Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo: Hữu Thỉnh (Nguyễn Hữu Thỉnh) sinh năm 1942, quê Vĩnh Phúc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Từ một cán bộ văn hóa, tuyên huấn và sáng tác thơ, ông đã làm Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội, Tổng biên tập báo Văn nghệ…. Từ năm 2000, ông là Tống thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
Tham khảo:
Hữu Thỉnh (Nguyễn Hữu Thỉnh) sinh năm 1942, quê Vĩnh Phúc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Từ một cán bộ văn hóa, tuyên huấn và sáng tác thơ, ông đã làm Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội, Tổng biên tập báo Văn nghệ…. Từ năm 2000, ông là Tống thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
1. Tham khảo bài viết trên Giáo dục thời đại:
1. Sang thu gồm mười lăm câu thơ, chia làm ba khổ, cả bài thơ chỉ có một dấu chấm (.): Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về, tiếp đến là quang cảnh đất trời vào thu, và bài thơ được kết lại bằng những biến chuyển trong lòng cảnh vật và suy ngẫm của nhà thơ trước cuộc đời. Theo mạch vận động của tứ thơ, cảnh vật tựa hồ như một cuốn phim quay chậm dần hiện lên. Vẻ đẹp của bài thơ nằm trong chính mạch chuyển vận tinh tế ấy.
Sang thu được chia làm ba khổ khúc chiết, nhưng nhịp thời gian chuyển dịch qua ba khổ thật khó phân định. Từ đầu đến cuối bài thơ các hình ảnh thơ, trạng thái sự vật đều mang hơi thu, dáng thu. Đó là hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ và hàng cây đứng tuổi… Nhưng thật ra, trong sự dính liền của hệ thống hình ảnh, vẫn có một sự chuyển vận của tự nhiên, của vạn vật khi đất trời sang thu.
Cả bài thơ đều nằm trong sự vận động sang thu, nhưng mỗi khổ thơ mang một dáng vẻ: Khổ một, cảnh vật là những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đâu đó của mùa thu từ góc nhìn vườn ngõ Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về; Khổ hai nghiêng về cảnh sắc thiên nhiên, mây trời, sông nước chuyển mình sang thu Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã, Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu; Khổ ba nghiêng về những những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi.
Có thể thấy, ba khổ thơ làm nên hành trình chuyển vận của thiên nhiên: Từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ ngoài vào trong… Sự chuyển vận tinh tế nhưng cũng rất mãnh liệt. Từ sự chuyển vận của tứ thơ trên bề mặt câu chữ của bài thơ Sang thu, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “mạch cảm nghĩ” của thi sĩ trước mùa thu: “Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một …Hình như thu đã về, là đến niềm say sưa ở khổ hai …
Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu, và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm …Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu: Bất giác, khổ hai: Tri giác, khổ ba: Suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hóa sang nhau trong cùng một dòng tâm tư. Chúng đan dệt với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi, phức tạp”.
Như vậy, rõ ràng là trong thế giới nghệ thuật của bài thơ Sang thu có một sự chuyển vận của đất trời và của dòng cảm xúc nhà thơ. Cấu trúc của chỉnh thể nghệ thuật ấy được tạo bởi sự chuyển vận ngầm đã mang lại cho người đọc những khám phá lý thú và bất ngờ.
2. Mở đầu bài thơ ta bắt gặp tiếng reo vui khi hồn thơ bất giác nhận ra những tín hiệu báo thu về:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Trong thơ thu, người đọc đã từng bắt gặp lá thu rơi trong thơ Lưu Trọng Lư, áo mơ phai dệt lá vàng trong thơ Xuân Diệu; hương cốm mới, cái chớm lạnh, xao xác hơi may trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Với Hữu Thỉnh, thu về bằng hương ổi, và gió se. Trong nhịp bước âm thầm của thời gian, đất trời chuyển từ mùa hạ sang thu, gió thu nhẹ nhàng mang theo chút hơi “se” rất đặc trưng của mùa thu Đồng bằng Bắc bộ, hương ổi “phả” vào trong gió, lan tỏa vào không gian. Đây thực sự là những hình ảnh đặc trưng của mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc, gần gũi với con người Việt Nam.
