Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Phải sử dụng hợp lí và bảo vệ tự nhiên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long vì các lí do sau :
- Xuất phát từ vị trí chiến lược của Đồng bằng sông Cửu Long đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
+ Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích hơn 40 nghìn km vuông, lớn nhất nước ta
+ Đây là vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm số 1 của cả nước
+ Ngoài việc đảm bảo nhu cầu lương thực trong nước, Đồng bằng sông Cửu Long còn đóng vai trò chủ đạo trong việc xuất khẩu gạo của nước ta trong những năm qua/
- Đồng bằng sông Cửu Long mới được khai thác khoảng vài ba trăm năm trở lại đây, chưa bị con người can thiệp sớm như ở vùng đồng bằng sông Hông (như đắp đê), nên tiềm năng còn rất lớn.
- Tạo điều kiện để phát huy những tiềm năng to lớn về tự nhiên của đồng bằng này (đất phù sa ngọt, khí hậu cận xích đạo nóng quanh năm, thời tiết ít biến động, nguồn nước dồi dào, tài nguyên sinh vật đa dạng và giàu có...)
- Hạn chế, những khó khăn do tự nhiên gây ra :
+ Địa hình có nhiều vùng trũng bị ngập nước mùa mưa
+ Diện tích đất phèn, đất mặn rất lớn
+ Mùa khô kéo dài dẫn đến sự xâm nhập mặn sâu của thủy triều và mặt đất bị bốc phèn, bốc mặn
+ Tài nguyên khoáng sản hạn chế
- Thực trạng tài nguyên và môi trường ở vùng đồng bằng này đang bị xuống cấp, suy thoái
+ Rừng ngập mặn đang bị khai thác bừa bãi, quá mức
+ Môi trường sinh thái thay đổi do các hoạt động kinh tế của con người gây ra.
HƯỚNG DẪN
− Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế − xã hội của nước ta.
− Phát huy những thế mạnh (về đất, khí hậu, nguồn nước, sinh vật) và khắc phục những hạn chế vốn có (thiếu nước về mùa khô; diện tích đất phèn, đất mặn lớn…) của đồng bằng.
− Thực trạng suy thoái về môi trường và tài nguyên của vùng (Tài nguyên thiên nhiên bị suy giảm, môi trường bị suy thoái do việc phá rừng để khẩn hoang và nuôi trồng thủy sản cộng thêm với cháy rừng vào mùa khô; hiện tượng lở đất ven sông phổ biến; đất bị nhiễm phàn và mặn…).
Vì:
- Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
- Để phát huy những thế mạnh và khắc phục những hạn chế vốn có của đồng bằng.
- Môi trường và tài nguyên của Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước sự suy thoái (Một trong những dẫn chứng là: việc phá rừng để khẩn hoang và nuôi trồng thuỷ sản cộng thêm với cháy rừng vào mùa khô làm cho tài nguyên thiên nhiên suy giảm, môi trường bị suy thoái).
- Giải quyết vấn đề nước ngọt trong mùa khô. Nếu thiếu nước dẫn đến hậu quả bốc phèn, mặn và nước mặn theo sông, rạch vào làm tăng diện tích đất phèn, đất mặn. Vì vậy, nước ngọt là vấn đề quan trọng hàng đầu để rửa phèn, rửa mặn trong mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Hạn chế tác hại của lũ trong mùa mưa. Vì lũ lớn sẽ làm cho các vùng đất thấp trũng bị ngập nước trong thời gian dài, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt. Do đó, cần phát triển cơ sở hạ tầng, làm đường giao thông vượt lũ, quy hoạch lại các khu dân cư....
+ Nước ngọt : Là vấn đề quan trọng hàng đầu vào mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long vì dẫn đến thiếu nước, sản xuất và sinh hoạt khó khăn, làm tăng đất phèn, đất mặn, rừng dễ bị cháy …
Do đó cần phải :
– Khai thác nguồn nước ngầm.
– Khai thác nguồn nước ngọt trên sông Tiền và sông Hậu để thau chua rữa mặn cho vùng Đông Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên bằng kênh Hồng Ngự và Vĩnh Tế.
– Chia ruộng thành các ô nhỏ, dùng nguồn nước ngọt hạn chế để luân phiên rửa cho đất.
– Đưa các giống lúa chịu được phèn, được mặn vào canh tác trong điều kiện tưới nước bình thường.
+ Vấn đề rừng : Diện tích bị giảm do nhu cầu tăng diện tích đất nông nghiệp (trồng lúa, cây công nghiệp), phát triển nuôi tôm và cháy rừng. Do đó cần phải :
– Cần phải duy trì và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng.
– Rừng phải được bảo vệ trong mọi dự án khai thác.
– Có thể khai thác một ít rừng ngập mặn ở Tây Nam để sản xuất.
– Thực hiện nông – lâm – ngư kết hợp.
+ Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên không tách khỏi hoạt động kinh tế của con người.
– Cần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị cao.
– Kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản và phát triển công nghiệp chế biến.
