Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vị trí: Hồ Núi Cốc thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 15km về hướng tây nam.
Đặc điểm: Nơi đây nổi tiếng bởi nét đẹp thiên tạo tự bao năm nay và bởi cả sắc màu huyền thoại của truyền thuyết nàng Công - chàng Cốc.
Ði theo tỉnh lộ Ðán - Núi Cốc trải nhựa phẳng phiu, uốn lượn qua những cánh rừng bạt ngàn, tít tắp là tới khu du lịch Núi Cốc. Hồ nằm giữa một khung cảnh thiên nhiên kì thú sơn thuỷ hữu tình.
Nơi đây đã nổi tiếng bởi nét đẹp thiên tạo tự bao năm. Núi Cốc tên gọi một vùng đất, vùng hồ nên thơ, lung linh sắc màu huyền thoại của câu chuyện tình thuỷ chung trong truyền thuyết Nàng Công - Chàng Cốc.
Hồ Núi Cốc là hồ nhân tạo, chắn ngang dòng sông Công, nằm trên địa phận huyện Ðại Từ, ở trên cao lưng chừng núi. Hồ được khởi công xây dựng năm 1993, hoàn thành cơ bản năm 1994. Hồ gồm một đập chính dài 480m và 6 đập phụ. Diện tích mặt hồ khoảng 25km2. Trên mặt hồ rộng mênh mông có tới hơn 89 hòn đảo, có đảo là rừng cây xanh, có đảo là nơi trú ngụ của đàn cò, có đảo là quê hương của loài dê, có đảo có đền Bà chúa Thượng Ngàn, lòng hồ sâu trung bình 35m, dung tích nước hồ khoảng 175 triệu m3. Hồ có khả năng khai thác từ 600 - 800 tấn cá/năm.
Hồ Núi Cốc là danh thắng và là nơi nghỉ mát đẹp. Hiện nay hệ thống nhà nghỉ và bến tắm đã được quy hoạch và xây dựng tương đối tốt, phục vụ khách du lịch đến thăm quan nghỉ ngơi, vui chơi giải trí./.
Nếu như bạn còn băn khoăn về những cảnh đẹp, di tích, địa điểm để thêm cho mình những trải nghiệm thú vị, thì xin mời bạn hãy ghé qua Hồ Tây. Nơi đây không chỉ là nơi cho ta những bình yên, thanh tĩnh sau một chuỗi làm việc mệt nhọc, nó còn là nơi chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống quý báu của cha ông ta từ ngần đời xưa. Cũng là một cách để bạn thêm tự hào, yêu quý quê hương dân tộc mình.
Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, bấy giờ nơi đây là một bến nằm giáp sông Hồng thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Ở vào thời Hai Bà Trưng bến này ăn thông với sông Hồng, bao bọc quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm... Cùng một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Ngoài ra, xung quanh bờ hồ còn có sự xuất hiện của các hang động vừa và nhỏ, bờ phía Tây có Già La Động (nay là Quán La thuộc phường Xuân La), bờ phía Đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai), bờ phía Nam có Bình Sa Động (thời Lý đổi là Giáp Cơ Xá nay thuộc quận Hoàn Kiếm. Cư dân sinh sống ở đây rất thưa thớt, họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng tỉa cây cối.
Giờ đây trải qua quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, Hồ Tây vẫn còn vẹn nguyên vẻ đẹp của đất Kinh Kì. Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo. Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh. Thời Lý - Trần, các vua chúa lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí như cung Thúy Hoa và Từ Hoa thời Lý nay là khu vực chùa Kim Liên, điện Hàm Nguyên thời Trần nay là khu chùa Trần Quốc. Tương truyền, chùa Kim Liên được dựng trên nền cung điện của Công chúa Từ Hoa là con Vua Lý Thần Tông. Để phát triển cơ sở tầm tang, công chúa Từ Hoa đã mang các cung nữ ra khu vực Hồ Tây khai hoang, lập ấp và dựng nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa cho họ. Trại Nghi Tàm là một điền trang lớn quán xuyến việc này. Hồ Tây vẫn được khai phá, cải tạo vào thời nhà Trần. Hồ Trúc Bạch cũng chính là một phần của Hồ Tây. Ven hồ Trúc Bạch có nhiều di tích lịch sử và công trình kiến trúc đặc sắc như đền Quán Thánh ở ngay góc tây nam hồ. Phía đông có chùa Châu Long tương truyền xây từ thời Trần, là nơi tu hành của công chúa con vua Trần Nhân Tông Có đền An Trì nơi thờ Uy Đô, một anh hùng chống quân Nguyên.
Hồ Tây nổi tiếng với những dặng cây xanh rì rất tươi mát và không khí trong lành, rất phù hợp để ta di dưỡng tinh thần. Bao quanh hồ có những bồn hoa, những rặng cây rủ bóng xuống, ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Xuân Diệu:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng...”
Giúp ta hình dung dáng vẻ yêu kiều, thướt tha của cây liễu. Nước hồ Tây trong xanh, rượi mát, thay đổi theo từng mùa, từng không gian và những khoảng thời gian khác nhau. Khi xanh bích, khi xanh lam, khi trong veo như giọt sương cũng có khi một màu đen tuyền buồn bã khi đêm xuống. Quanh hồ, những ánh đèn lấp lánh thắp sáng cho không gian, trông giống như một tòa lâu đài tráng lệ tọa lạc giữa thành phố. Về đêm khung cảnh hồ Tây càng trở nên lung linh hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp của hồ Tây vừa mang những nét cổ điển, truyền thống với những mái vòm và họa tiết từ ngàn xưa, hay những lớp rêu xanh phủ kín trong lâu đời và kính cẩn, lại vừa được hòa mình vào vẻ nhộn nhịp của đất kinh Kì, làm nên sự hòa hợp tuyệt với biết bao. Khi đến hồ tây bạn vừa có thể ngắm cảnh, vừa có thể thưởng thức những món ăn hà nội rất đặc sắc như tào phớ, bánh phở...Mỗi khi đến với hồ Tây hãy yên tâm rằng bạn sẽ luôn được thanh lọc tâm hồn mình. Hồ Tây không chỉ đi vào lòng người mà còn bất tử qua những trang văn, trang thơ để mãi trường tồn cùng thời gian:
“Một chiều dạo bước Hồ Tây
Mênh mang dịu nhẹ đắm say lòng người
Gió ru những nụ hồng tươi
Trên môi em cười hút cả hồn anh
Trời xanh mặt đất hiền lành
Giữa nơi nhộn nhịp vẫn dành một bên
Nên thơ chút cảnh êm đềm
Buông lời đối họa cho mềm câu thơ
Dệt thêm những sợi ước mơ
Mong một bến bờ mình vẫn bên nhau...”
Hi vọng rằng những cảnh đẹp thiên nhiên và món ăn nới đây sẽ giúp bạn cảm nhận sâu sắc và tuyệt vời hơn cuộc sống con người Hà Nội, về văn hóa truyền thống dân tộc.
1. MỞ BÀI:
Giới thiệu về hồ Tây: Hồ Tây là một trong những điểm đến thú vị hấp dẫn mời gọi khách du lịch
2. THÂN BÀI:
Nguồn gốc:
Hồ Tây có từ thời Hùng Vương.
Đặc điểm:
- Xung quanh bờ hồ còn có sự xuất hiện của các hang động vừa và nhỏ.
- Trúc Bạch cũng chính là một phần của Hồ Tây.
- Quanh hồ Tây có các đền, hồ nước rất trong là và tươi mát.
Giá trị của hồ Tây:
- Nghỉ dưỡng, thăm quan
- Thưởng thức các món ăn đặc trưng.
- Giá trị về văn hóa, lịch sử.
3. KẾT BÀI: Khẳng định lại giá trị của Hồ Tây.
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh: Nguyễn Sinh Cung, là nhà cách mạng, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ XX, một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969.
Các bài thơ Bác Hồ viết về trăng :
1. Vọng nguyệt
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
2. Trung thu
.......
Trung thu ta cũng tết trong tù,
Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu;
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
3. Rằm tháng giêng
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
4. Dạ lãnh
Đêm thu không đệm cũng không chăn,
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an;
Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang
5. Thu dạ
Trước cửa lính canh bồng súng đứng,
Trên trời trăng lướt giữa làn mây;
Rệp bò ngang dọc như thiết giáp,
Muỗi lượn hung hăng tựa máy bay;
............
6. Cảm tưởng đọc "Thiên Gia thi"
Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
7. Tin thắng trận
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau,
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.
8. Đối nguyệt
Ngoài song, trăng rọi cây sân,
Ánh trăng nhích bóng cây gần trước song.
Việc quân, việc nước bàn xong,
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.
9. Cảnh khuya
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
10. Đi thuyền trên sông Đáy
Dòng sông lặng ngắt như tờ,
Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.
Bốn bề phong cảnh vắng teo,
Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan.
........
11. Cảnh rừng Việt Bắc
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
12. Chơi trăng
Gặp tuần trăng sáng dạo chơi trăng
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng
"Non nước tơi bời sao vậy nhỉ ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng ?
..........
13. Thư Trung thu 1951
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng
Sau đây Bác viết mấy dòng
Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung...
