gũi và thân thiết với mọi người như cây tre, cây đa… Nếu ở miền Bắc, hoa sen chỉ nở vào mùa hè, thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm, Làng quê nơi Bác sinh ra cũng có tên là Làng Sen, và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta:

“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”

Trong lòng mỗi người dân Việt, sen là loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp tươi sáng, cao sang và thuần khiết mang tính chất dân tộc. Chính vì thế, hoa sen luôn là nguồn cảm hứng bất tuyệt của thi ca và nghệ thuật… Có lẽ, không người Việt Nam nào không thuộc bài ca dao đầy tính triết lý này:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhuỵ vàng
Nhuỵ vàng bông trắng là xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

Người Việt đã cảm nhận được ý hay “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, sen sống trong bùn nhưng sen vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và tự tính của sen là tinh khiết, vô nhiễm. Nó tượng trưng cho bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh thần “vươn dậy” trong mọi nghịch cảnh của con người Việt Nam.

Đặc biệt trong tư tưởng Phật giáo, hoa sen được tôn quý và chiếm vị trí rất quan trọng. Tinh thần “cư trần bất nhiễm trần”, đó cũng chính là ý nghĩa của hoa sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh thiện, sự duy trì và phát triển của Phật pháp, trí tuệ dẫn đến niết bàn. Trong các công trình kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam, sen luôn trở thành hình tượng nghệ thuật. Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, ngôi chùa này được hình thành từ một giấc mộng đài sen của vua Lý Thái Tông. Chùa có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Ở đây, hoa sen là sự giác ngộ, đạt được sự trong sáng và giải thoát khỏi bùn nhơ…

Giản dị, tao nhã và thuần khiết, sen là hiện thân cho tính cách, lối sống và tâm hồn người Việt. Sen còn là món quà vô giá từ thiên nhiên, bởi từ sen có thể chế biến những thực phẩm bổ dưỡng, những bài thuốc đặc trị. Gương sen hình phễu, nhẹ, xốp, màu đỏ tía, không có mùi, có tác dụng cầm máu rất hiệu quả lên được chế biến thành nhiều loại thuốc để chữa bệnh băng huyết, cao huyết áp,… Hạt sen nhỏ, có màu vàng, vừa là món ăn dân dã quen thuộc, lại là một loại thuốc rất tốt dành để chữa bệnh mất ngủ, suy nhược thần kinh. Tâm sen màu xanh, nằm giữa hạt sen, có thể dùng để ướp trà, tạo lên hương vị thơm dịu. Lá sen khô nghiền vụn và lá sen tươi, tất cả đều thái nhỏ, hoà với nước uống mỗi ngày còn giúp thanh nhiệt. Ngó sen vừa là một loại thuốc chữa các bệnh về gan, lại vừa là món ăn quen thuộc của người Việt, trong bữa cơm mà có một bát nộm ngó sen, vừa ngon lại giúp dễ tiêu hóa, khó ai có thể từ chối được. Ngày xuân, nhà ai cũng đều có một hộp mứt sen đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp với trầu cau, nước trà mang lại một không khí ấm áp mà thân thương, vui vẻ mà lịch sự. Nhớ hồi bé, ngày hè, mẹ thường nấu cho bát chè sen với đường, vừa thơm, ngọt lại mát, đi chơi cả ngày nhưng vẫn yên tâm không sợ bị ốm. Hoa sen đúng là loại hoa mà thiên nhiên đã ban tặng cho đất nước chúng ta, một loại hoa mạng đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Hãng hàng không Vietnam-airline đã chọn hình ảnh bông sen sáu cánh làm biểu tượng của mình sau bao thời gian chắt lọ, suy nghĩ. Phải chăng đó cũng là biểu tượng mà người Việt Nam muốn cho bạn bè quốc tế trên khắp năm châu được biết đến. Đóa sen hồng giờ đã được nâng lên không trung, bay đến với khắp mọi nơi trên thế giới, mang niềm vui đoàn tụ, hạnh phúc, hòa bình và đã giúp khoảng cách giữa người và người, giữa các cộng đồng trên thế giới được xích lại gần nhau. Trong mắt của bạn bè thế giới, hình ảnh của bông sen sẽ in đậm và động lại trong tư tưởng của mọi người về một đất nước anh hùng, bất khuất dù phải trải qua bao cuộc bể dâu, bao trận chiến tang thương, khốc liệt nhưng giờ đây vẫn vững bước đi lên hội nhập với thế giới. Và rồi đây, tôi lại thầm cảm ơn, cảm ơn đóa sen mang tên “Việt Nam” đã tỏa hương thơm ngát.

Dù thời gian đang hằn những bước chân vào tạo hóa nhưng tôi tin bông hoa sen dù có trải qua bao cuộc đổi thay vẫn sẽ giữ được vẻ đẹp thanh khiết, mùi hương dịu dàng giống như con người Việt Nam vẫn luôn vươn lên để tỏa sáng như đóa sen vươn mình đón nắng mai nơi bùn đất. Và rồi một ngày, sắc sen rạng rỡ giữa cuộc sống mến thương.

