a- có bản dịch câu " Từ Triệu, Đinh,,...">

K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1.Đoạn trích là phần mở đầu bài Bình ngô đại cáo. Đoạn này có ý nghĩa nêu tiền đề cho toàn bài, tất cả nội dung được phát triển về sau đều xoay quanh tiền đề đó. Theo em, khi nêu tiền đề, tác giả đã khẳng định những chân lí nào?2. Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân- Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là...
Đọc tiếp

1.Đoạn trích là phần mở đầu bài Bình ngô đại cáo. Đoạn này có ý nghĩa nêu tiền đề cho toàn bài, tất cả nội dung được phát triển về sau đều xoay quanh tiền đề đó. Theo em, khi nêu tiền đề, tác giả đã khẳng định những chân lí nào?

2. Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân- Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là gì? Người dân mà tác giả nói tới là ai? Kẻ bạo ngược mà tác giả nói tới là kẻ nào?

3.Để khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố nào? Nhiều ý kiến cho rằng, ý thức dân tộc ở đoạn trích Nước Đại Việt ta là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc ở bài thơ Sông núi nước Nam (đã học ở lớp 7), vì sao? Để trả lời câu hỏi này, hãy tìm hiểu xem những yếu tố nào đã được nói tới trong Sông núi nước Nam và những yếu tố nào mới được bổ sung trong Nước Đại Việt ta.

4. Hãy chỉ ra những nét đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích và phân tích tác dụng của chúng. (Gợi ý: cách dùng từ, cách sử dụng câu văn biền ngẫu, biện pháp liệt kê, so sánh, đối lập,… có hiệu quả)

5*. Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Qua đoạn trích trên, hãy chứng minh.

6*. Thử khái quát trình tự lập luận của đoạn trích “Nước Đại Việt ta” bằng một sơ đồ.

0
7 tháng 3 2017

Văn bản Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam:

   + Bài cáo khẳng định dứt khoát rằng Việt Nam là nước độc lập, có chủ quyền, đây là sự thật hiển nhiên.

   + So với bài thơ Sông núi nước Nam, bài Nước Đại Việt ta được phát triển toàn diện và sâu sắc hơn. Bởi có thêm những yếu tố như nền văn hiến lâu đời, tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng…

25 tháng 3 2021

Em tham khảo nhé !

Nguyễn Trãi là người luôn phụng thờ một tư tưởng lớn: tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sáng tác thơ văn Nguyễn Trãi, khiến cho các tác phẩm của ông có một giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, trong Bình Ngô đại cáo, đoạn trích Nước Đại Việt ta, tư tưởng ấy thể hiện đậm nét.

Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi nêu lên một mệnh đề về nguyên lí nhân nghĩa:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nằm ở hai từ yên dân và trừ bạo. Nói cụ thể hơn nội dung của tư tưởng đó là yên dân, làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh phúc và yêu nước chống xâm lược.

Đối với Nguyễn Trãi, chữ dân ở đây không có tính chất chung chung mà là người dân đất Việt, những người dân đang lâm vào hoàn cảnh khốn cùng của chiến tranh loạn lạc, những người dân vô tội đang bị giặc Minh tàn sát. Vì thế, ở phần sau của bài cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ hơn tình yêu của dân bằng việc vạch trần tội ác tàn bạo của bọn xâm lược và bộc lộ nỗi đau đớn xót xa trước những thảm cảnh mà nhân dân đang nếm trải:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Ta đọc thấy trong câu văn Nguyễn Trãi có cả ngọn lửa căm hờn và tiếng thổn thức của một trái tim giàu yêu thương đang rớm máu.

Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa vì dân, làm cho dân được hưởng thái bình hạnh phúc. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Muốn cho dân được an hưởng thái bình hạnh phúc, lúc bấy giờ, không có con đường nào khác là phải diệt trừ giặc ác, cứu sống dân. Vì thế Nguyễn Trãi mở rộng nội dung nhân nghĩa lên một mức cao hơn:

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Giặc tàn bạo đã gây tội ác, đến trời đất cũng không thể dung tha. Ngọn lửa căm hờn rực cháy trong tim người anh hùng dân tộc:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Đọc kĩ câu văn Nguyễn Trãi, ta nhận thức rõ hơn, giặc ở đây không chỉ là kẻ thù của nhân dân, mà còn là kẻ thù của quốc gia, của dân tộc: giặc nước. Trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, bên cạnh chữ yên dân còn thêm chữ yêu nước. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không mang tính chất triết lí giáo điều, mà được cụ thể hóa bằng lòng yêu nước thương dân nồng nản, thiết tha.