*"Nhật ký trong tù": Sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Gồm 133 bài - chữ Hán. Là viên ngọc quý trong kho tàng văn hoá dân tộc".
* Bài thơ "Ngắm trăng"
Phiên âm
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà ?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa số,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
- Hoàn cảnh sáng tác:Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết của Bác.
- Thể loại: Thất ngôn tứ tuyệt.
1. Hai câu đầu.
Cảnh đẹp - khó hững hờ
2. Hai câu cuối.
Người ngắm trăng
Đối ngữ
- Nhân >< nguyệt
- Nguyệt >< thi gia
Câu hỏi tu từ.
Trăng ngắm nhà thơ
Tại sao bài thơ đề từ Bác không nhận mình là nhà thơ mà bây giờ lại nhận mình là thi gia ?
Thể thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ giản dị. Phép đối, nhân hoá, giàu hình ảnh.
Tình yêu thiên nhiên, phong thái ung dung, lạc quan.
Qua bài thơ ta thấy được Thể thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ giản dị. Phép đối, nhân hoá, giàu hình ảnh của bác đã thể hiện qua bài thơ , qua đó ta có thể cảm nhận đc Tình yêu thiên nhiên, phong thái ung dung, lạc quan của bác lúc đó ..
Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta như được thưởng thức một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao nói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….
Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.
Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời,
Càng tỏa ngát hương thơm hoa thủ đô...
Đó là những câu hát ngân nga tràn niềm tự hào về một thắng cảnh nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội - Hồ Gươm.
Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ.Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10 năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá) có mò được một lưỡi gươm, sau đó lại nhặt được một cái chuôi ở ruộng cày. Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất hiện. Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm.Cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thuỷ quân nên có lúc được gọi là hồ Thuỷ Quân.Trên hồ có hai hòn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa. Cuối thế kỷ 16, nhà Trịnh dựng phủ Chúa ở phường Báo Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và ở chỗ phố Thợ Nhuộm gần hồ nên đặt tên cho hai phần hồ là Hữu Vọng và Tả Vọng. Sau đó Trịnh Doanh cho đắp ở bờ hồ, chỗ đối diện với đảo Ngọc, một gò đất có tên là gò Ngọc Bội, còn trên đảo Rùa thì cho dựng dinh Tả Vọng. Khi Trịnh suy, Lê Chiêu Thống cho đốt phá tất cả những gì do họ Trịnh dựng lên. Đến đầu thế kỷ 19, người ta dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít lâu sau chùa này không thờ Phật mà thờ thánh Văn Xương và Trần Hưng Đạo, do đó đổi chùa thành đền, tức đền Ngọc Sơn ngày nay. Năm 1864, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra sửa sang lại cảnh đền. Trên gò Ngọc Bội ông cho xây một ngọn tháp hình bút. Đó là tháp Bút ngày nay.
Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao hòa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền tảng cho các tác phẩm của mình.
Hồ Gươm xanh thắm quanh bờ
Thiên thu hồn nước mong chờ bấy nay.
Hồ Hoàn Kiếm, hay còn thường được gọi là Hồ Gươm từ lâu đã đi cùng lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam và gắn liền với cuộc sống tinh thần của nhiều người. Mặt hồ xanh biếc, bình lặng và trầm tư nằm giữa những khu phố cổ, những con đường tấp nập, mở ra một khoảng không thoáng đãng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Để rồi, bùng mình ngay giữa trung tâm phồn hoa, nhộn nhịp, Hồ Gươm trở thành một thắng cảnh tự hào của người Hà Nội – một lẵng hoa giữa lòng thủ đô.
Hồ đã có từ rất lâu, từ cái thuở song Cái còn nằm sâu trong lòng đất vài nghìn năm trước. Vào thời gian đó, hiện tượng song lệch dòng rất thường hay xảy ra. Sông Hồng cũng chuyển hướng chảy qua các phố mà ngày nay thường thấy như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt…rồi hình thành các phân lưu. Nơi rộng nhất phân lưu này hình thành nên Hồ Hoàn Kiếm ngày nay. Ban đầu, hồ chưa có tên là Hồ Hoàn Kiếm mà được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Thuở xa xưa, do nước hồ quanh năm xanh ngát nên có tên là hồ Lục Thủy. Còn tên Hồ Hoàn Kiếm bắt đầu được gọi vào khoảng thế kỉ 15 gắn với truyền thuyết rùa thần đòi gươm. Tương truyền lại rằng, trong cuộc chiến chống quân Minh (1417 – 1427), khi Lê Lợi đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa, ông tình cờ bắt được thanh gươm có niên hiệu là Thuận Thiên. Gươm này đã theo ông suốt mười năm trinh chiến, giành lại nền độc lập. Lên ngôi vua đầu năm 1428, Lê Lợi – bấy giờ là vua Lê Thái Tổ trong một lần đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy thì có rùa vàng nổi lên. Khi vua tuốt gươm chỉ vào thì rùa liền ngậm gươm mà lăn xuống. Nghĩ rằng đó là trời cho mượn gươm dẹp giặc, nay giặc tan thì sai rùa đến đòi gươm nên hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Có thời gian vào khoảng cuối thể kỉ 16, chúa Trịnh cho ngăn hồ thành hai phần tả - hữu, lấy tên là Vọng. Hồ Hữu Vọng sau này bị Tây lấp mất còn hồ Tả Vọng chính là hồ Hoàn Kiếm mà giờ được phổ biến với tên gọi Hồ Gươm.
Cách đây 6 thế kỉ, dựa vào bản đồ thời Hồng Đức, Hồ Hoàn Kiếm gồm hai phần chạu từ phố nơi song Hồng chảy qua tới phố Hàng Chuối nối tiếp với nhánh chính của sông Hồng. Ngày nay, Hồ Gươm có vị trí giữa các khu phố cổ Hàng Ngang, Hàng Đào, Lương Văn Can… và các khi phố Tây do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỉ như Tràng Thi, Tràng Tiền, Hàng Bài, Hàng Khay,…
Hồ có tổng diện tích 12ha, là hồ nước ngọt tự nhiên của thành phố. Hồ Gươm kéo dài 700m theo hướng Nam Bắc và rộng 200m hướng Đông Tây. Nhờ vị trí thuận lợi, lại nằm chính giữa trung tâm thành phố nên dù không phải là hồ lớn nhất song Hồ Gươm vẫn đóng một vai trò quan trọng trong du lịch, đời sống và sinh hoạt văn hóa thủ đô. Ngoài ra, hồ còn gắn liền với các công trình kiến trúc nổi tiếng khác như: Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc,…
Tháp Rùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ 19, từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886. Nằm ở trung tâm hồ, trên gò Rùa (Quy Sơn), tháp chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Có thể thấy tháp có ba tầng và một đỉnh có nét như một vọng lâu vuông vức. Hai tầng đầu có kiến trúc giống nhau, gồm nhiều ô cửa hình vòm. Chiều dài có ba cửa, chiều rộng hai cửa. Tầng ba chỉ có một cửa hình vòm. Tháp Rùa ngoài giá trị là một công trình thẩm mỹ còn là nơi cho rùa phơi nắng và đẻ trứng. Đặc biệt hơn, đây là loài rùa lớn sống trong Hồ Gươm, hiếm khi nổi lên mặt nước. Tương truyền rằng hễ thấy rùa nổi lên thì tức là liên quan đến việc quốc gia đại sự. Năm 2011, loài rùa này được biết chỉ còn một cá thể sống sót, được gọi là Cụ Rùa đã được trục vớt và chữa trị vết thương. Rùa Hồ Gươm thuộc diện động vật quý hiếm đang được Nhà nước bảo vệ.
Hồ Gươm có hai đảo nhỏ, ngoài Quy Sơn thì đảo còn lại là đảo Ngọc – nơi được biết là vị trí tọa lạc của đền Ngọc Sơn. Đền nằm ở phía Bắc hồ, xưa kia có tên là Tượng Nhĩ, nghĩa tức tai voi. Sau này, đền được Lý Thái Tổ đổi là Ngọc Tượng khi rời đô ra Thăng Long và đến đời Trần mới được gọi là đền Ngọc Sơn. Dẫn vào đền là một công trình kiến trúc độc đáo khác của cây cầu cong màu đỏ rực. Đó là Cầu Thê Húc, nghĩa là nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sớm. Cầu do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng năm 1865.
Ngoài những công trình trên, hồ còn có nhiều công trình đặc biệt khác như: Tháp Bút, Đài Nghiên,… Vì vậy cũng có thể hiểu được lý do Hồ Hoàn Kiếm trở thành điểm du lịch ấn tượng, thu hút, là nơi những người Hà Nội xa quê nhớ về và là nguồn cảm hứng nghệ thuật bất tận của những thi nhân, nhạc sĩ và văn nghệ sĩ. Trên tất cả, hồ gắn liền với huyền sử một thời, là biểu tượng khát vọng hòa bình và đức văn tài võ trị của toàn dân tộc.
Trên đà phát triển ngày nay, người ta có thể xây dựng nên vô vàn những kiệt tác kì vĩ. Nhưng người ta vẫn cảm nhận được đâu đây cái hồn cốt thủ đô, tâm hồn người Hà Nội giữa cái hồn nước mênh mang, mơ màng ấy. Dạo quanh hồ là những thảm cỏ cắt tỉa công phu, những kè đá quanh hồ, hàng cây bố trí, chăm sóc khéo léo cho ta thấy được vị trí của Hồ Gươm trong lòng nhân dân thủ đô. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần bảo tồn những di tích ấy để giá trị của chúng còn mãi với thời gian.