“Sen vẫn thế, âm thầm và lặng lẽ
Rồi một mai, bừng sáng giữa khung trời
Từ sâu thẳm chốn bùn lầy đất mẹ
Ngát hương sen, nét đẹp chẳng phai phôi”

Sen thơm, hương lại hữu sắc. Dù trong hoàn cảnh nào sen cũng hàm chứa trong nó sự tinh tế, thuần khiết, cao đẹp. Nó thật sự là biểu trưng tiêu biểu nhất cho văn hoá và cốt cách nhân văn của người Việt Nam.

22 tháng 11 2017

Hoa sen là một loài hoa đẹp, sống dưới nước. Các bộ phận gồm cánh, nhụy và gương hạt đã cấu thành một bông hoa sen có nét đẹp thanh thoát với màu sắc rất tươi sáng mà không phải loại hoa nào cũng có được. Một trong những đặc tính đáng quý của cây sen đó là, tuy chúng được mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Nó luôn tỏa ra một mùi thơm hấp dẫn, tô điểm thêm vẻ đẹp cho cuộc đời Sen được người Việt xếp vào hang tứ quý: Lan, sen, cúc, mai và xếp vào hàng “tứ quân tử” cùng tùng, trúc, cúc. Sen phát triển tốt nhất ở môi trường có khí hậu nhiệt đới. Từ Bắc vào Nam, nó có mặt khắp mọi nơi, gần gũi và thân thiết với mọi người như cây tre, cây đa… Với khí hậu ở miền Bắc, hoa sen chỉ nở vào mùa hè, thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm. Vẻ đẹp của hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp tươi sáng, cao sang và thuần khiết mang tính chất dân tộc. Hoa sen không chỉ gần gũi ngoài đời thường mà nó còn đi vào nhiều sáng tác thơ ca. Người Việt đã cảm nhận được ý hay “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, sen sống trong bùn nhưng sen vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và vô nhiễm đối với môi trường xung quanh. Vì thế nhiều người coi cây sen như chính con người Việt với bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh thần “vươn dậy” trong mọi nghịch cảnh. Hoa sen còn là biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh thiện, sự duy trì và phát triển của Phật pháp. Hoa sen luôn trở thành hình tượng nghệ thuật, gắn liền với nghệ thuật về phật giáo. Chùa Một Cột có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Ngoài việc mang giá trị tinh thần, hoa sen có thể chế biến những thực phẩm bổ dưỡng, những bài thuốc đặc trị. Gương sen hình phễu, nhẹ, xốp, màu đỏ tía, không có mùi, được chế biến thành nhiều loại thuốc để chữa bệnh băng huyết, cao huyết áp,… Hạt sen nhỏ, có màu vàng, vừa là món ăn dân dã quen thuộc, lại là một loại thuốc rất tốt giúp an thần, suy nhược thần kinh. Tâm sen màu xanh, nằm giữa hạt sen, có thể dùng để ướp trà, tạo lên hương vị đặc biệt. Uống lá sen mỗi ngày còn giúp thanh nhiệt. Ngó sen không chỉ là bài thuốc chữa bệnh lại vừa là món ăn quen thuộc của người Việt, trong bữa cơm mà có một bát nộm ngó sen, vừa ngon lại giúp dễ tiêu hóa, khó ai có thể từ chối được. Ngoài ra sen còn được dùng làm mứt sen, chè sen, rất thơm ngon và bổ dưỡng. Hoa sen mãi mãi là loài hoa thanh khiết đáng quý mà thiên nhiên đã dành tặng cho con người. Hoa sen đã mang đến vẻ đẹp quý phái cho thiên nhiên và cho con người. Sen là món ăn góp phần tạo nét độc đáo trong ẩm thực của người dân Việt. Chúng ta cần phải giữ gìn và bảo vệ loài hoa đáng quý ấy.

10 tháng 12 2018

Đối với những em nhỏ học mẫu giáo, lớp 1 thì vẫn đang làm quen với chiếc bút chì; nhưng khi các em lớn lên sẽ dần làm quen với cách viết và sử dụng bút bi cho phù hợp nhất.

Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử dụng loại mực như thế.

Bút bi có nhiều loại như bút bi Thiên Long, bút bi Bến Nghé,…Mỗi loại bút đều có đặc điểm riêng nhưng chung một công dụng.

Bút bi được cấu thành từ hai bộ phận chính là vỏ bút và ruột bút. Bộ phận nào cũng đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự trọn vẹn của chiếc bút chúng ta cầm ở trên tay. Bộ phận vỏ bút có thể được làm bằng chất liệu nhựa là phổ biến, hoặc một số loại bút được nhà sản xuất làm bằng kim loại nhẹ. Bộ phận vỏ bút được thiết kế chắc chắn và đẹp, có thể bảo vệ được ruột bút ở bên trong. Vỏ bút được thiết kế theo hình trụ, dài và tròn, có độ dài từ 10-15 cm.

ở trên vỏ bút có thể được sáng tạo bởi nhiều họa tiết đẹp hoặc chỉ đơn giản là có dán tên nhà sản xuất, số lô sản xuất và màu sắc của chiếc bút.

Có một số loại bút bi dành cho trẻ em, để thu hút được sức dùng thì nhà sản xuất đã tạo những họa tiết như hình các con vật, hình siêu nhân…Chính điều này sẽ khiến cho các em thích thú khi sử dụng chiếc bút bi xinh đẹp.