Lí tưởng nhân nghĩa lí tưởng dân nước là lí tưởng suốt đời Nguyễn Trãi luôn ôm ấp và theo đuổi, nó sâu sắc và mạnh mẽ đến mức:

Bụi một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông

(Thuật hứng V)

và Nguyễn Trãi suốt đời trung thành với nó:

Bụi một tấc lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen

(Thuật hứng XXIV).

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một tư tưởng lớn, tư tưởng thời đại. Tư tưởng ấy cao đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kế thừa và phát huy truyền thông nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc. Chính truyền thống nhân nghĩa ấy kết hợp với chân lí độc lập dân tộc đã tạo nên sức mạnh thần kì để nhấn chìm mọi kẻ thù cướp nước, làm nên những chiến công hiển hách, những chiến thắng vang dội.

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi ổ Mã.

và trong cuộc kháng chiến chống Minh đã tạo nên sức mạnh rung trời chuyển đất:

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Đưa ra tư tưởng nhân nghĩa ngay ở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi muốn khẳng định ngọn cờ chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại, đồng thời cũng vạch rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bọn cuồng Minh (khi xâm lược nước ta chúng giương chiêu bài phù Trần diệt Hồ để che giấu tội ác):

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Càng đọc Bình Ngô đại cáo, ta càng thấm thìa về tấm lòng yêu nước thương dân thiết tha, sâu sắc, về nhân cách vĩ đại và tiết tha cao cả của một con người suốt đời vì nước vì dân: “ức Trai sáng tựa sao khuê” – Lê Thánh Tông.

25 tháng 3 2021

cảm ơn ạhiuhiu

18 tháng 4 2022

Qua bài " Sông núi nước Nam " , văn bản chỉ khẳng định nước có chủ nghĩa thì có vua Nam ở. Thì ở bài " Nước Đại Việt ta " , Nguyễn Trãi lại chứng minh nước nhà có độc lập dân tộc bằng việc khẳng định rõ nước ta có quốc hiệu , có nền văn hiến lâu đời , có bề dạy lịch sử riêng của dân tộc , lãnh thổ rieng , có chủ quyền , chế độ và phong tục riêng . Qua đây , ta cũng đã thấy được văn bản " Nước Đại Việt ta " có học thuyết về quốc gia hơn " Sông núi nước Nam ". Đồng thời , người đọc cũng thấy được giọng nói hào hùng , lời văn nhịp nhàng , ngân vang của tác giả . Văn bản có đoạn đầu bài một sự đối lập từ khái quát cho đến cụ thể , lại còn giàu chứng cớ lịch sử khiến cho ai ai là con dân đất Việt cũng có cảm xúc tự hào . Có lẽ , cả 2 văn bản đều rất hay và thể hiện chủ quyền nước ta , cũng đều được coi là bản tuyên ngôn độc lập của nước ta nhưng " Nước Đại Việt ta" lại có những điều tiến bộ , phát triển hơn với tính toàn diện,sâu sắc của từng lời thơ trong nó . Phải chăng , càng ngày càng về sau thì con người ta lại càng phát triển , thông minh và tốt đẹp hơn , điều đó đã được chứng minh qua việc ta so sánh " Sông núi nước Nam " và " Nước Đại Việt ta".

17 tháng 10 2019

Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, tác giả dựa vào những yếu tố:

   + Nền văn hiến từ lâu đời: nền văn hiến đã lâu

   + Phong tục tập quán

   + Lịch sử hình thành và phát triển riêng

   + Chế độ nhà nước riêng, bình đẳng, ngang tầm với các triều đại Trung Quốc

   - Bài thơ Sông núi nước Nam của tác giả Lý Thường Kiệt đề cập tới sự độc lập lãnh thổ và chủ quyền nước Nam- vua Nam ở.