Trong “Lời tự bạch với Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh từng trầm ngâm kể: “…giữa đất trời mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ, điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra, đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta”.
Đến hai câu tiếp theo trong khổ đầu của bài thơ, chúng ta bắt gặp sự chuyển vận của đất trời rất tinh tế. Sự vật đang ở thế vận động mạnh - hương ổi “phả”, gió “se”, bỗng như chùng lại:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sương thu như muốn đọng lại, lưu luyến, ngập ngừng trong sự chuyển dịch chầm chậm qua ngõ. Từ láy “chùng chình” đặt giữa câu thơ tạo nên sự ngắt quãng nhịp nhàng (Sương/ chùng chình/ qua ngõ), mà vẫn chứa đựng sự chuyển vận của sương trong không gian thong thả, yên bình. Biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu thơ “Sương chùng chình qua ngõ”, như để diễn tả sự cố ý trong chuyển động chậm của sương. Nó như muốn giăng mắc vào giậu rào, níu vào nhành cây khô đâu đó ở trước ngõ, đầu thôn. Ở đây, sương mang vẻ duyên dáng, yểu điệu như bóng hình thiếu nữ chưa muốn rời bước trước ngõ nhà ai. Trong cái “chùng chình” của sương, có sự níu giữ của hồn thơ, có vẻ tư lự của thi sĩ trước thời khắc giao mùa.
Trong sự chuyển mình tinh tế của cảnh vật nhà thơ nhận ra “thu đã về”. Sự hiện hữu của nó cũng không thật rõ, nhà thơ chỉ phỏng đoán bằng cảm nhận -“hình như”.
3. Nếu ở khổ thơ mở đầu, tín hiệu mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ thì đến khổ thơ thứ hai, cùng với dòng chảy thời gian, thu bước ra khỏi thời khắc giao mùa, hiện hình rõ nét. Mùa thu đi từ ngõ để đến với không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Hơi thở của thu, đến đây đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ, không phải “hình như”nữa mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Sông vào thu với dòng trôi “dềnh dàng”, thong thả, khoan thai, rất mềm mại và duyên dáng. Trên nền không gian ngưng đọng ấy, có chuyển động vội vã, gấp gáp của đàn chim trời trong hành trình di trú. Sự vận động của đất trời ở thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của cảnh vật.
Từ láy “vội vã” đặt trong vế đối với từ “dềnh dàng” ở câu trên tạo nên mạch vận động từ chậm đến nhanh, từ nhẹ đến mạnh. Phải chăng có sự tương phản giữa sông dềnh dàng và chim vội vã? Dềnh dàng cũng là sự vận động nhưng diễn ra chậm, còn vội vã là nhanh. Quá trình ấy phù hợp với quy luật vận động từ chậm đến nhanh.
Nhịp cầu mong manh giữa hạ sang thu, cuối cùng đã được cụ thể qua đám mây: Vắt nửa mình sang thu. Cả đất trời đang cựa mình thay áo mới. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè đã qua - mây trời vắt nửa mình sang thu.
Hình như trong đám mây còn có làn nắng mùa hè. Hình như trong làn mây đã mang theo chút se của mùa thu. Đám mây mang trên mình cả hai mùa. Bước đi của thời gian trong hình ảnh “đám mây” vừa mãnh liệt lại vừa vô cùng tinh tế. Đó là cái tinh tế của hồn thơ nhạy cảm trước những chuyển vận của tạo vật ở thời khắc giao mùa.
Sang thu âm thầm nhưng thi sĩ vẫn cảm nhận được được sự khẩn trương trong mạch vận động.
4. Ở hai khổ thơ đầu, thu hiện hình bằng hình ảnh, bằng sự chuyển động được nhìn thấy thì ở khổ cuối, thu lắng sâu vào suy ngẫm. Hình tượng thơ, bởi vậy mang tính triết lý sâu xa:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu không phải “hình như… đã về” mà đã hiện hữu trong không gian. Trong sự vận động của tứ thơ, theo mạch cảm, mạch nghĩ (từ bất giác sang tri giác đến suy ngẫm, theo ba khổ thơ), “nắng”, “mưa”, “sấm” không chỉ là hình ảnh tự nhiên mà còn mang tính biểu tượng - cho những sóng gió, thăng trầm trong cuộc đời mà con người phải trải qua.