Màu sắc của vỏ bút cũng đa dạng và phong phú như xanh, đỏ, tím, vàng…Các bạn học sinh hoặc người dùng có thể dựa vào sở thích của mình để chọn mua loại bút thích hợp nhất.

Bộ phận thứ hai chính là ruột bút,giữ vai trò quan trọng để tạo nên một chiếc bút hoàn hỏa. Đây là bộ phận chứa mực, giúp mực ra đều để có thể viết được chữa trên mặt giấy. Ruột bút chủ yếu làm bằng nhựa, bên trong rỗng để đựng mực. Ở một đầu có ngòi bút có viên bi nhỏ để tạo nên sự thông thoáng cho mực ra đều hơn.

Ở ruột bút có gắn một chiếc lò xo nhỏ có đàn hồi để người viết điều chỉnh được bút trong quá trình đóng bút và mở bút.

Ngoài hai bộ phận chính này thì chiếc bút bi còn có nắp bút, nấp bấm, nắp đậy. Tất cả những bộ phận đó đều tạo nên sự hoàn chỉnh của chiếc bút bi bạn đang cầm trên tay.

Sử dụng bút bi rất đơn giản, tùy theo cấu tạo của bút mà sử dụng. Đối với loại bút bi bấp thì bạn chỉ cầm bấm nhẹ ở đầu bút thì có thể viết được. Còn đối với dạng bút bi có nắp thì chỉ cần mở nắp ra là viết được.

Chiếc bút bi đối với học sinh, với những người lao động trí óc và với cả rất nhiều người khác đều đóng vai trò rất quan trọng. Bút bi viết lên những ước mơ của các cô cậu học trò. Bút bi kí nết nên những bản hợp đồng quan trọng, xây dựng mối quan hệ gắn kết với nhau.

Để chiếc bút bi bền và đẹp thì người sử dụng cần bảo quản cẩn thận và không vứt bút linh tinh, tránh tình trạng hỏng bút.

Thật vậy, chiếc bút bi có vai trò quan trọng đối với mỗi người. Chúng ta học tập và làm việc đều cần đến bút bi. Nó là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất.

10 tháng 12 2018

thank nhùi

Bài tham khảo 1

Từ bao đời nay, Việt Nam đã nổi tiếng với khá nhiều những trò chơi dân dan. Ở thời buổi công nghiệp đang phát triển một cách nhanh chóng như bây giờ thì có lẽ những thú vui trong những lúc mệt mỏi, căng thẳng là rất quan trọng. Một trong số những thú vui ấy phải nói đến trò chơi thả diều.

Thả diều là trò chơi dân gian mà ông cha ta đã để lại bao đời nay. Đó là một thú vui tao nhã, một trò chơi làm con người ta xua tan đi bao mệt nhọc. Nhưng hầu hết trò chơi này chỉ còn thịnh hành ở một số vùng quê. Bây giờ khi xã hội đang phát triển các trò chơi xuất hiện hàng loạt. Các món đò chơi hiện đại có thể đã thay thế những chiếc diều thả. Hay các loại diều với đủ kiểu dáng, màu sắc có đầy trên thị trường. Nhân đây tôi muốn giới thiệu về cách làm một con diều dấy đơn giản.

Diều có thể làm bằng vải, giấy, nilon,…Nhưng tôi muốn giới thiệu cho các bạn cách làm một con diều dấy quen thuộc và dễ làm nhất đối với học sinh chúng ta. Các dụng cụ để làm một con diều dấy gồm: 2 thanh tre dài 40-50cm, 6 tờ dấy khổ 30.30cm, kéo, keo, băng dính, dây, dao. Vậy là khâu chẩn bị xem như xong.

Bắt tay vào làm, trước hết ta dùng dao vuốt 2 nan tre tròn, kích thước phải nhỏ, nhẹ nhưng phải dẻo dai tránh bị gẫy. Lấy 1 tờ giấy rồi đặt 2 nan tre vào mặt tờ giấy tạo thành hình chữ ''x'' đối xứng với các đầu. Sau đó cắt phần còn thừa của thanh nan. Dùng băng dính dán 2 thanh nan vào con diều sao cho chắc chắn. Lấy 5 tờ giấy còn lại cắt thành những mảnh nhỏ có chiều dài 30cm, chiều rộng 5cm. Dính những mảnh dấy nhỏ lại với nhau thành 3 dây dài sao cho 2 dây bằng nhau khoảng 50cm và 1 dây dài 80cm. Vậy là chúng ta đã làm xong đuôi diều. Tiếp theo ta đặt diều thành hình thoi rồi dán đuôi vào. Sao cho 2 đuôi nhắn dán, dán vào 2 góc bên của hình thoi, dây dài nhất dán vào góc dưới. Lấy 1 đoạn dây dài chừng 10cm buộc vào thanh nan thẳng đứng. Buộc 2 đầu dây sao cho nốt buộc dâu trên dài hơn về phía đầu diều. Tôi đã giới thiệu cách làm diều xong.

Nhưng các bạn nên nhớ làm diều phải cân nếu không diều sẽ bay không thăng bằng. Khi làm xong phải chỉnh diều và kiểm tra để tránh những sự cố đáng tiếc. Diều làm bằng dấy nên rất dễ rách chúng ta phải cẩn thận khi thả. Tránh để diều ở những nơi ẩm ướt. Khi chơi xong phải cuộn dây cẩn thận nếu không lần sau chơi diều sẽ dễ bị rối.

