Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a) - Vài cánh ngọc lan là chủ ngữ
Rụng xuống nền đất mát rượu là vị ngữ
- Lũ trẻ:chủ ngữ
Đang rủ nhau thả những chiếc thuyền giấy trên những vũng nước mưa: vị ngữ
- Dân chài: chủ ngữ
Đang tung lưới bắt cá : vị ngữ
- Hoa mười giờ:chủ ngữ
Nở đỏ quanh các lối đi ven hồ:vị ngữ
- Bóng mấy con chim bồ câu:chủ ngữ
Lướt nhanh trên những mái nhà cao thấp:vị ngữ
b) - Cẩu Khây; chủ ngữ
Nhổ cây bên đường quật túi bụi; vị ngữ
- Nó : chủ ngữ
Hét lên khiến bão nổi lên ầm ầm:vị ngữ
-Yêu tinh: chủ ngữ
Dừng lại phun nước ra như mưa : vị ngữ
tiếng mây / họi lọt thỏm xuống dòng sông / nghe xa vs như tiếng gọi từ đầu vọng lại
c v trạng ngữ
tiếng mây / họi lọt thỏm xuống dòng sông / nghe xa vs như tiếng gọi từ đầu vọng lại
c v trạng ngữ
Những ngày đẹp trời, buổi sáng, bồ câu bay ra từng đàn. Sau một hồi lượn vòng trên không trung trong lành, chúng đậu xuống mặt đất rồi tha thẩn đi đi lại lại với cái đầu cứ lắc lư, lắc lư.
Vì sao bồ câu lắc lư đầu liên tục mà không bị hoa mắt, nhức đầu nhỉ? Thật ra, nếu quan sát kĩ, ta có thể thấy rằng bồ câu chẳng lắc lư chút nào cái đầu bé nhỏ của chúng.
Bài 1: Xác định chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ trong câu sau
1. Qua khe dậu,/ ló ra mấy quả đỏ chói
2. Những tàu lá chuối/ vàng ối xoã xuống như những đuôi áo, vạt áo.
3. Ngày qua, trong sương thu/ ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những chùm hoa khép miệng bắt đầu kết trái.
4. Sự sống/ cứ tiếp tục trong âm thầm, hoa thảo quả /nảy dưới gốc gây kín đáo và lặng lẽ.
5. Đảo/ xa tím pha hồng.
6. Rồi thì cả một bãi vông/ lại bừng lên, đỏ gay đỏ gắt suốt cả tháng tư.
7. Dưới bóng tre của ngàn xưa,/ thấp thoáng một mái chùa cổ kính.
8. Hoa móng rồng/ bụ bẫm như mùi mít chín ở góc vườn nhà ông Tuyên.
9. Sông/ có thể cạn, núi/ có thể mòn, song chân lí đó /không bao giờ thay đổi.
10. Tôi/ rảo bước và truyền đơn cứ từ từ rơi xuống.
11. Chiều chiều, trên triền đê, đám trẻ mục đồng chúng tôi /thả diều.
12. Tiếng cười nói /ồn ã.
13. Hoa lá, quả chín, những vạt nấm/ ẩm ướt và con suối chảy thầm dưới chân đua nhau toả mùi thơm.
14. Sau tiếng chuông chùa, mặt trăng/ đã nhỏ lại, sáng vằng vặc.
15. Dưới ánh trăng, dòng sông/ sáng rực lên, những con sóng nhỏ vỗ nhẹ vào hai bờ cát.
16. Ánh trăng/ trong chảy khắp cành cây kẽ lá, tràn ngập con đường trắng xoá.
17. Cái hình ảnh trong tôi/ về cô, đến bây giờ, vẫn còn rõ nét.
18. Ngày tháng / đi thật chậm mà cũng thật nhanh.
19. Đứng bên đó, Bé / trông thấy con đò, xóm chợ, rặng trâm bầu và cả những nơi ba má Bé đang đánh giặc.
20. Một bác giun / bò đụng chân nó mát lạnh hay một chú dế rúc rích cũng khiến nó giật mình, sẵn sàng tụt xuống hố sâu.
a.
- Từ trên không, tiếng kêu của đàn sếu vọng xuống rồi xa dần.
- Những vầng mây xám sà xuống thấp làm cho trời và đất như gần nhau hơn.
- Lúc này, trên những thửa ruộng đã gặt, người ta đang đốt những gốc rạ khô.
- Để đám cháy không lan rộng, trước khi đốt, rạ được vun thành từng đống nhỏ.
- Gió cuốn những làn khói xanh cuồn cuộn về hướng Tây Nam.
(in nghiêng là trạng ngữ, chữ in đậm là chủ ngữ, còn lại là vị ngữ)
b. Trạng ngữ tìm được trong mỗi câu thuộc loại:
- Từ trên không: Trạng ngữ chỉ nơi chốn
- Lúc này: Trạng ngữ chỉ thời gian
- Trên những thửa ruộng đã gặt: Trạng ngữ chỉ nơi chốn
- Để đám cháy không lan rộng: Trạng ngữ chỉ mục đích
- Trước khi đốt: Trạng ngữ chỉ thời gian