Rồi đây nàng thu sẽ ngự trị cảnh vật nhưng tác giả vẫn tin rằng hàng cây đứng tuổi vẫn còn đó. Thời gian mang tính lưỡng giá ấy để nhà thơ suy ngẫm trước cuộc đời. Qua bão giông, sóng gió của cuộc đời con người cần vững vàng, điềm tĩnh đón nhận mọi thử thách.
5.Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể được biểu hiện qua mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức. Nếu như nội dung thể hiện tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của người nghệ sĩ thông qua các chất liệu lấy từ cuộc sống thì hình thức là hình tượng, thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, nói cách khác là hệ thống các phương tiện diễn đạt để chuyển tải nội dung của người nghệ sĩ. Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Sang thu là một bài thơ như thế.
Sang thu được viết bởi thể thơ năm chữ. Sự lựa chọn thể thơ xuất phát từ sự đòi hỏi của nội dung, từ cái nhìn của tác giả, cái mạnh của thể thơ năm chữ là chất hoài niệm, hễ non tay thì thành vè (Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ, tr.104). Chọn thể thơ này là một thử thách nghệ thuật, bởi thơ năm chữ còn gọi là thơ ngũ ngôn có cội nguồn là thể thơ truyền thống có mặt trong các sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao, tính chất cổ kính cùng với sự hạn chế về câu chữ khó diễn đạt tình cảm. Tuy nhiên, một số nhà thơ như Xuân Quỳnh với Sóng; Hữu Thỉnh với Sang thu đã rất thành công ở thể thơ này với chỉnh thể chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa vần với nhịp:
Theo vị trí hiệp vần, Hữu Thỉnh sử dụng vần chân:
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần ông sử dụng vần thông:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Điều khá thú vị ở đây là đường nét thanh điệu của bài thơ, theo thống kê, bài thơ có 60 âm tiết thì có đến 33 âm tiết vần bằng, 27 âm tiết vần trắc. Vấn đề ở đây là có nhiều cặp câu nhà thơ tạo ra sự phối thanh nhịp nhàng, nếu câu thơ trước kết thúc bằng âm tiết vần trắc thì câu thơ sau đó kết thúc là âm tiết vần bằng, sự hiện diện của nhiều thanh bằng. Ví như sự phối hợp nhịp nhàng các cặp câu: (bảng 1)
Chính sự hiệp vần ấy tạo nên sự êm ái, nhịp nhàng phù hợp với lối tâm tình và hoài niệm của tác giả.
Theo Mai Ngọc Chừ: Sự ngừng nhịp trong dòng thơ phụ thuộc vào nội dung, ý nghĩa và vào từng thể thơ cụ thể (Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học, tr. 38). Để tránh sự đơn điệu của thể thơ truyền thống trong cách ngắt nhịp, Hữu Thỉnh thể hiện sự tìm tòi đổi mới qua cách ngắt nhịp linh hoạt 2/3: Hình như/ thu đã về; 1/2/2: Vắt/ nửa mình sang thu. Ngoài ra, có nhiều câu không có nhịp cắt giữa dòng, mỗi dòng thơ là một nhịp:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Không gò ép và gọt dũa cầu kỳ, Hữu Thỉnh đã để lại trong lòng người đọc những câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu, cách xử lý nghệ thuật của ông thể hiện sự tìm tòi sáng tạo.
Trong kho tàng văn học Việt Nam luôn “tràn đầy” những trang thơ về mẹ. Bởi vậy, không hề khó để ta có cơ hội cảm nhận về người đã “mang nặng đẻ đau” khi tiếp cận với văn chương. Và giữa vùng thơ văn dạt dào tình mẹ, Y Phương đã lấp đầy khoảng trống để ca ngợi cha và tình cha. Nói với con là tác phẩm hay nhất của nhà thơ miền núi thể hiện chân thực tình cảm thương yêu vô bờ bến của người cha với đứa con thân yêu. Qua hình ảnh phụ – tử, nhà văn còn nêu ra trước mắt độc giả nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc.