Tôi đã giới thiệu xong cách làm diều. Nếu ai chưa biết hoặc chưa từng chơi diều thì hãy thử khám phá. Đó là 1 thú vị mà ông cha ta để lại. Nó sẽ giúp bạn giảm đi mệt mỏi. Hãy giữ cho mình một chút gì đó rất Việt trong mỗi con người Việt Nam

Bài tham khảo 2

Diều ở Đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là diều hình thuyền, hay còn gọi là diều trăng, kích thước rất khác nhau, nhỏ từ 1 m, to thì 3 đến 5 m, cá biệt lên đến 8 m (cái này nếu gặp gió có thể nhấc bổng cả một đứa trẻ). Đầu vụ hè, tre hơi già (bắt đầu ngả mầu vàng) được đốn, cây tre làm diều phải là cây vừa tầm, không quá cao vì những cây này thường mềm, và không quá thấp, và không được quá nhiều cành. Tre hạ xuống, được pha làm nhiều khúc tuỳ thuộc vào kích thước diều định làm, phơi trong nắng nhạt khoảng 5 – 7 nắng cho bớt nước là có thể chuốt được rồi.

Vót cọng diều là cả một quá trình, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của con diều. Cọng nếu vót quá nhỏ, diều sẽ dễ lên nhưng nếu gặp gió cả sẽ bị chao. Nếu to quá, diều sẽ rất khó ăn gió. Cọng diều được vót thuôn nhỏ về hai đầu, dễ bắt gió nhưng vẫn đủ độ cứng khi gặp gió cả. Hai cọng diều không nhất thiết phải bằng nhau nhưng mỗi cọng bắt buộc phải đối xứng nhau. Để kiểm tra sự đối xứng của cọng diều người ta thường lấy một sợi dây không co dãn, kéo cọng theo một mức nhất định và quan sát.

Có những chuẩn mực nhất định khi lên khung: Chiều dài diều thường gấp 3 lần chiều ngang. Độ cong của diều thường phụ thuộc vào con mắt của người dựng nhưng thường vào khoảng 15 đến 20 độ. Khung diều phải cân nếu không diều sẽ bị chao.

Khung đã lên xong, bây giờ đến công đoạn phất diều, có nhiều chất liệu khác nhau có thể dùng để phất diều, phổ biến là giấy bản, hiện nay diều được phất chủ yếu bằng ni lon. Diều phất phải vừa căng nhưng không được kéo khung, mép khâu phải đều cân xứng.

Buộc lèo là một công đoạn rất quan trọng. Độ dài của lèo được tính bằng hai lần chiều ngang diều tức là 2/3 chiều dài diều, mối nối giữa lèo và dây diều có thể điều chỉnh được để tuỳ thuộc vào gió và độ cao mong muốn mà chỉnh lèo. Sáo diều được làm từ ruột nứa hay cật tre đan phết sơn, lỗ sáo được khoét từ những loại gỗ nhẹ và không co dãn như gỗ mít.

Một bộ sáo thường có từ 3 đến 5 sáo để tạo ra các âm vực khác nhau, từ tiếng thanh của sáo nhỏ đến tiếng trầm của sáo to. Diều thường được thả ở cánh đồng đầu làng, sau đó được dắt về nhà của gia chủ hay đầu làng. Một cánh diều tiêu chuẩn là tiếng sáo phải rõ, trong, cánh diều phải đứng không chao, dây không được trùng.

3 tháng 2 2018

Mình còn nhớ hồi còn bé buổi chiều bọn trẻ con hay tụ tập thả diều ở sân bóng hay bãi cỏ, hay chạy ở đường.Vui thật có đứa chạy mỏi cả chân mà diều thì quay tít mù.

Làm diều đầu tiên phải tìm được tre, tre phải già già đó nhá chọn lấy đoạn giữa, dóc ra, phơi nắng phơi sương cỡ một tuần cho ổn định (không thì để trên nóc bếp củi để phơi bồ hóng ý). Sau đó vót thành từng que đều nhau tròn tròn cỡ ngón tay út của trẻ con. Lúc vót cũng kỳ công, phải cân chỉnh làm sao để đến khi buộc sợi dây vào giữa thân que tre thì nó thăng bằng, trọng lượng được dàn đều trên cả que. Khi cầm 2 đầu uốn cong lại thành hình cánh cung thì phải tròn căng. Phải như thế thì mới uốn thành cánh diều được. Khung của các loại diều Tu (giống mảnh trăng lưỡi liềm), diều Quạ (giống diều Tu nhưng có thêm cái mỏ quạ & cái đuôi xoè ra bên dưới để cân bằng gió), diều Dái (từ diều Tu, có thêm 2 vòng tròn bên dưới giống như tên gọi của nó cũng để cân bằng). Trong ba loại diều trên thì diều Tu là khó làm nhất, vì độ thăng bằng rất nhạy, chỉ cần tính sai ở công đoạn vót tre làm khung, dán giấy, hay buộc dây lèo là diều lên trời cứ quay tít mù.
Khi tre vót xong rồi, tiếp theo dùng dây sợi để lên khung cho diều, lúc này rất cần phải khéo tay để hệ thống dây kéo & chằng cho các que tre uốn thành cánh diều.
Lên xong khung diều rồi thì dán giấy, Chọn giấy nào nhẹ dai mà bền nhé. mà chẳng may khi đang thả bị mưa một chút còn kéo về kịp.
Dán xong giấy thì cơ bản đã nhìn thấy chiếc diều rồi, nhưng vẫn chưa khai sinh cho nó được, phải để cho hồ khô hết, trọng lượng diều ổn định rồi mới buộc dâu lèo. Tìm dây sợi chắc & dai để buộc lèo, có nhiều loại lèo (lèo đôi, lèo ba) tuỳ theo số mối nối. Buộc mỗi một mối lèo lại phải nhấc diều lên cân chỉnh sao cho thật thăng bằng. Trong lúc làm diều nếu có lỗi trong lúc lên khung hoặc dán giấy thì bước buộc lèo chính là hiệu chỉnh sau cùng.