   - Tới Bình Ngô Đại cáo Nguyễn Trãi vẫn khẳng định về lãnh thổ, chủ quyền. Có mở rộng, khẳng định nền văn hiến lâu đời, phong tục, lịch sử triều đại.

   + Thể loại văn biền ngẫu giúp cho việc diễn giải ý thơ được chi tiết và kỹ càng hơn.

1.    Vì sao có thể khẳng định đoạn trích “Nước Đại Việt ta” ”(Nguyễn Trãi) có ý nghĩa như một bản tuyện ngôn độc lập? A.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử.B.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có lãnh thổ riêng, phong tục riêng,...
Đọc tiếp

1.    Vì sao có thể khẳng định đoạn trích “Nước Đại Việt ta” ”(Nguyễn Trãi) có ý nghĩa như một bản tuyện ngôn độc lập?

A.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử.

B.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có tập quán riêng, có chủ quyền và có truyền thống lịch sử lâu đời.

C.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có phong tục, tập quán riêng, có chủ quyền và có truyền thống lịch sử.

D.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm oai hùng, có lãnh thổ riêng, có chủ quyền ngang hàng với Trung Hoa.

2
1 tháng 8 2021

1.    Vì sao có thể khẳng định đoạn trích “Nước Đại Việt ta” ”(Nguyễn Trãi) có ý nghĩa như một bản tuyện ngôn độc lập?

A.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử.

B.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có tập quán riêng, có chủ quyền và có truyền thống lịch sử lâu đời.

C.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có phong tục, tập quán riêng, có chủ quyền và có truyền thống lịch sử.

D.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm oai hùng, có lãnh thổ riêng, có chủ quyền ngang hàng với Trung Hoa.

Thu gọn

1 tháng 8 2021

Đáp án : 

D.   Vì đoạn trích đã khẳng định nước ta là đất nước có truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm oai hùng, có lãnh thổ riêng, có chủ quyền ngang hàng với Trung Hoa.

15 tháng 4 2017

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ra đời sau Nam quốc sơn hà mấy trăm năm và quả thực là sự kế thừa và phát triển hoàn thiện ý thức về độc lập chủ quyền, ý thức về quốc gia dân tộc.

Nam quốc sơn hà tương truyền là bài thơ thần của nhà thơ, vị tướng quân Lý Thường Kiệt. Bài thơ tứ tuyệt này có thể coi là một trong những bài thơ sớm nhất đề cao tinh thần dân tộc. Lúc ấy khái niệm quốc gia, chủ quyền độc lập còn đơn giản chứ chưa được hiểu sâu sắc và toàn diện như sau này. Tuy nhiên khi bài thơ khẳng định:

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Thì ý thức dân tộc đã được tiến một bước dài rồi. Thời trung đại, phong kiến Trung Hoa lớn mạnh vô cùng. Người Trung Quốc tự cho rằng họ là tinh hoa của vũ trụ. Chỉ có vua của Trung Hoa mới được xếp vào hạng “đế”, hàng “Thiên tử” có thể thay trời hành đạo. Còn tất cả các nước khác xung quanh chỉ là hàng “man di, mọi rợ” và cùng lắm phong cho vua các nước chư hầu một chữ “vương” thôi. Trong con mắt của phong kiến Trung Hoa, nước ta lúc ấy cũng được coi là một nước chư hầu. Thế nhưng câu thơ trong Nam quốc sơn hờ lại khẳng định vô cùng đanh thép. Nước Nam ta cũng có “hoàng đế” cũng xứng danh “Thiên tử” bởi:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

(Rành rành định phận ở sách trời)

Chúng ta có lãnh thổ riêng. Ranh giới Bắc – Nam phân định rõ ràng “tại thiên thư”. Và như vậy người Đại Việt có quyền tự hào và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc ngàn đời.