Với cách nói, cách diễn đạt, cách nói ví von qua những hình ảnh cụ thể diễn tả mộc mạc gợi cảm và mạnh mẽ, cả bài thơ là lời khuyên bảo ân cần của người cha đối với con và ước muốn của người cha cũng được thể hiện xuyên suốt bài thơ. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động còn nhiều vất vả, gian lao và thử thách; con sống trong một dân tộc với những truyền thông và đức tính tốt đẹp. Không những thế, qua Nói với con Y Phương còn nêu lên lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ của quê hương và mong ước người con kế tục được những truyền thống tốt đẹp đó của quê nhà.Cả bài thơ là lời tâm sự cùa người cha, giàu cảm xúc, tuy cách diễn tả mộc mạc nhưng vẫn giúp người đọc cảm nhận được hết cái thần, hồn của nó.
Bốn câu thơ đầu bài thơ là tình yêu thương của cha mẹ đối với con:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Một không gian đầm ấm của một gia đình hoà thuận, hạnh phúc gần như được bộc lộ hết chỉ qua bốn câu thơ.Gia đình là cái nôi, là nơi xuất phát mà cha mẹ tạo dựng cho con. Người con lớn lên trong sự yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ và người con lớn lên, trưởng thành bởi sự chở che của cha mẹ, trong không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt.
Người cha không chỉ gợi lại cho con về gia đình mà còn gợi lại cho con nhớ về cội nguồn, nơi nuôi dưỡng dạy bảo con khôn lớn nên người:
Người đồng minh yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Những câu thơ tiếp, người cha không muốn nói gì hơn rằng con đã lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương, con sống trong cuộc sống lao động vất vả, gian lao. Người đồng mình yêu lắm con ơi câu nói gợi tình cảm cộng đồng. Hai câu thơ tiếp theo Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát diễn tả hành động trong các công việc khác nhau. Từ đây người con biết rằng mình lớn lên trong cuộc sống lao động, trong tình cảm nhân hậu của quê hương. Những hình ảnh như đan, ken lại gợi cho ta một sự gắn bó khăng khít giữa người với người, chắc chắn như không thể tách rời.
Những câu thơ tiếp theo:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người cha đã cho người con thấy rõ đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước rất giản đơn của người cha. Ba câu đầu là đức tính cao đẹp của người đồng mình. Cuộc sống lao động dù có vất vả nhưng mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương. Ngoài ra, hai câu thơ Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn còn thể hiện sức mạnh, chấp nhận mọi thử thách và quyết vươn lên băng ý chí của mình. Những đức tính cao đẹp đó người cha muôn truyền lại cho con. Thể hiện trong ước muốn cùa người cha là người con phải tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Cuộc sống dù có khó khăn đến đâu thì cũng phải đứng vững gắn bó với quê hương, không bao giờ được rời bỏ quê hương mà phải vươn lên bằng ý chí của mình.
Người đồng mình thô sợ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ được nhỏ bé Nghe con.
Lại một đức tính nữa mà người cha muốn truyền cho con: người đồng mình tuy mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Bằng tâm hồn, ý chí của họ, bằng sự lao động cần cù nhẫn nại hàng ngày đã làm nên quê hương với những truyền thống tốt đẹp. Qua đây người cha còn muốn nhắn nhủ với con rằng sống phải có tình, có nghĩa, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận vượt qua mọi gian lao thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Hơn thế nữa, người con còn biết tự hào truyền thống quê hương, tự tin vững bước trên đường đời.
Nhưng xuyên suốt cả bài thơ lại là tình cảm cha con thắm thiết. Đó chính là tình yêu thương trìu mến, thiết tha thể hiện qua niềm tin tưởng của người cha qua lời Nói với con. Điểm lớn nhất người cha truyền cho con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ, cuộc sống cao đẹp của quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Với giọng thơ tha thiết trìu mến, ở các lời tâm tình dặn dò với cách dẫn dắt rất tự nhiên Y Phương đã tạo nên sự gắn bó, tình yêu thắm thiết giữa cha và con.