Cuối cùng là dây diều. Ra chợ hỏi dây dù hình như có 2k một quận nhỏ.Mua mấy quận gỡ ra rồi nối lại.Chọn loại dây nhẹ nhẹ thôi nhé.

28 tháng 5 2019

Trong số các vật dụng hằng ngày, nón lá đã trở thành một đồ dùng thủy chung gắn bó với người phụ nữ Việt Nam. Không ai biết nón lá xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng chiếc nón lá đã theo người phụ nữ xuyên suốt cả chiều dài lịch sử. Nón lá có nhiều loại khác nhau như miền Bắc có chiếc nón quai thao, xứ Huế có nón bài thơ và miền Nam có chiếc nón lá. Nguyên liệu để làm nón không khó kiếm, chỉ cần có lá và nan tre. Người ta thường sử dụng lá cọ hay lá dừa tươi, phơi nắng ba đến bốn ngày và là cho phẳng. Sau đó đến công đoạn chằm nón là công đoạn khó nhất. Người thợ dùng kim khâu để thực hiện. Công dụng của nón lá rất nhiều: che nắng, che mưa, làm quạt khi trời nóng và cả tạo công ăn việc làm cho mọi người. Từ lâu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với chiếc nón lá đã là một nét đẹp văn hóa vô giá. Vì thế nên chúng ta phải ngày càng phát triển và bảo quản tốt nghề làm nón lá.

28 tháng 5 2019

Trong số các vật dụng hằng ngày, nón lá đã trở thành một đồ dùng thủy chung gắn bó với người phụ nữ Việt Nam. Không ai biết nón lá xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng chiếc nón lá đã theo người phụ nữ xuyên suốt cả chiều dài lịch sử. Nón lá có nhiều loại khác nhau như miền Bắc có chiếc nón quai thao, xứ Huế có nón bài thơ và miền Nam có chiếc nón lá. Nguyên liệu để làm nón không khó kiếm, chỉ cần có lá và nan tre. Người ta thường sử dụng lá cọ hay lá dừa tươi, phơi nắng ba đến bốn ngày và là cho phẳng. Sau đó đến công đoạn chằm nón là công đoạn khó nhất. Người thợ dùng kim khâu để thực hiện. Công dụng của nón lá rất nhiều: che nắng, che mưa, làm quạt khi trời nóng và cả tạo công ăn việc làm cho mọi người. Từ lâu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với chiếc nón lá đã là một nét đẹp văn hóa vô giá. Vì thế nên chúng ta phải ngày càng phát triển và bảo quản tốt nghề làm nón lá.

28 tháng 2 2018

Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.

Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng xả thân cho đất nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu, từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: "Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vua tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Nguyên tràn sang: "cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: "Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" "làm run sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên"...

Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.


11 tháng 8 2018

Tham khảo

Cảm xúc của tác giả vào những ngày thu,những kỉ niệm về ngày đấu đi học,không thể quên được cảm giác ấy khi chợt nhớ lại.Ngày đầu đi tác giả cảm thấy mọi thứ xung quanh dần thay đổi,từ con đường thân quen,cảnh vật chung quanh,cảm thấy mình trưởng thành hơn.Cũng như tác giả,những cậu nhóc trạc tuổi ôm lấy quyển vở,cây bút,thước tung tăng nhí nhảnh,chạy nhảy.Ý nghĩ ngây thơ nghĩ rằng người thạo mới cầm cả bút và thước.Khi tới trường tác giả cảm thấy ngôi trường Mĩ Lý xinh xắn vừa oai nghiêm khác với sự xa lạ như mấy hôm trước đó,khi cùng bạn bè tới truồng.Cảm giác ao ước được như những đàn anh,đàn chị của mình được tung tăng,nhảy múa,không e sợ vì đã quen với ngôi trường.Tiếng trống ngân vang,sự xa lạ,chơ vơ,rụt rè.Khi ông đốc đến các cậu học trò đứng trước lớp ba,ông gọi tên từng người,khi đến tác giả,tác giả giật mình,lúng túng quên mất mẹ đang đứng sau mình.Sau đó,ông đốc cho học sinh vào lớp,tác giả dúi đầu vào lòng mẹ và khóc,vì phải xa mẹ.Sau lời an ủi của ông đốc học sinh vào lớp,tác giả thấy mọi thứ cũng đang thay đổi nó dần trở nên thân thiết với tác giả.những kỉ niệm lần đầu đi học tác giả sẽ mãi không quên