Từ Nam quốc sơn hà đến Bình Ngô đại cáo (đoạn trích Nước Đại Việt ta) là một sự phát triển hoàn thiện khái niệm quốc gia dân tộc. Nhà văn Nguyễn Trãi viết:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi lúc này không phải là tranh luận về hai chữ đế, vương, không phải là cái khái niệm mơ hồ về ranh giới lãnh thổ mà là ở truyền thống văn hiến lâu đời. Văn hiến nghĩa là ca ngợi tất cả những giá trị về vật chất và tinh thần mà chúng ta đã làm được trong lịch sử.

Quốc gia, dân tộc, chủ quyển… của Nguyễn Trãi còn là:

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, lý, Trần hao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi hên xưng đế một phương

Chủ quyền dân tộc với tác giả phải là có lãnh thổ rạch ròi, có truyền thống, có phong tục, có những thói quen thẩm mỹ. Nhưng điều nổi bật nhất để khẳng định chủ quyền của quốc gia chính là lịch sử. Lịch sử sẽ là bằng chứng hùng hồn không thể nào chối cãi được. Ớ trong câu văn của Nguyễn Trãi, ta thấy tác giả một lần nữa nhắc đến sự khác biệt đế, vương. So với Nam quốc sơn hà thì ở điểm này, Bình Ngô đại cáo có sự kế thừa. Dân tộc trong quan niệm của nhà văn còn phải có “anh hùng hào kiệt”. Đó mới là những con người tạo ra lịch sử, vừa là những bằng chứng hùng hồn về truyền thống của nước ta.

Có thể nói, ở đoạn trích Nước Đại Việt ta nói riêng và Bình Ngô đại cáo nói chung, có một sự chuyển biến lớn về tư tưởng. Ở đây, cái quan niệm về quốc gia dân tộc hoàn thiện hơn nhiều so với Nam quốc sơn hà. Trên cơ sở những gì đã có, nhà văn Nguyễn Trãi đã kế thừa trọn vẹn Nam quốc sơn hà để rồi từ đó tạo ra bản anh hùng ca bất hủ, bản “tuyên ngôn độc lập thứ hai” trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của đồng bào ta.

Tuy ra đời trong những bối cảnh lịch sử khác nhau nhưng dường như cả hai áng văn thơ bất hủ: Nam quốc sơn hà và Nước Đại Việt ta đều thể hiện chung một khát khao độc lập và tự do của dất nước, của dân tộc. Đó là những lời khẳng định một cách đanh thép, mãnh liệt về chủ quyền của chúng ta.

Vào cuối năm 1076, cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lược đang bước sang giai đoạn gay go ác liệt thì nơi phòng tuyến sông cầu, trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát vang lên tiếng đọc thơ sang sảng. Tiếng thơ làm nức lòng binh sĩ, tạo nên kí thế áp đảo kẻ thù:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Nam quốc sơn hà)

Ngày xưa, phong kiến Trung Hoa chỉ coi vua mình là “đế”, là “thiên tử”, còn vua nước láng giềng chỉ là vương, là hầu. Nhưng, Lí Thường Kiệt (?) như muôn tước đi cái tự phụ, ngạo nghễ của Trung Hoa nên đã viết:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Phải chăng đây là lời tuyên chiến đầu tiên của dân tộc ta với Trung Hoa - “lời tuyên chiến” từ một tên gọi? Giáo sư Lê Trí Viễn khi bàn về câu thơ này đã nói: “Xưng Nam đế là xóa đi cái trịch thượng trong đầu chúng, Xưng Nam quốc là hất đi cái mồ ma quận huyện” trong ý đồ bành trướng vốn đã có từ lâu đời.

Xưng hô thế là đủ, nhưng muốn khẳng định cho vững chắc hơn chân lí trên, Lý Thường Kiệt nhấn mạnh:

Rành rành định phận tại sách trời Người xưa coi trọng trời đất. Trong Chiếu dời đô có ghi: “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi.. “Sách trời” như một công cụ luật pháp hữu ích, một vị quan tòa nghiêm minh. Câu thơ thứ ba như muốn cho thấy sự hung hăng vô độ của vua quan nhà Tống, coi thường mệnh trời, làm trái luân thường đạo lí:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Lý Thường Kiệt như đang chỉ rõ chân tướng của hàng vạn thiên tướng, thiên binh, hạ thấp uv tín của chúng. Chúng không phải là những kiêu binh, dũng tướng của thiên triều nữa, mà thực sự chỉ là một lũ giặc, lũ cướp như mọi lũ cướp đường, cướp chợ khác. Câu thơ hịch “nghịch lỗ” thành “lũ giặc” e không làm rõ hết được ý nghĩa của nguyên tác.