Nói với con là một thành công lớn trong con đường sự nghiệp của Y Phương. Với những lời nói rất đỗi mộc mạc và giản dị tình cảm cha con hiện lên là một tình cảm vô cùng thắm thiết và cao đẹp. Bài thơ là lời khuyên bảo và ước mong của người cha đốì với con, muốn con kế thừa đức tính tốt đẹp của người đồng mình, biết tự hào truyền thống quê hương, yêu quê hương, tự tin trên đường đời và cố gắng vươn lên, vượt qua mọi thử thách để xây dựng quê hương với những truyền thống tốt đẹp.
Bài thơ là những cảm nhận ,những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa .Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ : |
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê .Và không chỉ có thế ,cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng,thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn :
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về .
Sương thu đã được nhân hoá ,hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn ,cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi :
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại ,những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái , hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh :
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ ,trắng xốp ,kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “ vắt nửa mình sang thu”.Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây , song chỉ là “vẫn còn” , “đã vơi dần”, “ cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến .Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động .Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa .
Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác ,bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà .
gió se có ý nghĩa là cơn gió heo may lành lạnh đủ để dậy cảm súc ở trong ta kiến ta cảm thấy một chút dễ chịu, một chút lâng lâng lúc thiên nhiên đổi mùa
Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên. Động từ “bỗng” đặt đầu câu như một sự ngạc nhiên kỳ lạ của nhà thơ về thời khắc giao mùa đầy xao xuyến này của tác giả. Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả dư vị nồng nàn, đậm đà mùi hương ổi đang lan tỏa trong. Gió se là gió nhẹ, khô và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang theo hương ổi của đồng quê.
Tham khảo nha em:
Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và hay viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên. "Sang thu" là một tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của ông. Bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên sang thu mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu cuộc đời.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Sự biến đổi đất trời lúc sang thu hoặc tín hiệu sang thu (làn gió se) mang theo "hương ổi" nhà thơ ngỡ ngàng bâng khuâng xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa ("bỗng", "hình như").
Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được nhà thơ cảm nhận bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế. "Hương ổi" lan vào không gian phả vào gió se, động từ "phả" là nét đặc sắc của hương ổi, mùi hương ổi lan tỏa vào trong gió với một không gian rộng. "Sương đầu thu" giăng mắc nhẹ nhàng chuyển động chầm chậm nơi ngõ xóm, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa rất đặc sắc qua động từ "chùng chình". "Dòng sông" trôi thanh thản gợi vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên; những cánh chim bắt đầu vội vã, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật đối và các từ láy đã mở ra một không gian cao rộng, khoáng đãng.
Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu" đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo và tạo nét riêng cho tác phẩm. Có lẽ mùa thu đang đến ngõ xóm báo hiệu mùa thu đang đến rất gần. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những cơn mưa cũng vơi bớt, tiếng sấm cũng không còn bất ngờ. Tác giả sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế qua từ "vẫn còn bao nhiêu", "vơi dần", "cũng bớt". Hình ảnh sương thu chùng chình nơi ngõ xóm gợi liên tưởng con người bâng khuâng xao xuyến bịn rịn trước mùa thu của cuộc đời.
Lúc sang thu bớt đi tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu hình ảnh hàng cây đứng tuổi không bị bất ngờ, giật mình bởi tiếng sấm nữa. Với hình ảnh có giá trị tả thực về hình tượng thiên nhiên này nhà thơ muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những vang động của cuộc đời.
Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.
Sang thu là một bài thơ đặc sắc viết về thời điểm chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ vừa thể hiện tài năng sự cảm nhận tinh tế của tình yêu đồng thời thể hiện tình cảm của nhà thơ với thiên nhiên mùa thu. Đọc bài thơ chúng ta càng yêu hơn mùa thu thiết tha nồng hậu của quê nhà.