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ. Người chỉ xem mình là người bạn thân của văn nghệ, người yêu văn nghệ. Nhưng rồi chính hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu, môi trường xã hội và thiên nhiên gợi cảm, cộng với tài năng và tâm hồn chan chứa cảm xúc, Người đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị. Văn thơ Hồ Chí Minh đạt đến một trình độ sắc sảo và hùng biện hiếm có.
Bác có vốn tri thức vô cùng uyên thâm. Người tiếp xúc với văn hóa nhiều nước trên thế giới cả phương đông và phương tây. Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Anh, Pháp, Nga, Hoa… Đến đâu cũng học hỏi, tìm hiểu, nghệ thuật đến một mức quá uyên thâm. Tiếp thu cái hay, cái đẹp đồng thời với việc phê phán những tiêu cực. Ảnh hưởng quốc tế nhào nặn với các cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển.
Bác có một lối sống rất Việt Nam, một lối sống bình dị nhưng cũng rất mới rất hiện đại. Ở bác có sự thống nhất, hài hòa giữa dân tộc và hiện đại phương Đông và phương Tây. Lối sống của Bác hết sức đơn giản. Nơi ở, làm việc là căn nhà sàn nhỏ bằng gỗ, vẻn vẹn vài phòng, đồ đạc mộc mạc, đơn sơ. Trang phục giản dị vơi bộ quần áo bà ba nâu, áo trấn thủ, đôi dép lốp cao su. Ăn uống đạm bạc với những món ăn dân dã, quen thuộc như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa,…
Đời sống của bác vô cùng thanh bạch vf giản dị. Bác không tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời mà Bác quan niệm rằng cái đẹp là sự giản dị. Ở bác vừa giản dị, vừa thanh cao, vĩ đại.
Thơ văn của Bác gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, trở thành vũ khí đắc lực cho nhiệm vụ tuyên truyền, cổ vũ nhân dân chiến đấu và xây dựng. Nó thể hiện sâu sắc tư tưởng, tình cảm và tâm hồn cao cả của Người. Bác thực sự có nhiều tài năng trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật.
Hồ Chủ tịch là lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, một chiến sĩ cộng sản lão thành, Danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, Người là Cha, là Bác, là Anh, Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ… (Tố Hữu). Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch – con người giản dị và vĩ đại – tiêu biểu cho truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang.
Đầu thế kỉ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành thấu hiểu nỗi nhục nô lệ dưới ách xâm lược của thực dân Pháp nên đã noi gương các sĩ phu tiền bối như Phạn Bội Châu, Phan Chu Trinh… tìm đường cứu nước. Rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) năm 1911, Nguyễn Tất Thành nung nấu ý chí là phải sang tận nước Pháp để tìm hiểu kẻ thù, từ đó có cách chống lại chúng.
Ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã cống hiến rất nhiều cho phong trào đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1941, với vốn sống thực tế, với kinh nghiệm dày dặn và trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, dân tộc ta vùng lên phá tan xiềng xích của chế độ phong kiến suy tàn và ách nô lệ của thực dân Pháp cùng phát xít Nhật, giành lại chủ quyền độc lập, tự do. Ngày 2-9-1945, người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Chủ tịch Hồ Chí Minh.)
Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ sáng suốt lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân trường kì kháng chiến và đã kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Nhân dân miền Bắc sau giải phóng phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước và sát cánh cùng đồng bào miền Nam tiếp tục đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ siêu việt, bằng tấm gương suốt đời phấn đấu, hi sinh vì dân vì nước, đã đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chiến đấu đến cùng để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định truyền thống bất khuất, anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch thể hiện lí tưởng cao cả là một đời phấn đấu, hi sinh để mưu cầu độc lập tự do cho dân, cho nước: Tự do cho tổ quốc tôi, cơm áo cho đồng bào tôi. Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Tình yêu thương con người của Bác sâu sắc và rộng lớn. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, Bác thương em bé mới nửa tuổi đã phải theo mẹ vào chốn lao tù (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương – Nhật kí trong tù). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác thương các cháu nhi đồng phải sống khổ sở vì thiếu thốn, vì bom đạn: Nay vì vận nước gian nan, trẻ em cũng phải lầm than cực lòng. Bác luôn quan tâm và yêu thương các cháu với tình cảm chân thành, ruột thịt: Ai yêu nhi đồng, bằng Bác Hồ Chí Minh…
Bác thông cảm với người lao động vất vả, cơ cực, lo nỗi lo mất mùa, chia sẻ niềm vui được mùa với nông dân: Nghe nói năm nay trời đại hạn, Mười phân thu hoạch chỉ vài phân… Khắp chốn nông dân cười hớn hở, Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.. (Nhật kí trong tù).
Lòng nhân ái của Bác Hồ bao trùm khắp các tầng lớp nhân dân:
Bác sống như trời đất của ta,
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa,
Tự do cho mỗi đời nô lệ,.
Sữa để em thờ, lụa tặng già.
(Bác ơi- Tố Hữu)
Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta,
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa,
Chỉ biết quên mình cho hết thảy,
Như dòng sông chảy nặng phù sa.
(Theo chân Bác – Tố Hữu).
Bác suốt đời cống hiến, hi sinh vì quyền lợi của đất nước và dân tộc: Nâng niu tất cả chỉ quên mình (Theo chân Bác – Tố Hữu). Bác sống giản dị, thanh bạch, không bao giờ nói về mình. Đức khiêm tốn, sự hài hòa giữa tư tưởng vĩ đại và phong thái tự nhiên, hồn hậu, gắn bó chan hòa với con người và thiên nhiên của Bác đã tạo nên sức thuyết phục lớn lao đối với dân tộc và nhân loại.
Hồ Chủ tịch là một nhân cách khiêm tốn, giản dị và vĩ đại. Tài năng và đức độ của Bác rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà cả nhân loại đã tôn vinh: lãnh tụ cách mạng vô sản xuất sắc, chiến sĩ hòa bình, Danh nhân văn hóa thế giới… Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một Con Người chân chính.
Là người dân Thủ đô Hà Nội đã hơn mười năm nay, nhưng những hiểu biết của tôi về mảnh đất ngàn năm Văn Hiến này còn rất ít ỏi. Nhân dịp nghỉ hè, tôi đã đặt ra cho mình một chương trình tìm hiểu Hà Nội với những cảnh sắc mang đậm chất văn hóa Hà thành. Điểm tham quan đầu tiên của tôi là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất Thủ đô – đền Ngọc Sơn.
Tôi bắt đầu khởi hành từ sáu rưỡi sáng. Khi đến nơi tôi rất bất ngờ về vẻ đẹp của Hồ Gươm và nét cổ kính của kiến trúc đền Ngọc Sơn. Đạp xe về phía đông hồ, trước mặt tôi là cổng đền Ngọc Sơn. Cổng đền gồm cổng chính ở giữa và hai cổng phụ hai bên. Qua cổng tạm quan, bên trái tôi là Tháp Bút nằm trên gò Ngọc Bội. Đúng như tên gọi, tháp mang hình dáng một cây bút lông. Bên phải là Đài Nghiên nằm trên cổng vòm. Tháp bút được đặt hướng lên trời, hơi nghiêng về một bên, trên thân tháp in nổi ba chữ Hán “Tả thanh thiên” (viết lên trời xanh). Những điều đó khiến tôi cảm thấy như có một vị văn sĩ nào đang nghiêng bút viết lên bầu trời những ý thơ tràn đầy cảm xúc. Qua một lớp cổng nữa là tới cầu Thê Húc. Tôi đang lướt trên từng nhịp cầu đỏ rực. Mặt rời thật khéo léo khi ban những tia sáng đỏ lửa của mình đậu xuống tạo thành một cây cầu dáng cong cong. Đó Cũng chính là ý nghĩa của từ “Thê Húc”. Chiếc cầu đỏ mang ánh sáng mặt trời ấm áp trên màu nước xanh rì, mát rượi của hồ Hoàn Kiếm; hai cảnh như đối lập nhau nhưng lại tương tác, hỗ trợ nhau, tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa hồ Hoàn Kiếm. Bước qua cầu, tôi đã đứng trước cổng chính của ngôi đền. Vậy là tôi sắp được bước vào nơi thờ cúng uy nghi. Đền được xây theo kiểu kiến trúc cổ ba lớp. Lớp đầu tiên là Bái đường, lớp thứ hai thờ Văn Xương đế quân – vị thần trông coi văn chương, khoa cử, lớp thứ ba thờ Trần Hưng Đạo và Quan, Công – những vị tướng võ có đức có tài. Những bức tượng các vị thần được đặt trong đền đều được tạc rất công phu, tỉ mỉ và đều toát lên thần sắc riêng của mỗi vị. Ra trước Bái đường, tôi đang đứng ở trấn Ba Đình (đình chắn sóng). Từ trấn Ba Đình tôi có thể nhìn thấy ngọn Tháp Rùa và tận hưởng những làn gió mát rượi của hồ.