Tác giả lại như một nhà tiên tri khi đưa ra một lời cảnh cáo như sấm truyền về kết quả tất yếu của hành động xâm lược. Câu thơ ẩn chủ thể của hành động như đề người ta có thể hiểu rằng sức mạnh của quân dân ta, sự thuận lòng trời nhất định sẽ chiến tháng, sẽ khiến quân giặc thất bại thảm hại, “gieo nhân nào gặt quả ấy”, nên “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.

Cả bài thơ như một tiếng kèn xung trận quyết chiến, quyết thắng. Lời khẳng định chủ quyền của dân tộc đã kết thúc mà âm hưởng của nó vẫn vang xa, in đậm trong lòng mỗi người dân đất Việt.

Trải qua bốn thế kỉ, tình yêu nước như một cây cầu đưa các nhà quân sự, các tác giả của các bài ca bất hủ đến với nhau. Nếu như trong bản tuyên ngôn đầu tiên ta mới chỉ thấy vị trí của Nam đế - bởi vua là nước, nước là vua - mà chưa thấy yếu tố nhân dân trong sự nghiệp giải phóng đất nước, thì ở bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, ở Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã thể hiện một quan điểm nhân sinh rõ rệt. Xuân Diệu từng nói:

Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến chút tột cùng là dòng huyết chảy.

Tất cả tình yêu nước của những con người vĩ đại ấy đều được thể hiện sâu sắc qua đặc điểm lịch sứ, và những lần nhân dân sục sôi giành đất nước từ tay giặc. Dường như họ, trong giờ phút quan trọng, giờ phút tột cùng chảy trong mình bầu nhiệt huyết cứu nước, với ý thức độc lập, tự cường mãnh liệt, càng ngày tiến xa hơn.

Cũng như bài thơ Nam quốc sơn hà, mở đầu bài cáo vẫn là những lời khẳng định dứt khoát và chắc chắn về sự tồn tại ngang hàng của một quốc gia phương nam với một quốc gia phương bắc. Quốc gia này không chỉ có đế, không chỉ có lãnh thổ rõ ràng như trong Nam quốc sơn hà mà còn có một quá khứ oai hùng trong công cuộc chống ngoại xâm và đặc biệt, từ xa xưa đã có một nền văn hiến:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến bấy lâu.

Đồng thời:

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.