Trong phạm vi khổ một bài thơ "Sang thu", Hữu Thỉnh đã viết:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Chỉ qua hai câu thơ đầu của khổ, với việc sử dụng từ chỉ cảm xúc như "bỗng" cộng với động từ mạnh "phả" và hình ảnh "gió se", tác giả đã cho người đọc thấy được cảm xúc ngỡ ngàng của mình khi nhận ra mùa thu đã về qua các dấu hiệu của mùa thu. Dấu hiệu đầu tiên của mùa thu đã được tác giả thể hiện bằng sự bất ngờ khi nhận ra hương ổi bằng khứu giác, mà ở đây hương ổi ấy chính là một nét đặc trưng và bình dị của vùng Đồng bằng sông Hồng. Tiếp đến chính là hình ảnh "ngọn gió se" của mùa thu thật đặc trưng và thú vị làm sao (1). Được cảm nhận bằng xúc giác, tác giả ngoài ra còn dùng động từ mạnh "phả" để gợi nên sự thơm nồng, mạnh mẽ của hương ổi và sự vận động của gió đưa hương. Không chỉ vậy, ngoài ra tác giả còn sử dụng từ láy và phép nhân hóa với làn sương khiến cho làn sương như có tâm hồn mà xao xuyến, khiến cho làn sương như có tâm hồn mà xao xuyến trước ngưỡng cửa mùa thu. Từ đó, tác giả đã kết luận:
"Hình như thu đã về".
Với việc sử dụng thành phần tình thái "hình như" cùng cụm từ "đã về", tác giả đã thể hiện một cảm xúc mong manh, mơ hồ và đồng thời cũng rất quen thuộc, gần gũi mỗi khi đến - gợi nên sự bâng khuâng, xao xuyến của lòng người. Tác giả không thể hiện cảm xúc rõ ràng về sự hiện diện của mùa thu như là để cho người đọc thấy rõ về sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu (2). Như vậy, chỉ trong khổ một của bài thơ, tác giả Hữu Thỉnh đã khắc họa rõ nét cảm xúc của mình những tín hiệu thu về trong không gian gần và hẹp mới thật tinh tế biết bao.
*Chú thích:
(1): Thành phần cảm thán
(2): Câu phủ định
BN THAM KHẢO HƯỚNG DẪN NHÉ
Hướng dẫn :
Mở bài: Trong cuốn nhật kí cảm động của mình Đặng Thùy Trâm đã có lần viết: “đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố”, cuộc đời mỗi con người phải có những thăng trầm, những điểm rơi để mỗi con người trở nên dày dạn hơn, trưởng thành hơn. Nhưng làm thế nào để vượt qua những điểm rơi ấy? Có thể là bằng chính bản lĩnh của mỗi con người nhưng cũng có thể cần lắm một nơi dựa. Bài thơ “NƠI DỰA” của Nguyễn Đình Thi cho chúng ta hiểu rõ hơn về nơi dựa của cuộc sống.
Thân bài:
a) Giải thích: Bài thơ có hai câu chuyện nhỏ, câu chuyện thứ nhất là câu chuyện của một người đàn bà trẻ tuổi và một đứa bé. “Người đàn bà với khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào”, có lẽ người đàn bà đã trải qua những khó khăn, những đau đớn, những bất hạnh trong cuộc sống. Còn đứa bé mới chỉ ” lẫm chẫm” đi chưa vững, miệng nói líu lo chưa rõ, nó còn quá nhỏ. Những tưởng người đàn bà sẽ là nơi dựa cho đứa trẻ nhưng thực ra đứa trẻ kia mới là “nơi dựa” cho người đàn bà kia sống.
Câu chuyện nhỏ thứ hai là của anh chiến sĩ và bà cụ. Anh chiến sĩ có cái nhìn “đã nhiều lần nhìn vào cái chết” nghĩa là anh đã từng phải đối mặt với ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, đã phải trải qua bao đau thương nghiệt ngã của cuộc đời. Còn bà cụ, tuổi đã cao, sức đã yếu, bước đi không còn vững nữa. Những tưởng người chiến sĩ sẽ phải là “nơi dựa” cho bà cụ nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại, bà cụ chính là “nơi dựa” cho người chiến sĩ đi qua những thử thách.