+ Đối với vùng biển : Hướng chính trong việc khai thác kinh tế là kết hợp mặt biển với đảo, quần đảo và đất liền để tạo nên một thể kinh tế liên hoàn.
+ Trong đời sống nhân dân: Cần chủ động sống chung với lũ bằng các biện pháp khác nhau với sự hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời khai thác các nguồn lợi về kinh tế do lũ hàng năm đem lại.
+ Vùng có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta
– Đây là vùng trọng điểm số 1 về sản xuất lương thực thực phẩm của nước ta, góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết nhu cầu lương thực thực phẩm cho cả nước và cho xuất khẩu.
– Có sản lượng lương thực lên đến 18 triệu tấn (chiếm 1/2 cả nước), bình quân lương thực trên đầu người hơn 1000 kg (gấp 2,4 lần cả nước), sản lượng thủy sản đạt 1,44 triệu tấn (chiếm hơn 60% cả nước).
– Mỗi năm đóng góp trên 4 triệu tấn gạo và hàng vạn tấn thực phẩm tôm, cá, thịt lợn cho xuất khẩu. Đang dẫn đầu cả nước về chăn nuôi vịt, trồng mía và trồng cây ăn quả.
+ Lịch sử phát triển của vùng trên 300 năm, chưa bị con người can thiệp quá sớm nên việc sử dụng, cải tạo tự nhiên của vùng là một vấn đề hết sức cấp bách, nhằm biến đồng bằng thành một khu vực KT quan trọng của đất nước.
+ Nhằm phát huy những lợi thế về tự nhiên của vùng (Nội dung trên)
+ Nhằm khắc phục những lợi thế về tự nhiên của vùng (Nội dung trên)
+ Do chiến tranh và khai thác không hợp lí cho nên tài nguyên của vàng bị suy giảm nghiêm trọng, môi trường bị ô nhiễm:
– Diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp, nguồn tôm cá, sinh vật lưỡng cư bị suy giảm đến mức báo động.
– Môi trường, nhất là môi trường nước bị ô nhiễm trầm trọng.
+ Sự mất cân đối giữa tiềm năng và hiện thực : Là vùng giàu tiềm năng nhưng kinh tế lại chậm phát triển, cơ sở vật chất còn nghèo, đời sông người dân còn khó khăn, thiên tai còn thường xuyên gây ra những tổn thất lớn cho đời sống và sản xuất.
=>Lịch sử phát triển trên 300 năm, chưa bị con người can thiệp sớm như Đồng bằng sông Hồng. Việc sử dụng hợp lí và bảo vệ tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long là một vấn đề hết sức cấp bách, nhằm biến đồng bằng thành một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Phải đặt vấn đề sử dụng hợp lí và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long vì các lí do chủ yếu sau đây:
- Vai trò đặc biệt quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
- Để phát huy thế mạnh và khắc phục những hạn chế vốn có của đồng bằng.
- Môi trường và tài nguyên của vùng đang đứng trước sự suy thoái. Chẳng hạn, việc phá rừng ngập mặn để đất nuôi thủy sản (tôm, cá,...) đã làm môi trường vùng ven biển bị suy thoái.
-Vấn đề quan trọng hàng đầu ở đây là thuỷ lợi, đặc biệt là nước ngọt vào mùa khô
-Nguyên nhân chủ yếu là cần phải có nước ngọt để thau chua, rửa mặn do đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn
- Giải quyết vấn đề nước ngọt trong mùa khô. Vì thiếu nước dẫn đến hậu quả bốc phèn, mặn và nước mặn theo sông, rạch tràn vào làm tăng diện tích đất phèn, đất mặn. Có thể xem nước ngọt là vấn đề quan trọng hàng đầu vào mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long (để đối phó với sự khô hạn làm bốc phèn, bốc mặn trong đất; để rửa phèn...).
- Hạn chế tác hại của lũ trong mùa mưa. Lũ lớn gây ngập lụt trên diện tích rộng với thời gian kéo dài có tác động tiêu cực đối với các hoạt động kinh tế - xã hội. Ngược lại, lũ nhỏ làm tổn hại đến nguồn lợi kinh tế do lũ hàng năm mang lại như: bổ sung lớp phù sa, nguồn thuỷ sản nước ngọt, vệ sinh đồng ruộng...
Đáp án: C
Giải thích: Giải pháp được cho là quan trọng nhất để sử dụng hợp lí và cải tạo tự nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long là cần phải có nước ngọt vào mùa khô để thau chua rửa mặn vì diện tích đất nhiễm mặn lớn và hiện tượng xâm ngập mặn ngày càng gia tăng.