Những sự phân định rạch ròi giữa hai lãnh thổ đã được nêu ra, văn hiến và phong tục nước ta tốt đẹp, vượt qua cái chính sách đồng hóa điên rồ của bọn phong kiến phương Bắc. Nhân dân ta bảo vệ được núi sông, văn hiến, phong tục là nhờ những cuộc đấu tranh anh dũng chống kẻ thù. Nhưng nước ta đâu có dùng đến vũ lực như bọn Mông- Nguyên, gây đau thương cho bao nhiêu con người hay bọn giặc Minh, miệng thì nói lập lại nhà Trần thực ra là ra sức vơ vét tài lực của đất nước ta, bóc lột, đánh đập nhân dân ta vô cùng thậm tệ. Biết bao lần nhà Lí, nhà Trần cấp thuyền cho giặc về nước. Đó đều là những việc nhân nghĩa và đã được Nguyễn Trãi ghi nhận:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Theo em ý thức độc lập về quốc gia, đất nước không chỉ được khẳng định trong cương vực lãnh thổ, bản sắc văn hóa mà còn được khẳng định cả trong cách chống giặc ngoại xâm, mà đối với Nguyễn Trãi đó là cách đánh vào lòng người. Tác phẩm đã thể hiện niềm tin sắt đá vào chính nghĩa, vào sức mạnh dân tộc. Nhân nghĩa là yên dân, muốn yên dân phải trừ bạo, tức trừ ngoại xâm. Phải chăng có bảo vệ đất nước mới yên dân. Nhân nghĩa vì vậy gắn với tinh thần yêu nước chống quân xâm lược và sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc là một chân lí khách quan. Trong thể văn biền ngẫu này, Nguyễn Trãi đã sử dụng những cặp câu đối nhau rất tương xứng như:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương. Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Các câu văn tương xứng như chứng tỏ sự song song tồn tại của hai quốc gia. Phải chăng, phải có một tinh thần yêu nước sâu sắc, ý thức độc lập tự chủ lớn lao mới có thể viết nên những câu văn hiên ngang, mạnh mẽ như thế? Nếu như ở tác phẩm Nam quốc sơn hà mới chỉ nêu về việc sách trời “chia xứ sở” thì Đại cáo Bình Ngô đã nói lên cả một thế hệ, một quá trinh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chứng tỏ dân tộc ta cũng có một vị trí ngang hàng với Trung Quốc. Với những vị hào kiệt, những vị anh hùng, Nguyễn Trãi đã lại một lần chứng tỏ sự giàu mạnh của đất nước ta qua các nhân tài. Nhân tài cũng chính là những người lập chiến công hiển hách trong sự nghiệp giữ nước, đánh tan mọi kẻ thừ xâm lược. Ý thức độc lập, ý thức về một dân tộc oai hùng dường như đang sục sôi trong lòng Nguyễn Trãi. Vậy nên dưới bàn tay, trí óc của nhân tài nước ta:

Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cứa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Những chiến công lừng lẫy lần lượt đưa ra. Với các từ mạnh như: thất bại, tiêu vong, bắt sống, giết tươi,... Nguyễn Trãi đã thể hiện một sự căm thù giặc cao độ:

Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.

Bài Đại cáo Bình Ngô không chỉ là lời tổng kết chiến thắng mà còn là lời khẳng định sắt đá một nền độc lập mới sau chiến thắng oai hùng, là một bản phác thảo về đất nước trong tương lai:

Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới ơ thế kỉ XV, Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi với những giá trị hết sức lớn lao về tư tưởng và nghệ thuật, xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Khẳng định ý chí tự lực, tự cường mạnh mẽ.

Đã bao nhiêu năm qua, nhưng những lời trong bản tuyên ngôn của cha ông ta để lại vẫn sáng ngời như ngọc quý. Thời gian có thể xóa nhòa, làm mờ đi nhiều điều của quá khứ nhưng không thể làm mờ đi những chân lí bất diệt trong Nam quốc sơn hà và đặc biệt là Đại cáo Bình Ngô bất hủ muôn đời của người dân nước Việt.

Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và vị trí tác phẩm đại cáo bình Ngô trong nền văn học.

- Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa: Là tư tưởng quan trọng chủ đạo trong bài. Tư tưởng này mang tính nhân văn và có giá trị nhân đạo sâu sắc.

II. Thân bài

1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa

- Tư tưởng nhân nghĩa xuất phát từ quan niệm Nho giáo: là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.

- Tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Trãi: Chắt lọc những hạt nhân cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là:

    + Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc.

    + Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.

→Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại

2. Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô.

a. Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.

Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục:

- Nền văn hiến lâu đời

- Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể

- Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc

- Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa.

→Khẳng định độc lập dân tộc là chân lí, sự thật hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc

→Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa”

b. Nhân nghĩa thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất nước.

Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác dã man của giặc Minh với nhân dân ta:

- Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,..

- Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất

- Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,...

- Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển mò ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,..

- Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,...

→Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc

→Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng

c. Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.

- Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vô vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không một đội

- Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được thắng lợi to lớn:

    + Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù

    + Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc.

→Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người đều cùng chung một mục đích chiến đấu

d. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc.

- Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa

    + Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh.

    + Câp thuyền, phát ngựa cho họ trở về.

- Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức

→Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt

→Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Quốc.

III. Kết bài

- Khái quát, đánh giá lại vấn đề

- Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại nay: vẫn còn được ngợi ca và là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên ứng với mỗi hoàn cảnh cụ thể nó lại mang những ý nghĩa giá trị khác.