Đền Ngọc Sơn đã có lịch sử khá lâu đời. Theo lời một ông đồ già kể lại, tôi được biết: Trước khi có đền trên đảo Ngọc, cuối đời Lê có Điếu Đài là nơi vua thường ngồi câu cá, Sau đó trên đảo có lập đền thờ Quan đế (Quan Vân Trường – một võ tướng nổi tiếng thời Tam quốc bên Trung Quốc). Ông được thờ như một vị thần trấn áp cái ác. Vào năm 1802-1813, đầu thời nhà Nguyễn, một người mộ đạo Phật đã xây chùa Ngọc Sơn trên đảo Ngọc để thờ Phật, nhưng Quan đế vẫn được thờ. Trong hai năm 1041-1842, trí thức Thăng Long lập hội Hướng Thiện để chấn hưng văn hóa Thăng Long. Tiến sĩ Vũ Tông Phan là Hội trưởng, Phó Hội trưởng là Phó bảng Nguyễn Văn Siêu. Họ đã xin cải tạo chùa Ngọc Sơn thành đền Ngọc Sơn để thờ Văn Xương đế quân. Trong giai đoạn từ năm 1859 và 1862, đền Ngọc Sơn đã có những thay đổi đáng kể. Vũ Tông Phan mất, Nguyễn Văn Siêu lên làm Hội trưởng và ông đã tiến hành cuộc đại trùng tu đền. Tôi thật bất ngờ khị biết cách đây hơn 100 năm đền Ngọc Sơn đã có diện mạo như ngày nay: Nguyễn Văn Siêu cho xây thêm Tháp Bút, Đài Nghiên, cầu Thê Húc và trấn Ba Đình. Việc thờ thần trong đền cũng được coi trọng đầy đủ: trước đấy thờ thần quan văn là Văn Xương, thần quan, võ là Quan Vũ Đế. Đến năm 1891, thờ thêm Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) – vị anh hùng dân tộc được dân ta tôn lên bậc thánh bất tử.
Đầu tiên, các trí thức Thăng Long trong hội Hướng Thiện đưa hoạt động của ngôi đền vào việc giáo hóa còn người, nhân việc thắp hương mà giảng đạo lí, in sách nâng cao dân trí cho mọi người, hướng việc học hành thi cử của sĩ tử vào chấn hưng văn hóa, xây dựng đất nước. Điều đó thể hiện ở ba cặp câu đối khắc ở cổng chính vào đền, ý nói: từ khẳng định gốc của văn chương (nội dung giáo dục) là hướng thiện, qua đó vạch rõ con đường chân chính của kẻ sĩ là bọc hành, tu dưỡng, đến nghĩa vụ đóng góp cho đời của kẻ sĩ có thiện tâm và chí lớn.
Khi nghe ông đồ nói hết tôi càng tự hào về ngôi đền Ngọc Sơn. Đạo lí, đức sống và chí lớn của con người chính là giá trị bất tử của ngôi đền, mà con cháu muôn đời đến dâng hương tưởng niệm đều được truyền ngấm vào trong mình dòng máu tổ tiên.
Buổi tham quan đã kết thúc, tôi đã hiểu thêm về đền Ngọc Sơn và thán phục không chỉ cảnh quan, kiến trúc tinh xảo của ngôi đền mà hơn hết là giá trị văn hoá sâu sắc của nó. Tôi mong sao những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử của Hà Nội đều không chỉ tô đẹp cảnh quan Thủ đô mà còn là nơi khiến cho mọi người đến du ngoạn, tưởng niệm đều hướng theo cái thiện, theo đạo lí chân chính của cuộc sống, như tôi đã cảm nhận thấy ở đền Ngọc Sơn.
Xin chào mừng các bạn đã đến với di tích lịch sử văn hóa đền Ngọc Sơn. Trước tiên tôi xin tự giới thiệu tôi là ….. – thuyết minh viên tại điểm di tích đền Ngọc Sơn. Thay mặt cho Ban quản lý di tích xin gửi tới các bạn lời chúc sức khỏe, chúc các bạn có một buổi tham quan, học tập bổ ích, lý thú và thu lượm được nhiều kiến thức thực tế phục vụ cho công việc học tập của các bạn. Hôm nay tôi rất vinh dự được cùng với các bạn đến thăm quan điểm di tích nổi tiếng, hấp dẫn của thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, đó là Hồ Hoàn Kiếm – Đền Ngọc Sơn. Để buổi tham quan được vui vẻ, an toàn và hiệu quả tôi xin lưu ý các bạn đền là nơi linh thiêng các bạn không nên nói to, nô đùa khi tham quan trong đền, trang phục lịch sự, không đội mũ, đeo kính râm và không thắp hương khi vào trong đền. Bây giờ, xin mời các bạn bắt đầu buổi tham quan.
Các bạn sinh viên thân mến, đúng là thiên nhiên đã ưu ái dành cho Thăng Long – Hà Nội cảnh đẹp tuyệt vời. Nơi chúng ta đang đứng đây chính là thắng cảnh Hồ Hoàn Kiếm – Đền Ngọc Sơn- một trong số những cảnh đẹp nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Cho phép tôi mở đầu buổi tham quan ngày hôm nay bằng những thông tin thú vị về Hồ Hoàn Kiếm. Hồ Hoàn Kiếm xa xưa vốn là một đoạn dòng cũ của sông Hồng. Nguyên có một thời Sông Hồng chảy lùi về phía Tây, sau đổi dòng mới dịch dần sang phía đông như bây giờ. Trước kia hồ có tên là hồ Lục Thuỷ vì nước hồ xanh ngắt quanh năm. Bên cạnh đó hồ còn có một số tên khác như hồ Tả Vọng, hồ Hữu Vọng và hồ Thuỷ Quân. Sở dĩ hồ có tên là hồ Thuỷ Quân là vì trước kia vào đời Trần nghĩa quân thường ra tập trận. Còn bây giờ hồ mang tên là hồ Hoàn Kiếm vì nó gắn với truyền thuyết của vua Lê trả gươm thần.
Chuyện cũ kể rằng:
Giặc Minh chiếm nước ta, đặt ách đô hộ, chúng tàn ác gây nhiều bạo ngược, lòng dân sôi sục căm thù. Lúc bây giờ ở đất Thanh Hoá có một người đánh cá tên là Thận. Một đêm anh ta kéo lưới thấy nặng chắc mẩm được mẻ cá to, ai ngờ chỉ có một thanh sắt. Thận bèn vứt xuống nước rồi đi thả lưới ở một đoạn sông khác. Lần thứ hai lưới kéo cũng nặng tay và anh lại thấy thanh sắt nọ. Thận quẳng xuống sông. Đến lần thứ ba lại vẫn nó chui vào lưới. Thân lấy làm lạ bật mồi lửa soi, thì ra một lưỡi gươm. Sau Thận nhập vào nghĩa quân Lê Lợi. Một lần chủ tướng đến thăm nơi Thận ở, thấy trong góc tối có ánh sáng loé lên, cầm lên thì thấy lưỡi gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Lần khác Lê Lợi qua một khu rừng thấy trên ngọn cây có ánh sáng lạ, ông trèo lên tìm được một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Thận, ông cầm chiếc chuôi về lắp vào kiếm thấy vừa như in. Từ đó thành gươm thần theo Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn tung hoành trong suốt 10 năm. Một năm sau khi dẹp xong quân xâm lược, vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng dạo chơi trên hồ Lục Thuỷ. Thuyền ra tới giữa hồ, bỗng có một con rùa vàng rất lớn nổi lên làn nước xanh. Vua đang đứng ở mũi thuyền thấy thanh kiếm đeo bên mình tự nhiên động đậy. Đến trước mặt nhà vua, Rùa vàng đứng thẳng trên mặt nước và nói. Bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân. Nhà vua hiểu ra, vội rút kiếm ra khỏi vỏ. Thanh gươm thần vụt rời tay vua bay về phía Rùa vàng. Rùa há miệng đấp lấy thanh gươm rồi lặn xuống hồ. Vua nghĩ rằng trước đây thần đã giúp mang gươm cho mình đánh thắng giặc, nay đất nước đã thanh bình, thần lấy lại gươm, nên vua đặt tên cho hồ là hồ Hoàn Kiếm.
Xin mời các bạn nhìn ra xa giữa lòng hồ đó là một ngọn tháp mà chúng ta quen gọi là tháp Rùa. Thực ra, tháp này không có ý nghĩa lịch sử, ở đó, trước kia là một đảo đất tự nhiên, vào ngày hè Rùa thường lên đây phơi nắng và đẻ trứng nên có tên là tháp rùa. Vào thế kỷ 15 có Đài câu cá của Vua Lê. Năm 1884, khi thực dân Pháp cai trị đất nước ta, một tay sai của Pháp là Bá Kim, lấy cớ xin xây tháp lên trên để làm “gồ đằng sau” cho ngôi chùa Báo Ân ở phía bờ sông. Hôm khởi công, hắn lén lút đưa hài cốt bố mẹ ra táng trộm ở đó, vì hắn rất mê thuật phong thuỷ. Đây là một vị trí tốt, nếu được như vậy thì hắn và con cháu hắn sẽ được giàu có, sung sướng. Nhưng nhân dân hay biết đã bí mật đào hai nắm xương ấy và quẳng xuống hồ. Bá Kim cay đắng vẫn phải tiếp tục xây tháp cho xong. Chính vì tháp Rùa được xây dựng trong hoản cảnh như vậy nên sau cách mạng tháng 8 – 1945 nhân dân định phá bỏ nhưng vì chính trên ngọn tháp này cờ cách mạng đã được cắm ở đó nên được giữ lại. Trải qua năm tháng nó trở thành hình ảnh quen thuộc, rất đỗi thân thương của người dân Hà Nội.
