Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Quạt điện là vật dụng vô cùng cần thiết trong những ngày hè, đến với đề văn thuyết minh này các em sẽ được giới thiệu mẫu dàn ý cùng bài văn thuyết minh dùng các biện pháp nghệ thuật trong văn lớp 9.
Đề bài: Thuyết minh về cái quạt điện
I. Lập dàn ý
1. Mở bài
– Giới thiệu chung những vai trò, công dụng của chiếc quạt điện trong đời sống con người.
2. Thân bài
– Nguồn gốc ra đời cái quạt.
– Một số loại quạt.
– Quạt điện so với quạt giấy.
– Quạt vật dụng hữu ích cho con người.
– Phân loại các loại quạt điện:
+ Quạt trần
+ Quạt treo
+ Quạt cây
– Các động cơ sử dụng trong quạt điện
+ Điện một pha
+ Điện ba pha
– Cấu tạo
+ Chân quạt
+ Thân quạt
+ Cánh quạt
+ Mô tơ
+ Lồng bảo vệ
– Hướng dẫn vệ sinh quạt điện.
3. Kết bài
Cuộc sống có nhiều thay đổi, nhiều thiết bị làm mát khác ra đời nhưng quạt điện vẫn là người bạn trung thành và hữu ích với con người.
I. Mở bài: giới thiệu về cái quạt máy
Trái Đất ngày càng nóng lên, khiến môi trường ngày càng oi bức và khắc nghiệt. Thời tiết nắng nóng kéo dài, khiến bạn cảm thấy khó chịu và bức rức. Để giảm được sự oi bức đó thì chúng ta đã sử dụng quạt máy để giảm nhiệt và mát mẻ hơn trong mùa hè thì chúng ta đã có quạt máy. Quạt máy, một vật dụng mà mọi nhà đều có, đâu đâu cũng có. Chúng ta cùng đi tìm hiểu về những chức năng bổ ích và công dụng của chiếc quạt bình thường mà bạn vẫn đang sử dụng.
II.Thân bài
1. Khái quát
- Quạt là một thiết bị dẫn động bằng điện
- Hữu ích cho cuộc sống con người
- Vật dụng phổ biến trong mọi gia đình
2. Chi tiết
a. Nguồn gốc ra đời
- Năm 1832 một nhà khoa học người Mĩ, một trong những người tạo ra quạt máy đầu tiên là Omar-Rajeen Jumala . khi đó quạt hoạt động như máy bơm.
- Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 quạt chạy bằng cơ học do Thomas Alva Edison và Nikola Tesla phát minh
- Giữa năm 1882 đến năm 1886, Tiến sĩ Schuyler Skaats Wheeler đã phát triển thành loại quạt bàn và quạt điện cá nhân.
- Năm 1882, Philip Diehl đã giới thiệu đến chiếc quạt điện trần và ông được xem là cha đẻ của chiếc quạt điện hiện đại ngày nay.
b. Phân loại quạt
- Quạt treo tường
- Quạt để bàn
- Quạt đứng
- Quạt trần
- Quạt âm trần
- Quạt âm tường
- Quạt hút gió
- Quạt thổi gió
c. Kiểu dáng, hình dáng
- Quạt máy cầm tay
- Quạt sử dụng trong công nghiệp
- Quạt đứng
- Quạt treo tường
d. Các động cơ sử dụng trong quạt
- Điện một pha
- Điện ba pha
e. Cấu tạo
Gồm cách bộ phận chính:
- Chân quạt
- Thân quạt
- Cánh quạt
- Mô tơ
- lồng bảo vệ
f. Cách tháo quạt ra vệ sinh
- Tháo lồng bảo vệ quạt phía trước
- Vặn nắp chặn theo chiều kim đồng hồ để tháo cánh quạt ra(ngược với bình thường là văn ngược kim đồng hồ là văn ra)
- Tháo vòng chặn lồng sau của quạt
- Tháo lồng bảo vệ quạt phía sau để lau chùi
g. Cách sử dụng
Tùy theo từng loại quạt mà ta có các cách sử dụng khác nhau:
- Giật dây hoặc ấn nút (tự ghi)
- Một số cái như: phun sương, đèn ngủ, sưởi ấm thì ghi đại vô nghe.