Chúc bn hok tốt!!

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời". Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. "Đại cáo Bình Ngô" chính là một kiệt tác như thế. Không những là áng "thiên cổ hùng văn" của Nguyễn Trãi, "Đại cáo Bình Ngô" còn có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.

Tuyên ngôn độc lập được hiểu là văn bản dùng để tuyên bố, khẳng định nền độc lập, chủ quyền của một quốc gia, đặc biệt là sau khi quốc gia ấy vừa giành chiến thắng trong cuộc chống sự xâm lược của ngoại bang. Tại sao có thể khẳng định Đại cáo Bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập? Điều kiện đầu tiên để một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập là hoàn cảnh ra đời phải là trong hoặc sau một cuộc chiến. Đồng thời đảm bảo yếu tố khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc, tuyên bố thắng lợi và tuyên bố hòa bình. Dẫn chứng và lý lẽ phải sắc bén, hùng hồn và hoàn toàn xác thực.

Đại cáo Bình Ngô đáp ứng đủ được những yêu cầu trên. Trước hết, về hoàn cảnh ra đời. Tác phẩm ra đời gắn với mốc lịch sử vô cùng trọng đại của dân tộc. Mùa xuân năm 1428, sau chiến thắng giặc Minh, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo tới toàn thể nhân dân về chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ròng rã hai mươi năm chiến tranh thảm khốc và ách đô hộ của quân giặc, chúng ta đã chiến thắng và giành lại nền độc lập dân tộc, lập lại nền hòa bình. Đại cáo Bình Ngô khi ấy chính là khúc khải hoàn ca, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do, trở thành khúc tráng ca của lịch sử.

Về nội dung, bài cáo là lời khẳng định đanh thép về độc lập chủ quyền, về chiến thắng Lam Sơn hào hùng và nền hòa bình dân tộc. Ngay từ những câu thơ mở đầu, Nguyễn Trãi đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài cáo, cũng là sự khẳng định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

Theo tư tưởng Nho gia, Nguyễn Trãi cho rằng nhân nghĩa là yên dân, là làm sao cho nhân dân có được ấm no, yên ổn và hạnh phúc. Để làm được việc này, trong hoàn cảnh giặc ngoại xâm đô hộ thì phải trừ bạo. Cụ thể trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ là loại trừ giặc Minh xâm lược. Làm được cả hai việc ấy mới là nhân nghĩa chân chính. Độc lập dân tộc có được phụ thuộc rất lớn vào nhân dân. Nhân dân là người bao đời cố gắng gây dựng và bảo vệ nền độc lập. Hàng nghìn năm mồ hôi rơi, xương máu đổ, đồng cam cộng khổ mới tạo nên độc lập dân tộc.

Nguyễn Trãi nêu lên một tư tưởng đầy nhân văn để từ đó, đi đến khẳng định chân lý độc lập của dân tộc:

"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có"

Bằng giọng điệu hào hùng, khí thế, Nguyễn Trãi liên tiếp liệt kê hàng loạt yếu tố để xác lập trọn vẹn nền độc lập dân tộc. Đó là "nền văn hiến", "núi sông bờ cõi", "phong tục", "lịch sử" và "hào kiệt". Nếu như trong "Nam Quốc Sơn Hà", Lý Thường Kiệt đưa ra phương diện lãnh thổ ở sách trời. Thì ở Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi lại lựa chọn những phương diện cụ thể và có bằng chứng lịch sử không thể chối cãi. Các cụm từ "từ trước", "vốn ", "đã lâu", "đã chia", "bao đời", "cũng khác" liên tiếp dồn dập nhấn mạnh tầm vóc lịch sử lâu đời của dân tộc Đại Việt. Nền độc lập và chủ quyền của dân tộc đã tồn tại từ rất lâu, hoàn toàn rạch ròi và khác biệt, không thể nhầm lẫn với bất kỳ quốc gia nào khác.

Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng điểm danh một loạt các triều đại của nước ta "Triệu, Đinh, Lý, Trần" song song với các triều đại phương bắc như "Hán, Đường, Tống, Nguyên". Lịch sử ghi lại, khi Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước xung quanh chỉ có thể xưng vương. Thế nhưng, từ đời nhà Ngô nước ta, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế. "Mỗi bên xưng đế một phương", dân tộc ta đứng ngang hàng, không hề thua kém.

Với những yếu tố đó, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập và khẳng định vị thế dân tộc. Đại cáo Bình Ngô vì lẽ đó mở màn đầy đanh thép.

Nền độc lập dân tộc với lý lẽ và dẫn chứng xác thực, trở nên vô cùng thiêng liêng và "bất khả xâm phạm". Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế và tự hào. Đồng thời cũng trở thành cơ sở pháp lý để Nguyễn Trãi lên án những kẻ bạo ngược đã cả gan xâm phạm chủ quyền nước ta:

"Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bản thần nhân chịu được."

"Đại cáo Bình Ngô" đã phơi bày toàn bộ tội ác của giặc Minh xâm lược. Suốt hai mươi năm trời, nhân dân ta sống trong lầm than, đau khổ bởi những âm mưu tàn độc, những hành động man rợ, trắng trợn vô nhân tính. Kể bao nhiêu cũng không hết tội ác tày trời.

Nguyễn Trãi hùng hồn tố cáo tội ác của giặc Minh tạo nên một bản án đanh thép với kẻ thù. Bài cáo khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, cuộc chiến của ta là chính nghĩa, gây ra sự đồng cảm và tăng tính thuyết phục cho bản tuyên ngôn. Vị tướng sĩ tài ba của dân tộc viết lên những điều đó trong căm hờn, uất nghẹn trào dâng, khiến lòng người sục sôi phẫn nộ.

Thế nhưng, đau thương vẫn không cản bước được dân tộc anh hùng. Cả dân tộc đồng lòng, chung tay cùng đứng dậy, làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào."

Dù giai đoạn đầu có nhiều khó khăn song cuối cùng thắng lợi vẫn thuộc về dân tộc ta. Tuyên bố về thắng lợi, bài cáo đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc vô cùng sâu sắc. Đồng thời cũng nêu cao tính chính nghĩa của cuộc chiến này. Chiến thắng giặc Minh năm ấy chính là sự trừng phạt thấu tình đạt lý những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền dân tộc ta.

Khép lại bản "tuyên ngôn", Đại cáo Bình Ngô đi đến sự tuyên bố về nền hòa bình dân tộc:

"Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu"

Đó là "trái ngọt hoa thơm" của cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ. Từng câu từng chữ vút cao, vang dội, tuyên bố nền hòa bình "vững bền, đổi mới, vững chắc". Hình ảnh "xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt" giống như tái hiện khung cảnh thái bình tuyệt đẹp. Đặc biệt trong đó còn chứa đựng sự biết ơn "trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm giúp" và đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Bên cạnh yếu tố về nội dung, Đại cáo Bình Ngô còn được coi là bản tuyên ngôn độc lập về khía cạnh nghệ thuật. Bài cáo được viết theo thể văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục. Đi từ cơ sở lý luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về độc lập chủ quyền, đến sự phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn rồi tuyên bố nền hòa bình. Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục kết hợp với giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng. Các biện pháp nghệ thuật khéo léo cùng những câu văn dài ngắn, biến hóa linh hoạt. Bài cáo đã khẳng định độc lập chủ quyền, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc. Đồng thời cũng nêu cao tinh thần yêu nước cùng tầm vóc tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi.

Với những thành công đó, Đại cáo Bình Ngô chính là bản tuyên ngôn mang nhiều giá trị sâu sắc của dân tộc. Trải qua nhiều năm, nó vẫn sừng sững chỗ đứng trong nền văn học nói riêng, trong lịch sử Việt Nam nói chung. Để mỗi lần bài cáo vang lên, nhân dân Việt Nam lại nghe trong trái tim mình tiếng nói của Tổ quốc.

xin lỗi mk lấy trên mạng nên bài chắc chưa đc đúng yêu cầu của bạn