Trước khi chúng ta bước vào phần chính của buổi tham quan hôm nay, tôi xin giới thiệu với các bạn về sự hình thành của đến Ngọc Sơn. Xưa kia trong hồ nổi lên hai đảo đất, hòn to là đảo Ngọc, hòn nhò là đảo Rùa. Đảo Ngọc là nơi chúa Trịnh Giang cho xây cung Khánh Thuỵ đời Vĩnh Hựu (1735 – 1739) làm nơi yến ẩm, vui chơi ngày hè. Để làm đẹp thêm quang cảnh chúa cho đắp hai gò núi Đào Tài, Ngọc Bội ở bên bờ phía đông.
Họ Trịnh suy vong, Lê Chiêu Thống được Nguyễn Huệ trao trả quyền hành, năm 1786 đã hèn mạt trả thù họ Trịnh bằng cách đốt trụi Phủ Chúa và cung Khánh Thụy. Đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa dựng trên nền cung điện cũ ở đảo Ngọc nên gọi là Ngọc Sơn Tự. Trước chùa có một lầu chuông khá cao. Năm 1843, hội hướng thiện quản lý đã chuyển chùa thờ Phật thành ra đền thờ Tam Thánh và cả anh hùng cứu nước Trần Hưng Đạo. Sau đó lầu chuông bị phá bỏ. Năm 1864, nhà văn nổi tiếng của Hà Nội là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại toàn cảnh. Trong đền, ông đề cao việc thờ thần Văn Xương, vị sao chủ trông nom khoa cử theo tín ngưỡng Đạo Lão. Ông cho xây kè đá ở chân đảo, dựng đình Trần Ba ngày trước đền và trông thẳng ra đảo Rùa ở phía nam hồ.
Đền Ngọc Sơn hiện nay vẫn giữ nguyên quy mô kiến trúc từ thời Nguyễn Văn Siêu cho tu sửa lại. Đi qua Nghi Môn, lớp kiến trúc đầu tiên bên trái có tháp Bút, bên cạnh miếu sơn thần, qua cổng thứ hai một lối đi nhỏ dẫn đến cổng Đài Nghiên để vào đến Cầu Thê Húc, qua cầu Thê Húc dẫn vào lầu Đắc Nguyệt là đã vào đến ngôi đền chính. Trước đền là trấn Ba Đình và đền Ngọc Sơn với ba lớp kiến trúc Bái Đường, Trung Đường và Hậu Cung là nơi thờ Tam Thánh và Trần Hưng Đạo. Bây giờ, xin mời các bạn cùng bắt đầu vào thăm quan đền Ngọc Sơn.
Phía trước mặt đoàn chúng ta đây là cổng Nghi Môn, được dựng với bốn cây cột xây bằng gạch và hai mảng tường lửng. Trên đỉnh hai cột giữa được đắp nổi bốn con phượng chụm đuôi, xòe cánh. Hai cột bên là hình hai con nghê trầu vào. Những mô típ trang trí quen thuộc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Ở mỗi cột đều có đắp những cặp câu đối chữ Hán vừa làm tăng vẻ cổ kính của di tích vừa giúp khách tham quan hiểu thêm về lịch sử và cảnh quan cũng như cảm thụ chất thơ, chất văn học và cả ý nghĩa triết học ở đây. Ở hai cột chính câu đối chính diện bằng chữ Hán là:
“Lâm thủy đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang”
Dịch nghĩa là:
“Đến cõi nước, trèo lên non, một lối dẫn vào cảnh đẹp
Tìm nguồn cội, hỏi chuyện xưa, trong chốn này biết mấy phong quang”
Đôi câu hối như lời chào mời du khách, hứa hẹn nhiều thú vị khi vào thăm di tích
Trên hai mảng tường ở hai bên có hai chữ Phúc, Lộc cỡ lớn, tô son như lời chúc mọi sự tốt lành. Bên phải của các bạn là chữ Phúc có nghĩa là hạnh phúc, là niềm vui. Bên trái là chữ Lộc là thình vượng, là hưởng thụ. Bên trên chữ Phúc còn có hai ba chữ “Ngọc ư tư” nghĩa là “Ngọc ở đây” đây là chữ được lấy từ sách Luận Ngữ “hữu mỹ ngọc ư tư” có nghĩa là có ngọc đẹp ở đây. Bên trên chữ Lộc có ba chữ “sơn ngưỡng chỉ” được lấy từ sách Kinh Thi: Cao sơn ngưỡng chỉ = ngửa trông núi cao. Ngọc là nói về phẩm chất cao đẹp của người quân tử, có đạo và núi cao là chỉ bậc hiền tài. Bây giời xin mời các bạn qua cổng Nghi Môn để chúng ta vào với không gian của lớp kiến trúc đầu tiên.
Xin giới thiệu với các bạn công trình kiến trúc độc đáo phía trước mặt đoàn chúng ta đây chính là Tháp Bút. Tháp được Nguyễn Văn Siêu cho dựng vào năm 1864 trên núi Độc Tôn. Núi này có đường kính 12m, cao 4m. Tháp vuông bằng đá, có năm tầng, cạnh đáy tầng một là 2m, lên đến tầng năm là 1,2m. Cả năm tầng cao 9m. Tháp Bút, theo ý tưởng của người thiết kế là “tượng trưng cho nền văn vật”, bởi theo như bài Bút Tháp chí do Nguyễn Văn Siêu soạn, khắc trên thân tháp ở tầng thứ ba mặt nhìn về hướng tây ghi lại thì có đoạn: “Ấy núi là biểu tượng của chiến công mà tháp là biểu tượng của văn vật. Tháp nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà truyền mãi…” Các bạn có thấy trên thân tháp còn khắc ba chữ Hán lớn đó là “Tả thanh thiên” có nghĩa là “viết lên trời xanh”, có rất nhiều cách giải thích về ý nghĩa của ba chữ này: nào là giãi bày tấm lòng với trời xanh, nào là cảm hứng đầy tráng khí, tâm hồn mở rộng bao la, đặt câu hỏi với trời xanh… Nhưng cách hiểu được nhiều người chấp nhận nhất là viết lên trời xanh. Ở đây, Nguyễn Văn Siêu ý muốn nói, mượn ngọn bút này, lấy ngấn nước hồ Gươm làm mực và trời xanh làm giấy mới đủ để viết hết nỗi lòng của các chí sĩ Bắc Hà đương thời.
Mời các bạn cùng hướng tầm mắt xuống bên cạnh chân tháp Bút, đó là miếu Sơn thần tức miếu thờ thần núi. Chắc hẳn các bạn sẽ thắc mắc, tại sao núi thì nhỏ mà cũng có miếu để thờ thần núi đúng không ạ? Vâng, theo thuật phong thủy cổ: cao nhất thốn giả vi sơn tức là chỉ cần cao một tấc thì cũng là núi rồi. Núi dù to hay nhỏ thì phải có một vị thần cai quản. Miếu dù nhỏ nhưng hai bên cửa cũng có cặp câu đối rất hay:
“Cố điện hồ sơn lưu vượng khí
Tân từ hương hỏa tiếp dư linh”
Nghĩa là:
“Điền cũ núi hồ lưu vượng khí
Đền nay hương lửa tiếp dư linh”
Phía trước đền đây còn có một tấm bia nhỏ trên có khắc năm chữ: “Thái Sơn thạch cảm đương”. Có người tưởng rằng năm chữ này ý nói là đá núi này dám sánh với đá núi Thái. Kỳ thực đây là một cụm từ, một thành ngữ Trung Hoa chỉ có ý nghĩa là hòn đá trấn yểm. Vì ở Trung Quốc xưa có tục dựng một hòn đá trước cửa chính để trấn yểm tà ma. Mà núi Thái Sơn là núi nổi tiếng nhất trong năm ngọn núi nổi tiếng của Trung Quốc, lại là núi có vị thần toàn năng, các triều đại vua chúa phong kiến xưa phải tới đây cúng tế nên đá của núi này cũng rất linh thiêng. Dựng hòn đá núi Thái là tà ma chạy dài.