11 tháng 8 2018

Tác giả Thanh Tịnh vẫn còn nhớ như in ngày đầu tiên đến trường. Đó là một buổi sáng mùa thu, lá rụng nhiều, tiết trời se lạnh. Con đường đến trường đối với chú bé ấy vốn đỗi quen thuộc bỗng dưng trở nên lạ lẫm. Trong khoảnh khắc vui sướng pha lẫn hồi hộp, e dè, chú bé có những ý nghĩ thật non nớt và ngây thơ: "Chắc chỉ có người thạo mới cầm nổi bút thước". Trong bộ quần áo mới, tác giả Thanh Tịnh càng "thấy mình trang trọng và đứng đắn" hơn, những suy nghĩ nhẹ nhàng lướt qua như làn mây trắng xốp bồng bềnh. Lúc tới trường, nghe ba hồi trống, lòng chú bé lo sợ vẩn vơ, sợ những điều mới lạ và khó khăn trước mắt. Những lời nói của ông đốc ấm áp vang lên, khuyến khích những chú chim non vào lớp. Nhân vật tôi trong phút chốc đã òa khóc, nhưng người mẹ đã nhẹ nhàng giúp con vào lớp. Chú bé nhìn bàn ghế, người bạn ngồi kế bên và cảm thấy thân quen dẫu chưa bao giờ gặp gỡ. Rồi quàng tay lên bàn, ngoan ngoãn đánh vần dòng chữ thầy giáo viết: "Tôi đi học"…

6 tháng 10 2017

Bài làm

O Hen-ri là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn, và sáng tác rất nhiều. Có những năm, số lượng các truyện ngắn của ông sáng tác lên rất cao: 65 truyện năm 1904, 50 truyện năm 1905... Một số truyện mang ý nghĩa phê phán xã hội rõ rệt. Một số truyện khác thường nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động. Chiếc lá cuối cùng là một truyện giàu tình yêu thương của các nghệ sĩ nghèo. Đặc biệt, nhân vật Bơ-men là nhân vật tiêu biêu cho tình yêu thương cao cả ấy. Tìm hiểu nhân vật Bơ-men, ta càng hiểu sức sống lâu dài của truyện Chiếc lá cuối cùng.

Chiếc lá cuối cùng là thế giới của những họa sĩ nghèo. Đó là không gian chật hẹp của Gri-niz bị chia nhỏ, chật chội. Đã chật chội lại mọc rêu và cô quạnh hoang tàn. Đó là không gian thích hợp cho những người nghèo cư ngụ. Họ gồm có ba họa sĩ: cụ Bơ-men và hai cô họa sĩ trẻ.

Thời gian họ quen nhau không lâu, thế mà ở họ lại sáng lên tình yêu thương ruột thịt hiếm có. Họ thu thập không cao nhưng có chung một lòng yêu nghệ thuật, ước mơ sáng tác một tác phẩm để đời. Mùa đông băng giá là điều kiện để bệnh bệnh viêm phỗi, tên phá hoại này so tài với mọi đối thủ. Hắn đánh vào Giôn-xi, cô họa sĩ nhỏ bé, thiếu máu khiến cô ta lăn ra bất động. Nghèo, không tiền thuốc, không thân nhân ở gần, cô chỉ có một niềm tin đớn đau là cô đơn chuẩn bị cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình.

Và cô bệnh nhân ấy yên trí là mình không thể khỏi đã bình thản lạnh lùng làm cái việc nhìn qua cửa sổ, trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiêc lá thường xuân, đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn-xi, chiêc lá là biểu tượng của thước đo thời gian, thước đo cuộc đời của cô. Cô rơi vào tình trạng bi quan đến mức có những ý nghĩ lạ lùng: "Những chiếc lá trên cây thường xuân, khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em cũng ra đi thôi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi. Ông bác sĩ không nói với chị sao?"

May sao, Giôn-xi còn có Xiu luôn cận kề chăm sóc, an ủi cô: "Chị muốn ở bên cạnh em kia. Vả lại chị không muốn em cứ nhìn mãi những chiếc lá thường xuân vớ vẩn đó nữa".

Xiu đi tìm cụ Bơ-men, mời cụ ngồi làm mẫu để vẽ và trình bày tâm trạng của Giôn-xi. Cụ đã ngoài sáu mươi và có một bộ râu như Môi-dơ của Mi-ke-lăng-giơ loăn xoăn trừ cái đầu như đầu thần Xa-tia lòa xòa xuống cái thân hình một tiểu yêu. Bơ-men là người thất bại trong nghệ thuật. Cụ đã già rồi mà tấm vải vẽ vẫn còn trống trơn. Cụ chưa vẽ được gì, chẳng phải cụ không có tài, mà chính là cụ băn khoăn, trăn trở gần suốt cuộc đời, chưa biết vẽ gì cho xứng đáng là một kiệt tác: Trên giá vẽ ở góc buồng là một tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đợi mãi nét vẽ đầu tiên của bức tranh kiệt tác.