a) Tình hình phát triển và phân hố ngành thuỷ sản ở Đồng bằng sông Cửu Long
-Là vùng có sản lượng thuỷ sản lớn nhất so với các vùng trong cả nước (chiếm hơn 1/2 sản lượng thuỷ sản của cả nước)
-Nhiều tỉnh có sản lượng thuỷ sản khai thác lớn như Kiên Giang: 315.157 tấn, Cà Mau: 138.000 tấn, Bến Tre: 76.000 tấn, Tiền Giang: 75.000 tấn, Bạc Liêu: 69.000 tấn, Trà Vinh: 58.000 tấn (theo số liệu Atlat vào năm 2007)
-Nhiều tỉnh có sản lượng thuỷ sản nuôi trồng lớn: An Giang: 263.914 tấn, Đồng Tháp: 230.008 tấn, Cần Thơ: 150.000 tấn, Cà Mau: 150.000 tấn, Bạc Liêu: 130 nghìn tấn (theo số liệu Atlat vào năm 2007)
b) Đồng bằng sông Cửu Long có ngành thủy sản phát triển nhất nước ta là do các nguyên nhân sau
*Điều kiện tự nhiên
-Có vùng biển giàu tiềm năng thuộc Biển Đông và vịnh Thái Lan với trên 700 km đường bờ biển
+Ở vùng biển phía đông, trữ lượng cá lên tới trên dưới 90 - 100 vạn tấn với khả năng khai thác 42 vạn tấn vào thời gian từ tháng V đến tháng IX
+Trữ lượng ở vùng biển phía tây là 43 vạn tấn, với khả năng khai thác 19 vạn tấn vào mùa vụ từ tháng XI đến tháng IV
-Tập trung nhiều bãi tôm, bãi cá lớn
-Có ngư trường trọng điểm Cà Mau - Kiên Giang (ngư trường vịnh Thái Lan), gần ngư trường Bà Rịa - Vũng Tàu
-Khí hậu nhiệt đới nóng quanh năm thuận lợi cho nhiều loài sinh vật biển phát triển, đặc biệt là ít khi có bão xảy ra nên tàu thuyền đánh bắt có thể hoạt động quanh năm
-Hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, nhiều bãi triều, cánh rừng ngập mặn thuận lợi cho việc nuôi thuỷ sản
-Lũ hàng năm của sông Mê Công dem lại nguồn thuỷ sản
*Điều kiện kinh tế - xã hội
-Người dân có truyền thống đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. thích ứng linh họat với sản xuất hàng hoá
-Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kĩ thuật phục vụ cho việc khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản ngày càng phát triển. Các cơ sở chế biến thủy, hải sản có năng lực sản xuất cao
-Sản phẩm trồng trọt, chủ yếu là trồng lúa, cộng với nguồn cá tôm phong phú chính là nguồn thức ăn để nuôi cá, tôm hầu hết các địa phương
-Chính sách nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển ngành thủy sản
-Thị trường trong nước và xuất khẩu rộng lớn,..
a) So sánh sự khác nhau trong cơ cấu GDP của Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
-Tỉ trọng nông - lâm - thủy sản: Đông Nam Bộ khu tỉ trọng nhỏ nhất (6,2%) và nhỏ hơn Đồng bằng sông Cửu Long (42,8%)
-Tỉ trọng công nghiệp - xây dựng: Đông Nam Bộ tỉ trọng lớn nhất (65,1%), lớn hơn Đồng bằng sông Cửu Long (24,2%)
-Tỉ trọng dịch vụ: Đông Nam Bộ nhỏ hơn Đồng bằng sông Cửu Long (28,7% so với 33,0%)
-Khu vực chiếm tỉ trọng lớn nhất và quan trọng nhất ở Đông Nam Bộ là công nghiệp - xây dựng; còn ở Đồng bằng sông Cửu Long là nông - lâm - thủy sản
b) hu vực nông - lâm - thủy sản của Đồng bằng sông Cửu Long chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP vì có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
*Điều kiện tự nhiên
-Có vùng biển rộng, giàu tiềm năng; biển ấm tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài sinh vật biển phát triển; có ngư trường trọng điểm Cà Mau - Kiên Giang (ngư trường vịnh Thái Lan); lại ít khi có bão xảy ra, tạo điều kiện thuận lợi cho họat động khai thác hải sản
-Hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, nhiều bãi triều, cánh rừng ngập mặn thuận lợi cho việc nuôi thuỷ sản
-Đất phù sa màu mỡ, nguồn nước dồi dào, khí hậu cận xích đạo, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp
-Có diện tích rừng ngập mặn lớn, ngoài ra còn có rừng tràm
*Điều kiện kinh tế - xã hội
-Dân cư đông, nguồn lao động dồi dào, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, đặc biệt là trồng lúa, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản và năng động trong cơ chế thị trường
-Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kĩ thuật phục vụ cho sản xuất và chế biến nông - lâm - thủy sản khá phát triển
-Chính sách khuyến khích phát triển nông - lâm - thuỷ sản
-Thị trường tiêu thụ rộng lớn (trong và ngoài nước)
* Giải thích
- Đồng bằng sông Cửu Long được thiên nhiên ưu đãi với nhiều tiềm năng, thế mạnh cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vùng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn. Vì vậy, việc sử dụng hợp lí tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long đòi hỏi phải đi đôi với cải tạo.
- Việc cải tạo và sử dụng hợp lí tự nhiên nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện đại, sinh thái, văn minh, phát triển nhanh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hoá sông nước, trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp xanh; góp phần khẳng định vị trí, vai trò là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm của nước ta.