Mời các bạn nhìn theo hướng tay tôi chỉ, hai bên của cổng thứ hai được đắp nổi đôi cáicâu đối đầy ý nghĩa khuyến cáo:
“Nhân gian văn tự vô quyền toàn bằng âm đức
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn đơn khán đan điền”
Vế thứ nhất có nghĩa là: Ở chốn nhân gian này, cái quyền chân chính chính là sự tu dưỡng đạo đức
Vế thứ hai có nghĩa là: Trên trời kia, ông thánh coi việc khảo thí nhân gian (không tính đến lễ vật) mà chỉ soi xét chính lòng dạ con người
Các bạn có thể thấy, ở hai bên trụ xây hai cửa nách giả kiểu hai tầng tám mái cong. Mặt trước của hai cửa này đắp nổi một bên là rồng đang cuộn khúc đón đàn cá đang thi nhau vượt sóng bên trên có hai chữ Long Môn và một bên là một chú hổ trắng như đang tiến ra với người đời bên trên có hai chữ Hổ Bảng. Đấy là diễn ý các điển tích cổ. Long Môn, theo văn hóa Phương Đông là chỉ sự thành công trong thi cử xuất phát từ tích cá chép vượt Vũ Môn. Còn chữ Hổ Bảng nghỉa đen là bảng hổ, nghĩa bong là bảng ghi tên những người đỗ tiến sĩ. Điển tích này có từ đời Đường: có một khoa thi tiến sĩ có nhiều người trúng tuyển sau trở thành những danh nhân như Hàn Dũ, Âu Dương Thiềm…. khác nào những con rồng, con hổ trên văn đàn. Hai bên Long Môn, Hổ Bảng có đôi câu đối vừa giải thích ý nghĩa trên vừa xưng tụng tòa Tháp Bút trước mặt:
“Hổ Bảng Long Môn thiện nhân duyên tháp
Nghiên Đài Bút Tháp đại khối văn chương”
Có nghĩa là:
“Bảng Hổ, Cửa Rồng là để biểu dương nhân quả của người làm điều tốt
Đài Nghiên, Tháp Bút là để mô tả văn nghiệp của đất trời vĩ đại”
Như vậy, đã có Tháp Bút, phải có Đài Nghiên, mời các bạn chúng ta cùng vào tham quan cổng thứ 3, hay còn gọi là cổng Đài Nghiên.
Xin giới thiệu với các bạn phiến đá đặt trên nóc cổng kia chính là Đài Nghiên. Đài Nghiên cũng được Nguyễn Văn Siêu cho làm từ lần trùng tu năm 1864. Nghiên được tạc từ cả một tảng đá xanh, hình quả đào cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm lòng chảo, bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi chừng 2m. Đài Nghiên được ba con cóc đội như ba cái chân kiềng. Đặc biệt phía dưới Đài Nghiên, trong bức cuốn thư kia có khắc một bài minh của Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có 64 chữ Hán nhưng ý tứ thật hàm súc. Hiện nay có nhiều bản dịch bài minh này, tôi xin đọc cho các bạn nghe bài dịch nghĩa của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc: “Xưa kía lấy gốc đất làm nghiên, chú giải Đạo Đức Kinh, nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng. Không vuông, không tròn, dùng vào mọi việc thật kỳ diệu. Không cao, không thấp ngôi ở chính giữa. Cúi soi hồ Hoàn Kiếm, ngửa trông ngọn Bút đá ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi. Ngậm nguyên khí mà mài hư không”. Có thể đây là một quan niệm có tính chất bản thể luận về cái nghiên mực và cũng là về tư tưởng của người đương thời. Qua đây, có thể thấy được văn chương của Thần Siêu quả là hàm súc đầy ý nghĩa. Cột cổng Đài Nghiên có đôi câu đối tả cảnh quan chung:
“Bát đảo, mặc ngân hồ thuỷ mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao”
Nghĩa là:
“Tràn quanh đảo, ngấn mực đầy hồ
Trên cổng Đài Nghiên còn có hình tượng ba con dơi quay đầu xuống đất. Theo tiếng Hán thì từ “dơi” khi đọc giống như từ phúc. Vậy là ở đền Ngọc Sơn có cả ba yếu tố – Phúc, Lộc, Thọ.
Bây giờ mời các bạn qua một cây cầu với cái tên rất lạ – cầu Thê Húc để vào đền Ngọc Sơn. Cũng như Hồ Gươm, Cầu Thê Húc đã làm cho ngôi đền hấp dẫn hơn đối với khách du lịch. Mời Các bạn nhìn sang hai bên cầu có ghi chữ “Thê Húc Kiều” Thê là đậu, Húc là ánh sang ban mai, có nghĩa là cầu giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Tuy nhiên, ban đầu cầu chỉ là những tấm ván đặt dọc theo mặt phẳng trên các hàng cột chon trong nước hồ, chưa có tay vịn. Có lẽ về sau, qua những lần tu bổ, người ta mới làm đẹp cho cầu, làm cầu cong lên như hình cầu vồng lại sơn đỏ cho hợp với tên gọi cũng như kết hợp với màu nước trong xanh của hồ Gươm làm nên sự hài hòa âm dương theo như quan niệm trong Kinh Dịch. Ngoài ra, để giải thích màu đỏ của cây cầu, người dân vẫn thường gắn với một câu chuyện rất hay là: Trong những năm đất nước ta bị giặc Pháp đô hộ, một số tên quan Pháp không hiểu gì về nền văn hiến Việt Nam dám ngổ ngáo dùng đền Ngọc Sơn làm nơi ăn chơi hưởng lạc làm ô uế chốn linh thiêng của đền. Người dân quanh đó rất lấy làm phẫn uất. Một cậu học trò tên là Giang Văn Minh ở phố Hàng Bông đã dùng mưu, đang đêm đốt cháy cầu khiến cho bọn Pháp hoảng sợ. Từ đó chúng không dám kéo nhau đến nơi đầy và cũng từ đó cầu được sơn thành màu đỏ để nhắc cho mọi người nhớ tới hành động dũng cảm của cậu bé. Cũng chính màu đỏ của cầu kết hợp với màu xanh của nước đã tôn thêm vẻ đẹp của ngôi đền.
Tiếp theo xin mời các bạn sang phía bên kia cầu.
Trước mặt các bạn đây là Đắc Nguyệt Lâu có nghĩa là lầu được trăng. Lầu nhỏ xinh xắn có hai tầng, tầng hai có hai mái, có những cửa sổ hình tròn. Bởi hình tròn tượng trưng cho dương còn nước tượng trưng cho âm. Đây là sự kết hợp âm dương, chỉ sự tồn tại và phát triển. Hai bên cửa sổ tròn có đôi câu đối ý tứ lãng mạn:
“Bất yểm hồ thượng nguyệt
Uyển tại thủy trung ương”
Có nghĩa là: Trăng trên hồ ngắm bao nhiêu cũng không chán, cứ như dầm mình trong làn nước miên man.
Mời các bạn nhìn sang hai bên cổng có hai bức tranh được đắp nổi gắn bằng mảnh sứ vỡ, bên phải các bạn đây là bức Long Mã Hà Đồ, bên trái kia là bức Thần Quy Lạc Thư. Ở bức Long Mã Hà đồ có đắp nổi hình con ngựa, đầu rồng, trên lưng có đep cái bát quái. Đấy là điển tích về thời vua huyền thoại Phục Hy ở Trung Quốc được đặt vào thời điểm cách ngày nay trên năm ngàn năm. Thủa đó chưa có chữ viết. Phục Hy một hôm thấy trên sông Hoàng hà nổi lên con long mã (đầu rồng, mình ngựa) trên lưng có vằn có nét. Phục Hy liền dựa vào các vằn nét đó mà lập ra bảng vẽ có tám quẻ thẻ gọi là Bát quái toàn đồ. Đời sau gọi là Hà đồ tức là đồ Bát quái rút ra từ sự tích long mã trên sông Hà. Đó là những con số đếm đầu tiên, cũng là những chữ viết đầu tiên của người Trung Hoa. Sau Phục Hy hàng vài trăm năm có huyền thoại Đại Vũ. Ông này trong khi đi trị thủy ở sông Lạc thấy nổi lên một con rùa trên lưng có những chấm đen trắng đặc biệt theo trình tự. Ông dựa vào các chấm đó mà tạo ra Cửu Trù (chin khoảnh). Đời sau gọi là Lạc thư tức bản viết từ rùa thần sông Lạc. Từ Bát quái và Cửu trù, những phát minh quan trọng về số học, đồng thời áp dụng vào việc tính toán, mở rộng ra có thể giải thích nhiều hiện tượng trước mắt và suy đoán những việc sẽ xảy ra trong vũ trụ, nhân sinh trong tự nhiên, xã hội và liên quan tới con người.
Tiếp theo xin mời các bạn theo tôi, chúng ta sẽ vào bên trong để tham quan khu vực chính của đền. Thưa các bạn, trước mắt các bạn đây chính là Đình Trấn Ba, một kiến trúc thanh thoát và đậm chất thơ. Được thần Siêu cho dựng cùng với Đài Nghiên và Tháp Bút năm 1865-1866 theo quan niệm “thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát quái”. Theo đó hình thành lên kiến trúc hình vuông với 2 tầng 8 mái.
Trấn Ba Đình trước kia có một tấm bia gọi là Bài ký sửa lại miếu Văn Xương ( Trùng tu Văn Xương miếu bi ký ),hiện nay không tìm thấy bia này trong khu vực đền Ngọc Sơn nữa. Bản dập của bia hiện nay ở trong kho dữ liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm.
Theo đó, trấn Ba Đình được xây dựng với ngụ ý là đảm đương trào lưu văn hoá lớn hay còn có thể được hiểu theo một số ý kiến rằng Trấn Ba Đình như cột trụ chống lại văn hóa phức tạp giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
Nhưng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đình đã bị đạn pháo phá sập. Và cho đến năm 1951-1952, một số nhà hảo tâm đã đóng góp công của cho dựng lại ngôi đền như nguyên mẫu.