Có ước mơ chân chính, suy nghĩ đã nhiều nhưng vẫn còn đó sự trăn trở!Biết vẽ gì? Ngay lúc Giôn-xi tuyệt vọng, gần tuyệt mệnh là lúc cụ uống rượu nặng quá độ. Xiu tìm thấy cụ sặc sụa mùi rượu dâu loại nặng trong gian buồng tối om om của cụ ở tầng dưới. Có lẽ vì cụ thất vọng, trăn trở mãi mà vẫn không đặt bút vẽ được bức tranh kiệt tác. Bên cạnh ước vọng cao quý về nghệ thuật, cụ còn có một tình cảm đặc biệt đối với hai cô họa sĩ như là tình cha con. Thực vậy, cụ là một ông già nhỏ nhắn dữ tợn, hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai, và tự coi minh là một con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng bên.

Với cá tính ấy, tình thương ấy, khi nghe kể về ý nghĩ kì quặc của Giôn-xy cụ phản ứng thật quyết liệt:

- "Sao trên đời này lại có những người ngớ ngần muốn chết vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư? Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như thế cả".

Tuy nhiên, đó chỉ là một thoáng, sự thực, cụ đang thai nghén một tác phẩm kiệt xuất, cụ sắp làm một việc đầy ý nghĩa hi sinh.

Một ngày mới lại về, Giôn-xi thều thào ra lệnh kéo chiếc màn để cô nhìn ra ngoài. Tất nhiên, Xiu không muốn nhưng vẫn làm theo. Nhưng ô kìa, sau trận mưa và những cơn gió phũ phàng... vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên tường gạch. Tuy ở gần và cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa, đã nhuộm màu vàng úa, tuy vậy, chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành... Một ngày qua cho đến hoàng hôn chiếc lá đơn độc vẫn bám lấy các cuống của nó ở trên tường và rồi màn đêm cùng với mưa và gió bấc lồng lộn đập mạnh vào cửa sỗ mưa rơi lộp độp...

Chiếc màn xanh lại được kéo lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó. Và Giôn-xi chợt hiểu ra có một cái gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào và hi vọng một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na-plơ lại trỗi dậy trong cô: cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực và mầm sống lại hồl sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: được năm phần mười rồi.

Như vậy, điều gì đã khiến Giôn-xi khỏe trở lại? Có thể một phần do thuốc men phát huy hiệu lực, có thể một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Nhưng bao trùm lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dẫn về cõi hư vô là màu xanh của chiếc lá thường xuân, chiếc lá cuối cùng trên chiếc tường đối diện với phòng của họ. Chiếc lá đó chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi. Bởi vì đó chính là tác phẩm kiệt xuất của cụ Bơ-men. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Và đã tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã không ngần ngại đổi nó bằng cuộc sống của chính mình. Nghệ thuật chân chính mang chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin và cuộc sống. Nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ tái tạo.

Do vậy, hình tượng Bơ-men đã tạo được ấn tượng sâu sắc. Bơ-men đã đánh bại được tử thần, trả lại màu xanh cho chiếc lá úa, trả lại màu hồng cho đôi má Giôn-xi, trả lại niềm tin và nghị lực cho tâm hồn yếu đuối.

Ước mơ một đời chưa thực hiện, thai nghén và thực hiện tác phầm bằng cả con tim yêu thương mà phẫn nộ, phẫn nộ với sự mềm yếu của bất kì ai. Nhưng điều quan trọng hơn cả là cụ Bơ-men - con người tốt - có lòng yêu thương đối với Giôn-xi trong điều kiện có thể của mình. Thương yêu chân thành đến độ hi sinh, sáng tác trong giá lạnh để bảo vệ niềm hi vọng cho Giôn-xi. Đó là lòng yêu người yêu nghệ thuật của cụ Bơ-men.

7 tháng 10 2017

Tác phẩm Chiếc lá cuối cùng, là một bài ca đẹp đẽ tình người và ngời sáng một lối sống và sáng tác của những nghệ sĩ chân chính. Chính những tình thương đó đã mang lại nghị lực đến cho cuộc sống những con người đau khổ tuyệt vọng, cũng chính tình thương đã thổi một sức sống mãnh liệt cho nghệ thuật, làm nên những tác phẩm bất hủ.

Cũng như hai họa sĩ trẻ, Giôn-xi và Xiu-đi, cụ Be-man là một nghệ sĩ nghèo từ tĩnh lẻ tới. Cụ là một người bộc trực thẳng thắn và giàu tình thương người, một con người có nghị lực trong cuộc sống nên dù trong hoàn cảnh nào, cụ cũng luôn luôn lạc quan yêu đời.

Cả cuộc đời sáu mươi năm của cụ, đều là những băn khoản trăn trở chưa có lời giải đáp về một kiệt tác nghệ thuật. Là một nghệ sĩ chân chính, có tài nàng, chắc chắn cụ luôn ấp ủ một bức tranh mơ ước, nhưng cuối cùng cụ vẫn chỉ là một chiếc bóng mờ nhạt của nghệ thuật. Bởi vì cụ nghèo quá không đủ tiền để dồn cho một sáng tác nghệ thuật chân chính. Nguồn thu nhập của cụ là ngồi làm mẫu cho các họa sĩ tập tự, những người “không đủ tiền thuê nổi một người làm mẫu chuyên nghiệp”, để được lĩnh một số tiền nhỏ nhoi, và “bôi bác một bức cho ngành buôn bản hay quảng cáo”, theo lời cụ nói mới chua xót, thất vọng làm sao! Đó là những công việc chán ghét, tẻ nhạt, không phù hợp với hoài bão của cuộc đời cụ.