h. Giá thành: tùy theo từng thương hiệu và kiểu dáng khác nhau mà quạt có các giá thành khác nhau. từ 1 2 trăm tới trên dưới 10 triệu
i. Các thương hiệu quạt máy nổi tiếng
Các thương hiệu quạt máy có chất lượng được nhiều người ưa dùng như: Senko, Asia, Sunhouse, Vinapan, Sakura, Kanguru, Panasonic, Phương Linh,….
j. Công dụng
Chức năng của quạt máy như: điều hòa không khí, hệ thống giảm nhiệt độ, tiện ích của con người (như quạt bàn điện), thông gió (như quạt hút thải khí), sàng lọc (như dùng để tách các hạt ngũ cốc), loại bỏ bụi (như máy hút bụi). Con người thường dùng quạt điện để làm khô quần áo, tóc, khăn tắm,….
III. Kết bài: nêu ý nghĩa và cảm nhận về quạt máy
Quạt máy là một vật dũng rất hữu ích, không thể thiếu trong mọi gia đình. Nếu chúng ta sử dụng cẩn thận hợp lí thì quạt sẽ đạt hiệu quả cao và năng suất tốt.
Những chiếc lá bên thềm rơi xào xạc ,chợt nhận ra thu đang thỏ thẻ trở về.Cái ngày này năm ngoái vẫn mưa tuôn xói xả ,nắng hè vàng tươi vẫn làm cho những chú ve kêu râm ran ,năm nay thời tiết trái chiều như đang dóng lên hồi chuông cảnh báo mùa mưa lũ bất thường .Mấy cô cậu chuồn chuồn cứ ve vẩy giữa sân trường đòi được du lịch một chuyến giữa ban trưa đây chăng ,còn ông mặt trời thì lờ đờ gửi chùm nắng nhạt cho nhân gian,bọn cá rô phi nhảy tom tóp ,cứ như đang ngứa ngáy lắm nên muốn chạy khỏi cái ao thu lạnh lùng của cụ Khuyến ngày xưa đây !
=>Tượng hình : vàng tươi, lờ đờ, nắng nhạt, lạnh lùng
=> Từ tượng thanh: xào xạc, thở thẻ, râm ran, tom tóp,...
I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"
1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;
2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.
3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.
Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.
Tham khảo :
ão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,...
Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử...! Cái chết của
lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “"con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn di. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.
Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác truyện
- Nhận xét về cách xây dựng nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là nhân vật lão Hạc
II. Thân bài:
- Lão Hạc là người cha yêu thương con (qua chi tiết tâm trạng của lão khi con đi đồn điền cao su, lúc lão nhận được thư của con, cực điểm là cái chết của lão)
- Lão Hạc là một người có lòng nhân hậu (qua chi tiết lão đối xử với con chó Vàng, tâm trạng của lão khi lão bán chó)
- Lão Hạc là người giàu lòng tự trọng (lão ko nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào của ông giáo, trước khi tự tử đã gửi lại ông giáo chút tiền để lo ma chay)
=> Khái quát lại cuộc đời và số phận của lão Hạc (Lão Hạc là một người dân nghèo nhưng tốt bụng, có lòng nhân hậu, tự trọng và yêu thương con. Thế nhưng cuộc đời của lão Hạc vô cùng đau khổ, bế tắc, ko có lối thoát, cuối cùng phải chọn một kết thúc đau khổ)
- Số phận của lão Hạc cũng là số phận của biết bao người nông dân khác trong xã hội phong kiến đương thời.
- Thông qua đó tác giả muốn tố cáo xã hội phong kiến bất công, thối nát, vì tiền
III. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề, nêu cảm nghĩ của bản thân về nhân vật lão Hạc.
- Ẩn dụ : nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Tế Hanh đã sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách một cách tinh tế. "Nghe" là động từ chỉ hoạt động của thính giác, "thấm" lại là cảm nhận của xúc giác. Con thuyền nằm nghỉ đồng thời cảm nhận từng chuyển động tinh vi nhất đang diễn ra trong mình. Cách viết ấy vừa gợi sự mệt nhọc thấm thìa của con thuyền vừa thể hiện được sự tinh tế tuyệt vời của nhà thơ, tưởng như Tế Hanh đồng cảm sâu sắc với cảm giác, cảm xúc của con thuyền...
- Nhân hoá : chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Biện pháp nhân hoá khiến người đọc hình dung rất rõ dáng vẻ nặng nề, thấm mệt của chiếc thuyền khi chậm chạp neo vào bến đỗ.