Theo đó những câu đối khắc vào những cây cột đá cũng được phục chế nguyên văn. Đôi câu đối này khắc trên hai trụ đá quay mặt vào đền:
Miếu mạo sơn dung tương ẩn ước
Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi
Nghĩa là:
Dáng miếu hình non cùng ẩn hiện
Bóng mây ánh nắng cứ dùng dằng
Đôi câu đối này khắc trên trụ ngoảnh ra hồ:
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
Nghĩa là:
Kiếm ngậm khí thiêng ngời tựa nước
Văn hoà trời đất thọ như non
Và bây giờ, xin mời các bạn quay lại với điểm tham quan chính của chúng ta ngày hôm nay, ẩn hiện dưới những tán cổ thụ um tùm, chính là khu trung tâm của quần thể di tích đền Ngọc Sơn, cả về mặt kiến trúc cũng như thờ phụng.
Đền có 3 nếp nhà chính: nếp ngoài nơi bái đường – nơi hành lễ trước khi vào đền, nếp giữa là nơi thờ Văn Xương, Quan Vũ và Lã Tổ, nếp sau là nơi thờ Trần Hưng Đạo. Các bạn thân mến! Không gian chúng ta đang đứng đây chính là nhà Đại Bái, chính giữa bái đường đặt một hương án lớn, đây là nơi hành lễ trước khi vào đền. Đặc biệt, hai bên hương án có đôi chim anh vũ tức chim vẹt. Vâng, chắc hẳn là các bạn đang rất thắc mắc tại sao trong khu nhà Đaị Bái lại thờ hai con chim vẹt phải không ạ? Tôi xin đc giải đáp, đó chính là con vẹt đã từng giúp nghĩa quân Lam sơn khi nghĩa quân bị bao vây trong rừng. Lúc ấy lương thực cạn kiệt, nghĩa quân chưa biết lấy gì ăn để thoát khỏi tềnh trạng đó vã bỗng dưng họ nhìn thấy vẹt ăn quả chín. Tướng quân bèn sai quân lính ăn thử và thấy không sao, sau đó họ lấy hạt đem gieo trồng. Nhờ vậy mà nghĩa quân Lam Sơn đã thoát nạn và đánh thắng kẻ thù. Chính vì thế mà hình tượng vẹt đc thờ trong đền. Theo quan niệm dân gian, thờ vẹt là cầu mong sự no đủ.Tiếp theo, xin mời các bạn theo tôi vào thăm khu trung đường.
Như các bạn có thể thấy phía trong cùng kia là tượng Văn Xương, ở giữa là Lã Tổ và ngoài cùng là Quan Vũ. Trước tiên tôi xin giới thiệu về Văn Xương Đế Quân hay còn gọi là Tử Đồng Quân, nguyên là vị thần ở Tử Đồng, Tử Xuyên đời Tần, họ Trương tên là Á Tử. Sau khi đạo thư “Thanh Hà Nội Truyền” – một cuốn sách viết về đạo giáo ở Trung Quốc đời Tống tuyên xưng Trương anh Tử thành tiên, thăng thiên đc Ngọc hoàng giao cho quản lí phủ Văn Xương, cai quản công danh, lộc vị dưới trần gian. Tương truyền vị thần này có thể cho các vị nhân sĩ khoa cử đc thuận lợi. Do vậy, các văn nhân, quan lại, nho sĩ đều tôn thờ. Trong những năm Chân Tông Hàm Bình thời nhà Tống (998 – 1003) được phong là Anh Hiển Vũ Liệt vương. Năm Hồng trị nguyên niên nhà Minh (1448) Trương Cửu Công Tần yêu cầu các học cung trong thiên hạ phải lập đền thờ Văn Xương. Và đền thờ Văn Xương có ở khắp nơi. Đến đời Lê Thánh Tông, aứ thần Việt Nam là Nguyễn Công Định đi sứ ở Trung Quốc mới đem tượng thần về thờ chung ở Chân Vũ Quán với Huyền Thiên Chấn Vũ. Đến năm 1843, hội hướng thiện mới rước thần về thờ ở đền Ngọc Sơn, hai bên tượng Văn Xương có thị nữ đứng hầu.
Bây giờ tôi xin được giới thiệu đôi chút về Lã Tổ. Lã Tổ tức Đồng Tân, cũng là thần của đạo giáo. Theo truyền thuyết ông là người đất kinh triệu đời Đường. Do hai lần đi thi nhưng không đỗ nên bỏ lên núi Chung Sơn tu luyện kiếm pháp, học thần thư và luyện đan chữa bệnh. Ông được coi là một trong 8 vị tiên được đời sau thờ cúng. Hai bên tượng Lã Tổ có tượng Thiên Khôi, Thiên Việt. Thiên Việt có hình dáng một ông lão đạo mạo. Thiên Khôi mang hình dáng một tiểu quỷ mặt xanh, có sừng, mình trần, quần ngắn, cổ tay, cổ chân đeo vòng, thắt lưng đỏ, tay trái cầm sách, tay phải cầm bút dơ ngang đầu, một chân đứng trên lưng con giao long, một chân giơ lên.
Và bây giờ xin mời các bạn vào thăm gian cuối của ngôi đền, đó là hậu cung. Gian này hẹp lòng nhưng cao hơn cả là nơi thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc đã ba lần đại phá quân nguyên sang xâm lược nước ta ở thế kỉ 13. Phía bên phải của tượng Trần Hưng Đạo là tượng Trần Liễu, cha của ông, phía trái tượng Trần Hưng Đại là tượng thần linh Thổ Địa. Việc thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc tuấn ở hậu cung – nơi thiêng liêng nhất – chứng tỏ tính trội của tín ngưỡng bản địa. Chắc hẳn các bạn đều biết Trần Quốc Tuấn là nhân vật lịch sử đích thực, từng là Tiết chế (tổng chỉ huy quân đội) đập tan các lần giặc Nguyên xâm lược ta hồi cuối thế kỷ XIII.
Trong tâm linh người Việt Nam, ngoài tư cách là vị anh hung dân tộc với nhiều chiến công mà nổi bật là trận Bạch Đằng vĩ đại lưu danh thiên cổ, người còn là đức Thánh Trần đầy tài trí uy lực diệt được mọi ma quỷ như khi sống người từng diệt con tà Phạm Nhan, một loại quỷ chuyên bức hại phụ nữ. Thêm vào đó với tước phong rất trọng thị là Thượng phụ thượng trật thượng tướng quân, bình Bắc đại nguyên soái Hưng Đạo đại vương. Người càng trở thành đối tượng được nhân dân nhiều đời nối tiếp thần thánh hóa và phụng thờ. Trong cấm điện có những hoành phi, câu đối ca ngợi người như: Hạp khí lăng tiêu (Hạo khí ngất trời) hay Thiên cổ vĩ nhân (vĩ nhân của muôn đời).
Vâng thưa các bạn như vậy sau 2 giờ thăm quan tôi và các bạn chúng ta đã cùng nhau thăm quan đền Ngọc Sơn một trong những điểm du lịch nổi tiếng củathủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến tự hào của chúng ta, hy vọng với những thông tin tôi vừa giới thiệu sẽ giúp các bạn tăng thêm sự hiểu biết của minh về văn hóa lịch sử con người Niệt Nam. Các bạn còn có những câu hỏi nào thăc mắc không ạ? Tôi sẵn lòng trả lời các câu hỏi của các bạn trong tầm hiểu biết của mình. Nếu như khong có câu hỏi thắc mắc nao nữa chúng ta sẽ kết thúc buổi thăm quan tại đây. Trước khi chia thay mặt cho ban quản lí khu di tích, tôi xin chúc các bạn luôn có sức khỏe, hạnh phúc, thành cồng trong học tập. Hy vọng chúng ta sẽ được gặp nhau trong các chương trình du lịch khác. Xin chào tạm biệt và hẹn gặp lại.
Bài viết cung cấp cho người đọc:
+ Lịch sử hình thành của hồ Hoàn Kiếm (ban đầu là một nhánh sông Hồng)
+ Hồ với nhiều tên gọi khác nhau trải qua chiều dài lịch sử.
+ Lịch sử và kiến trúc của đền Ngọc Sơn
+ Bên cạnh đó là những danh lam thắng cảnh như Đài Nghiên, Tháp Rùa, Tháp Bút.
Là một trong những hoạt động định kì hằng năm, ngày .. tháng .. năm ... vừa qua, Ban giám hiệu trường THCS Cầu Giấy đã tổ chức thành công chuyến tham quan ngoại khóa tại Hồ Núi Cốc – Thái Nguyên.
6h30 phút, đoàn xe bắt đầu khởi hành. Sau gần 3 tiếng đồng hồ ngược theo quốc lộ 3, những chiếc xe đã lần lượt có mặt tại điểm tham quan. Tạm biệt những âm thanh náo nhiệt và những hình ảnh tấp nập của Hà Thành, đến Hồ Núi Cốc, thầy và trò Cầu Giấy được hòa mình vào bầu không gian yên bình, trong lành và dịu mát của thiên nhiên giữa tiết trời cuối xuân.