Tâm trí buồn bực, cảnh sống cùng quẫn, khiến cụ uống rượu squá độ, cay độc và dữ tợn. Nhưng cụ không phải là người xấu, biết thông cảm, sẻ chia buồn vui với những nghệ sĩ trẻ, trong đó có Giôn-xi và Xiu-đi. Có lẽ vì quá thương cảm những cô gái nhỏ nghèo khổ, mà cụ dường như có phần độc đoán khi “tự coi mình là con chó xồm lớn chuyền gác cửa bảo vệ” cho hai cô bé đáng yêu của cụ. Khi Xiu kể cho cụ Be-man nghe về ý nghĩ kỳ quặc của Giôn-xi: khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì cô cũng lìa đời, Giôn-xi yếu đuối mong manh như một chiếc lá, tâm lí đầy tuyệt vọng, thì cụ tức giận, nhạo bám: “Sao! Trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết chỉ vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng lá ư”. Cụ cho những lời nói, hành động của Giôn-xi là ngốc nghếch. Cụ trách Xiu tại sao lại để cho những chuyện vớ vẩn đó chui vào đầu óc cố bé đáng yêu. Sự bực bội quát mắng ấy xuất phát từ một tình thương vô bờ của người cha đối với những đứa con dại dột.

Vì thâu hiểu được tâm trạng của Giôn-xi mà cụ Be-Man đã thốt lên một câu đầy thương cảm “Tội nghiệp cô bé Giôn-xi”. Xiu đã cho cụ là lắm điều lắm lời, nhưng cụ không hề giận. Để giành mạng sống cho Giôn-xi cụ đã quên mình thực hiện một tác phẩm. Và trong khi theo quy luật nghiệt ngã của thiên nhiên, các chiếc lá trên cành rụng hết, vẫn còn lại một chiếc lá và chiếc lá diệu kỳ đã cứu sống cô bé. Giữa bão tuyết dày đặc mưa gió, đêm đông tê tái, chiếc lá trường xuân đơn độc, nhổ bé đang can đảm duy trì nhựa sống dồi dào, thì không lẽ gì một con người lại chịu thua bệnh tật. Giôn-xi tìm lại được niềm vui và bình phục. Đó cũng là lúc cô được biêt chiếc lá trên cành là do Be-man vẽ! Nhưng người họa sĩ già nhân hậu đó đã chết trong đêm đông giông bão khi cụ liều mình trèo lên tường vẽ chiếc lá để đem lại cuộc sống cho cô. Có phải chăng Giôn-xi đã được cụ già Be-men nhường cho hơi thở để được sống và tiếp tục thực hiện ước mơ của mình?

Tình yêu con người, tình yêu nghệ thuật cùng với tài năng của người nghệ sĩ chân chính đã khiến cụ "cứu được cô bé”. Cụ đã hòa vào mực vẽ, vào ngọn bút những giọt máu trong trái tim nhân hậu bao la, những giọt, nước mắt yêu thương của mình khiến cho chiếc lá sống động như thật. Con người già cả ấy không nề đêm tối mịt mùng, lạnh lẽo, hoang vắng, bất chấp gió tuyết cắt da, cắt thịt, để đem tài năng nghệ thuật cứu người. “Cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của mình”. Cụ vẽ vì sự sống của cô bé, không phải vì danh tiếng cá nhân, chắc cụ không thể ngờ rằng bức vẽ cuối cùng của đời cụ lại được công nhận như một kiệt tác của nghệ thuật. Bức tranh được vẽ với tất cả tấm lòng cao thượng nhân hậu, đã có tác dụng màu nhiệm không chỉ là cuộc sống một con người mà còn đem lại niềm mơ ước sáng tạo cho một nghệ sĩ trẻ. Để đối lấy một tác phẩm đầy tính nhân bản, người nghệ sĩ già không đắn đo trả bằng cả sinh mệnh của mình. Sự hy sinh của cụ làm cho nghệ thuật có ý nghĩa cao quý hơn, gần với nỗi buồn niềm Vui của người bình thường hơn.

Hình ảnh của cụ Be-man có sức chinh phục lòng người, nó hướng con người tới những giá trị đích thực của cuộc sống. “Tất cả mọi thứ rồi sẽ trôi qua nhưng lòng nhân hậu thì còn mãi mãi”. Cụ Be-men là hiện thân của đức hi sinh cao cả, tấm lòng, tình cảm trong sáng, thủy chung của con người. Nhân vật Be-men dường như chỉ thoáng qua, nhưng đây mới chính là nhân vật trung tâm khi ta suy nghĩ về giá trị nhân sinh của chiếc lá cuối cùng. Tác phẩm giản dị nhẹ nhàng như cuộc sống của ông già họa sĩ Be-man, nhưng mang một thông điệp viết trên chiếc lá trường xuân: Con người hãy yêu thương nhau hơn và chỉ có mục đích chân chính phục vụ con người là lẽ sống, lẽ tồn tại duy nhất của nghệ thuật và của bản thân mỗi con người.

Tham khảo ^^

1 tháng 5 2020

dạ cảm ơn ~~