Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1: Tác giả dùng những hình ảnh "đèo cao nắng tắt", "giọng hò mái đẩy", " sông Hương lướt đỉnh đèo", "non sông bóng xóm nhà", "đá ven rừng chép chiến công", "mộ liệt sĩ nâng lòng đất" ,"Buồm phá Tam Giang", "phượng nở rung màu đỏ", "canh sương rộn tiếng gà".
Em cảm thấy những hình ảnh chi tiết ấy đều mang đặc trưng của xứ Huế nhưng cũng đồng thời khơi gợi lịch sử dân tộc ta đã đấu tranh đầy mạnh mẽ để có được cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay.

Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.
Đơn giản là vì lời thơ mộc mạc, chân chất, gần gũi thân thương.
Nhưng cái điều tôi muốn bình ở đây chính là: khi viết về quê hương Việt Nam, con người Việt Nam, tác giả nào cũng phải viết như thế, bởi tâm hồn người Việt mình vốn dĩ như thế: hiền lành, thật thà, nhân nghĩa, thủy chung...
Đoạn thơ bộc lộ cảm xúc dạt dào của tác giả trước những vẻ đẹp bình dị trên đất nước Việt Nam thân yêu. Hình ảnh “biển lúa” rộng mênh mông gợi cho ta nièm tự hào về sự giàu đẹp, trù phú của quê hương. Hình ảnh “cánh cò bay lả dập dờn” gợi vẻ nên thơ, xao xuyến mọi tấm lòng. Đất nước còn mang niềm tự hào với vẻ đẹp hùng vĩ của “đỉnh Trường Sơn” cao vời vợi sớm chiều mây phủ. Đoạn thơ đã giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha yêu quý và tự hào về đất nước của tác giả Nguyễn Đình Thi.

Phần I
câu 5: Chiếc là cuối cùng là kiệt tác vì :
-nó giống như thật => cái tâm của người nghệ sĩ
-nó có tác dụng nhiệm màu là cứu sống Giôn-xi
-đc vẽ = tình yêu thương và đức hi sinh cao cả
-nó đc vẽ (.) 1 hoàn cảnh đặc biệt
-nó vẽ = 1 tình yêu nghệ thuật chân chính

tác giả Nguyễn Bính đã khắc họa hai vẻ đẹp đối lập mà thống nhất của con người và mảnh đất Việt Nam qua hai khổ thơ trong bài "Quê hương". Khổ đầu tiên mở ra không gian văn hóa đậm chất thơ mộng, nơi con người gắn bó với âm nhạc và thi ca từ khi còn trong bụng mẹ.Hình ảnh "tiếng hát, "làm thơ" không chỉ thể hiện sự lãng mạn, hồn hậu mà còn là nét tính cách đặc trưng của người dân quê. Cánh cò đưa võng, vốn là hình ảnh bình dị, nay trở thành biểu tượng nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ trong một không gian yên bình. tuy nhiên, khi quê hương lâm nguy, vẻ đẹp hiền hòa bỗng chốc hóa thành sức mạnh quật cường. Khổ thơ thứ hai chuyển sang giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng. Tre làng, vốn thân thuộc, nay "xả thân làm ngọn mác, mũi chông", trở thành vũ khí chiến đấu. Con người, từ "trai gái thôn Đông, xóm Bắc" hiền lành, chất phác, đã "thoắt vươn vai thành những anh hùng".Hai khổ thơ này bổ sung cho nhau, tạo nên cái nhìn toàn diện về quê hương: vừa có vẻ đẹp trữ tình, thanh bình trong cuộc sống thường nhật, vừa chứa đựng sức mạnh tiềm tàng,tinh thần kiên cường khi đối diện với kẻ thù
Hai khổ thơ trong bài "Quê hương" của Nguyễn Bính thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất quê hương, đồng thời ca ngợi những phẩm chất đặc biệt của con người nơi đây.
Khổ thơ đầu tiên gợi ra hình ảnh một quê hương gắn liền với những âm thanh của làn điệu dân ca, là nơi mà trong "bụng mẹ" đã biết mê tiếng hát. Đây là một hình ảnh đầy chất thơ, cho thấy sự hòa quyện giữa con người và quê hương, nơi mà truyền thống văn hóa, đặc biệt là văn học, đã ăn sâu vào tiềm thức từ những ngày đầu đời. Tiếng hát quê hương không chỉ là biểu tượng của sự ấm áp, yêu thương mà còn phản ánh bản sắc dân tộc trong mỗi con người nơi đây.
Khổ thơ thứ hai chuyển hướng, thể hiện tinh thần yêu nước, đấu tranh bảo vệ quê hương. Những "tre làng" trở thành "ngọn mác, mũi chông", tượng trưng cho sự kiên cường của con người khi đối mặt với kẻ thù. Các trai gái thôn Đông, xóm Bắc “thoắt vươn vai thành anh hùng", khẳng định tinh thần bất khuất và sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong những giờ phút khó khăn.
Như vậy, qua hai khổ thơ, tác giả Nguyễn Bính đã khắc họa vẻ đẹp của quê hương trong cả khía cạnh văn hóa lẫn tinh thần chiến đấu kiên cường.