=> Như vậy bài thơ đề cập đến vấn đề “nơi dựa” của mỗi con người trong cuộc sống, đó là những người thân yêu, những người có vai trò vô cùng quan trọng, những người có khả năng mang lại cho ta nguồn cảm hứng sống, mang cho ta lẽ sống, niềm tin, hi vọng vào cuộc đời. Hay “nơi dựa” chính là những nơi tạo ra động lực để ta sống tiếp một cuộc sống tốt đẹp hơn, nơi dựa tinh thần.
b) Bàn luận: + Luận điểm: Với việc sử dụng thể thơ văn xuôi, với ngôn từ giản dị, mỗi câu thơ như một lời nói nhẹ nhàng và sâu sắc, Nguyễn Đình Thi đã cho chúng ta nhận thấy ý nghĩa của nơi dựa tinh thần. Quả thực, với mỗi một con người, nơi dựa về tinh thần là vô cùng quan trọng và nó đặc biệt quan trọng khi mỗi chúng ta phải đối mặt với những khó khăn, thử thách, rơi vào những điểm rơi trong cuộc sống.
+ Chứng minh: Trong cuộc sống hàng ngày, Nơi dựa tinh thần của bạn có thể là cha, mẹ, là những người thân yêu, là quê hương, tổ quốc . Nơi dựa tinh thần của tôi có thể chính là những mục tiêu tôi đặt ra, có thể là một lời hứa với bản thân từ quá khứ và tất cả đều tạo động lực cho bạn và cho tôi có thể tiến lên.
*Trong dòng chảy trôi bình thường của cuộc sống, nơi dựa tinh thần cũng có vai trò quan trọng, nó giúp chúng ta không đi lệch đường, lệch hướng, không bị chững lại và thậm chí là không bị tụt lùi về phía sau trong dòng chảy trôi của cuộc đời (lấy dẫn chứng).
*Khi chúng ta phải đối mặt với khó khăn, với thử thách trong cuộc sống thì nơi dựa sẽ tạo ra động lực, sẽ thúc đẩy, sẽ động viên và thậm chí là định hướng cho ta cách để ta vượt qua khó khăn, thử thách (lấy dẫn chứng).
*Khi chúng ta gặp phải thất bại, nơi dựa sẽ xoa dịu đi những nỗi buồn, giúp chúng ta đứng lên, bước tiếp những bước vững vàng hơn (lấy dẫn chứng).
Mở rộng: Bên cạnh nơi dựa về tinh thần trong cuộc sống còn có nơi dựa về vật chất. Nơi dựa là điểm tựa cần thiết để giúp cuộc sống mỗi con người trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Tuy nhiên nếu ai đó lạm dụng nơi dựa sẽ có khả năng trở thành những con người phụ thuộc, trở thành ỷ lại, dựa dẫm. Biết mình có nơi dựa vững vàng cho nên không cố gắng, không nỗ lực. Như vậy, nơi dựa chỉ thực sự có tác dụng đối với tinh thần tự lập, ý thức tự giác của mỗi con người.
refer
I. Mở bài:
- Giới thiệu được bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh và nêu cảm nhận, ý kiến khái quát.
(Gợi ý: bài thơ biểu hiện những cảm xúc tinh tế của nhà thơ khi đất trời chuyển từ mùa hạ sang thu. Chỉ với 3 khổ thơ 5 chữ nhưng những cảm nhận, những hình ảnh và sức gợi của bài thơ lại hết sức mới mẻ).
II. Thân bài:
1. Phân tích cảm nhận khổ 1
* Những cảm nhận tinh tế bất ngờ:
- Không có lá rụng của thơ xưa, không có màu vàng như trong "Thơ mới", tác giả cảm nhận mùa thu rất riêng, rất mới, bằng sự rung động tinh tế.
+ Khứu giác (hương ổi) ---> xúc giác (gió se) ---> cảm nhận thị giác (sương chùng chình qua ngõ) ---> cảm nhận của lý trí (hình như thu đã về).
+ Tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng qua các từ “bỗng”, “hình như".
---> Tác giả thực sự yêu mùa thu, yêu làng quê, gắn bó với quê hương mới có cảm nhận tinh tế như vậy.
2. Phân tích cảm nhận khổ 2
- Từ cảm nhận của các giác quan, cảm xúc của tác giả về mùa thu dần hòa vào cảnh vật chung quanh.