Chuyến đi được tổ chức trọn vẹn trong một ngày. Buổi sáng, các hoạt động vui chơi được tổ chức theo đơn vị lớp. Theo bước chân nhiệt tình của các hướng dẫn viên du lịch, học sinh các lớp được đi thăm nhiều địa điểm và có nhiều trải nghiệm thú vị. Các em được đi thăm Huyền Thoại Cung, được lắng mình trong những giây phút xúc động khi nghe kể về chuyện tình thủy chung của nàng Công, chàng Cốc; được tham gia những trò chơi tại khu vui chơi giải trí; được hòa mình vào thế giới cổ xưa trong Công Viên Cổ Tích; được lí lắc đùa nghịch cùng những chú khỉ trong vườn thú hay được thử thách bản lĩnh của mình khi thăm Động Âm Phủ với những hình ảnh đáng sợ nhưng mang tính giáo dục sâu sắc… Thấm mệt với những khám phá buổi sáng, thầy cô và các em học sinh có khoảng 2 tiếng ăn trưa và nghỉ ngơi. Đến buổi chiều, học sinh toàn trường tập trung tại sân khách sạn để tham gia các hoạt động chung. Với sự chuẩn bị chu đáo, ban tổ chức đã thực sự tạo được một không gian vui chơi hấp dẫn với màn múa lân đặc sắc cùng các trò chơi vô cùng ngộ nghĩnh như thi thiết kế kiểu tóc cho các người mẫu nam, trò đập bóng… Lực hút của những hoạt động này được thể hiện qua những tràng cười giòn giã và sự tham gia nhiệt tình của tất cả các em học sinh.
Kết thúc sân chơi chung cũng là lúc cả thầy và trò Cầu Giấy phải tạm biệt Hồ Núi Cốc để ra về mang theo những dấu ấn sâu đậm và chút luyến lưu về cảnh vật nơi đây.
Chuyến dã ngoại lần này một lần nữa mang đến cho học sinh Cầu Giấy những trải nghiệm thực tế thú vị, có dịp hòa mình với thiên nhiên, được tìm hiểu về những trang huyền thoại từ xa xưa… nhưng điều đặc biệt hơn cả là qua chuyến đi này, một lần nữa học sinh toàn trường lại có dịp được gặp gỡ, giao lưu để hiểu và gắn kết với nhau hơn.
Là một trong những hoạt động định kì hằng năm, ngày ... tháng ... năm ... vừa qua, Ban giám hiệu trường THCS Cầu Giấy đã tổ chức thành công chuyến tham quan ngoại khóa tại Hồ Núi Cốc – Thái Nguyên.
6h30 phút, đoàn xe bắt đầu khởi hành. Sau gần 3 tiếng đồng hồ ngược theo quốc lộ 3, những chiếc xe đã lần lượt có mặt tại điểm tham quan. Tạm biệt những âm thanh náo nhiệt và những hình ảnh tấp nập của Hà Thành, đến Hồ Núi Cốc, thầy và trò Cầu Giấy được hòa mình vào bầu không gian yên bình, trong lành và dịu mát của thiên nhiên giữa tiết trời cuối xuân.
Chuyến đi được tổ chức trọn vẹn trong một ngày. Buổi sáng, các hoạt động vui chơi được tổ chức theo đơn vị lớp. Theo bước chân nhiệt tình của các hướng dẫn viên du lịch, học sinh các lớp được đi thăm nhiều địa điểm và có nhiều trải nghiệm thú vị. Các em được đi thăm Huyền Thoại Cung, được lắng mình trong những giây phút xúc động khi nghe kể về chuyện tình thủy chung của nàng Công, chàng Cốc; được tham gia những trò chơi tại khu vui chơi giải trí; được hòa mình vào thế giới cổ xưa trong Công Viên Cổ Tích; được lí lắc đùa nghịch cùng những chú khỉ trong vườn thú hay được thử thách bản lĩnh của mình khi thăm Động Âm Phủ với những hình ảnh đáng sợ nhưng mang tính giáo dục sâu sắc… Thấm mệt với những khám phá buổi sáng, thầy cô và các em học sinh có khoảng 2 tiếng ăn trưa và nghỉ ngơi. Đến buổi chiều, học sinh toàn trường tập trung tại sân khách sạn để tham gia các hoạt động chung. Với sự chuẩn bị chu đáo, ban tổ chức đã thực sự tạo được một không gian vui chơi hấp dẫn với màn múa lân đặc sắc cùng các trò chơi vô cùng ngộ nghĩnh như thi thiết kế kiểu tóc cho các người mẫu nam, trò đập bóng… Lực hút của những hoạt động này được thể hiện qua những tràng cười giòn giã và sự tham gia nhiệt tình của tất cả các em học sinh.
Kết thúc sân chơi chung cũng là lúc cả thầy và trò Cầu Giấy phải tạm biệt Hồ Núi Cốc để ra về mang theo những dấu ấn sâu đậm và chút luyến lưu về cảnh vật nơi đây.
Chuyến dã ngoại lần này một lần nữa mang đến cho học sinh Cầu Giấy những trải nghiệm thực tế thú vị, có dịp hòa mình với thiên nhiên, được tìm hiểu về những trang huyền thoại từ xa xưa… nhưng điều đặc biệt hơn cả là qua chuyến đi này, một lần nữa học sinh toàn trường lại có dịp được gặp gỡ, giao lưu để hiểu và gắn kết với nhau hơn.
Mk không hiểu đề bài, bn viết rõ đc không?
Hồ Lắk nằm bên thị trấn Liên Sơn (hay Lạc Thiện) thuộc huyện Lắk, cạnh tuyến đường giao thông giữa Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về phía nam theo quốc lộ 27. Qua đèo Lạc Thiện khoảng 10 km trước khi vào thị trấn Lạc Thiện sẽ nhìn thấy hồ nằm bên tay phải. Còn không gian của khu rừng lịch sử, văn hóa, môi trường hồ Lắk còn bao trùm các xã Bông Krang, Yang Tao, Đắk Liêng. Đây là hồ tự nhiên có độ sâu lớn nhất còn hơn cả Biển Hồ (tỉnh Gia Lai). Dân tộc bản địa ở đây còn có cả một huyền thoại nói hồ sâu không đáy hoặc thông qua tận Biển Hồ. Hồ rộng trên 5 km²[1], được thông với con sông Krông Ana. Mặt hồ luôn xanh thắm, xung quanh hồ được bao bọc bởi những dãy núi cao nên mặt nước hồ luôn phẳng lặng và có các cánh rừng nguyên sinh rộng lớn với hệ động thực vật phong phú. Theo truyền thuyết hồ lắk được tạo ra bởi anh hùng lắk liêng người dân tộc M'Nông.
Bên Hồ Lắk có buôn Jun, buôn M'Liêng (buôn cổ nhất và còn nhiều hoang sơ), buôn Lê, những buôn làng tiêu biểu của dân tộc M'Nông, các buôn này được tổ chức thành một điểm du lịch quan trọng ở Đăk Lăk như những buôn bảo tồn, giới thiệu văn hóa dân tộc bản địa Tây nguyên. Ở đây còn lưu giữ được rất nhiều những ngôi nhà dài truyền thống với mái lợp cỏ tranh vách thưng liếp nứa và một đàn voi hơn 20 con. Du khách đến đây không chỉ tham quan hồ Lắk mà còn thưởng thức những nét văn hóa Tây Nguyên như điệu múa lửa, múa ngày mùa, diễn xướng cồng chiêng, tơ rưng, k'lông pút, đàn đá,cưỡi voi hoặc dùng thuyền độc mộc đi dạo trên hồ hoặc vượt qua hồ. Ngoài những hoạt động bên hồ Lăk, du khách có thể tham quan thác Buôn Bíp, dòng suối đá hoang sơ bên cạnh cánh đồng cà phê và lúa thơ mộng. Để tìm hiểu sâu sắc hơn du khách có thể liên hệ cơ sở du lịch Đức Mai, Vân Long elephant, Vạn Phát Tourist để nhờ hướng dẫn viên địa phương hướng dẫn tham quan.
Nơi đây có món đặc sản là chả cá thát lát hồ lăk, loài cá này đem làm chả cho độ dẻo và thơm rất đặc biệt. Với sự phong phú về nguyên liệu, người M'nông chế biến nhiều món ăn đặc sắc như: gỏi cà đắng cá cơm, cơm lam, canh tro, canh rêu đá...
Ở một quả đồi cạnh hồ còn có cả một khu nghỉ dưỡng quy mô rất lớn của Công ty Du lịch Đắk lắk đầu tư khai thác.
Ngôi nhà nghỉ mát của cựu hoàng đế Bảo Đại ngày xưa nằm cạnh hồ, trên đỉnh đồi sau lưng thị trấn Liên Sơn. Đây là nơi vua Bảo Đại thường đến ngắm cảnh, săn bắn, nghỉ ngơi mỗi khi có dịp lên Đắk Lắk. Ngôi nhà nằm trên đỉnh đồi cao có góc nhìn rất đẹp bao quát gần như trọn mặt nước của hồ Lắk được xây cùng năm với Chùa Khải Đoan và được đích thân Nam Phương Hoàng hậu chịu trách nhiệm quản lý việc đầu tư xây dựng.