ADVERTISING- Sự vật ở thời điểm giao mùa hạ - thu đã bắt đầu chuyển đổi: sông "dềnh dàng" - chim "bắt đầu vội vã", đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu".
- Hai khổ thơ đầu, các từ ngữ "chùng chình", "dềnh dàng", "vội vã", "vắt nửa mình" vốn là những từ ngữ dùng để chỉ trạng thái, tính chất của người được tác giả dùng để chỉ miêu tả thiên nhiên, vì thế cảnh vật trở nên sống động có hồn.
3. Phân tích cảm nhận khổ 3
- Cảm nhận về thời điểm giao mùa dần đi vào lý trí.
- Hai dòng thơ cuối bài cần hiểu với hai tầng nghĩa.
- Hình ảnh tả thực "mưa, nắng, sấm" nhưng gợi cho ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác - ý nghĩa về con người và cuộc sống.
4. Giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nghệ thuật: bài thơ hấp dẫn bởi những từ ngữ gợi cảm, gợi nhiều về cảnh về tình. Nhân hóa làm cho cảnh vật có hồn, gần gũi với cuộc sống.
- Nội dung: tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.
III. Kết bài:
- Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung bài thơ.
- Nêu cảm xúc khái quát.
Tham khảo:
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang thu.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.
2. Thân bài
a. Khổ thơ đầu
Bỗng: chợt giật mình, không có sự chuẩn bị từ trước, cảm giác sững sờ, ngạc nhiên.
Hương ổi: đặc trưng của mùa thu, báo hiệu mùa thu đã về.
Phả: động từ chỉ hành động mạnh mẽ.
Chùng chình: tính từ, tạo cảm giác chậm chạp, lững thững.
Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.
b. Khổ thơ thứ hai
Dòng sông: không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu.
Đàn chim: trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim nang nét đối lập với dòng sông. Nếu dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp đến.
Đám mây: không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu.
Động từ “vắt” thể hiện sư nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ “nửa mình sang thu” vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã.
→ Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.
c. Khổ thơ cuối
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: đó là ánh nắng, là những cơn mưa, là tiếng sấm giòn. Tuy nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn, không còn bất ngờ và gắt gỏng nữa.
Hai câu thơ cuối: Hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ. Đó cũng là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của bài thơ đồng thời nêu cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.
Nguyễn Hữu Thỉnh có bút danh là Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 21 tuổi, ông gia nhập quân đội, là chiến sĩ của binh chủng Tăng Thiết giáp. Cuộc đời binh nghiệp đã khơi dậy một hồn thơ chiến sĩ. Ông có viết trường ca, nhưng người đọc chú ý nhiều ở những bài thơ ngũ ngôn như “Sang thu”, “Chiều sông Thương”, v.v...
Cảm xúc bâng khuâng, nhẹ nhàng, thoáng hiện. Một số hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo, thi vị. Đó là ấn tượng về dư vị văn chương khi ta đọc tập thơ “Từ chiến hào tới thành phố" cùa Hữu Thỉnh.
-Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh. Ông sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
-Ông sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học nhưng ông đã trải qua một cuộc sống vô cùng vất vả.
-Nhận xét về hồn thơ của Hữu Thỉnh, có người viết: “Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh phong phú đa dạng và mang dấu ấn rõ nét. Đó là thành quả của một tư tưởng nghệ thuật chính xác, cao đẹp, một tư duy nghệ thuật mạnh mẽ, hiệu quả. Và cũng là của một bản lĩnh nghệ thuật kiên định, vững vàng, một thi pháp năng động, biến hóa, một phong cách đa dạng, sáng tạo”. Trong sự nghiệp cầm bút “nhà thơ đã có những thành tựu đặc sắc rất đáng trân trọng. Hữu Thỉnh chọn thơ, và thơ đã chọn đúng tài năng. Dọc đường thơ, Hữu Thỉnh đã nỗ lực tìm kiếm, khám phá không ngừng theo định hướng đầy triển vọng. Đó là đổi mới sáng tạo từ truyền thống đến hiện đại, thích ứng tiến bộ nghệ thuật với lý tưởng nhân văn cách mạng cao đẹp”.
-sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà .