Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chiều qua lớp tôi tổ chức giờ ngoại khóa môn Lịch sử. Cô giáo cho chúng tôi xem một cuốn băng về các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm ở Việt Nam. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến những hình ảnh thật nhất về các cuộc kháng chiến cứu nước vị đại của chúng ta. Tôi thật xúc động trước sự hy sinh dũng cảm của những bạn nhỏ còn chưa đủ tuổi bước vào đời như Lượm hay Lê Văn Tám…
Tối về, cứ thế tôi miên man theo những hình ảnh ban chiều. Tôi không tài nào học được. Mệt và mỏi, tôi gục xuống bàn học từ lúc nào.
Tham khảo :
Trong rất nhiều đồng chí đồng đội cùng hoạt động cách mạng mà tôi từng gặp và quen biết, có lẽ để là cho tôi nhiều ấn tượng hơn cả là một đồng chí nhỏ tuổi tên Lượm, người mà tôi tình cờ gặp được ở Huế nhân một lần từ thủ đô Hà Nội về thăm nhà. Tôi nhớ đó là vào cuối năm 1946, đó cũng là những ngày Pháp đánh chiếm ác liệt nhất trên mảnh đất quê hương - Ngày Huế đổ máu. Cuộc gặp gỡ diễn ra cũng thật tình cờ, tôi đã không còn nhớ rõ chúng tôi gặp nhau như thế nào, chỉ còn mang máng rằng đó là nơi Hàng Bè, con phố tôi vẫn từng thân thuộc. Giữa những người làm cách mạng với nhau luôn có một sợi dây vô hình gắn kết, chỉ mới gặp một lần nhưng tôi đã yêu mến cái dáng vẻ hoạt bát của đồng chí liên lạc nhỏ tuổi. Lượm năm ấy được bao nhiêu tuổi tôi không biết, nhưng ấn tượng không phai mờ trong lòng tôi vẫn luôn là cái dáng người loắt choắt, nom tưởng ốm yếu, ấy thế mà đôi chân lại nhanh nhẹn vô cùng, bên hông cậu đeo một cái xắc nho nhỏ, trên cái đầu nghênh nghênh đôi thêm chiếc mũ ca-lô hơ lệch về một phía. Lượm là một cậu bé yêu đời, yêu sống và cũng rất đỗi hồn nhiên, phải vậy chứ, cái tuổi của em đáng được ăn được chơi lắm, hai chú cháu đi dạo trên đường làng, tôi thong thả dạo từng bước, còn Lượm dường như chẳng đứng yên, tâm hồn lúc nào cũng phơi phới, miệng liên tục huýt sáo, tung tăng nhảy chân sáo trên con đường rộng thênh thang. Tôi bỗng liên tưởng đến hình ảnh chú chim chích, nhỏ nhắn, hoạt bát đang thỏa sức bay nhảy. Chúng tôi nói với nhau không nhiều chuyện, nhưng tôi nhớ nhất là những chia sẻ thật chân thành và gần gũi của Lượm, mà từ những lời nói rất hồn nhiên ấy tôi đã nhận ra lòng yêu nước, lòng trung thành với cách mạng rất đáng quý của một tâm hồn non trẻ. Lượm vừa đi vừa bảo: "Cháu làm liên lạc cũng mới một thời gian thôi, chủ yếu là ở đồn Mang Cá ấy chú ạ. Dù công việc có những lúc rất hồi hộp, khó khăn nhưng mà thích lắm chú ạ, thích hơn ở nhà nhiều. Cháu cảm thấy dường như mình đã đóng góp được chút gì đó cho quê hương rồi ấy, hì hì". Lượm vừa nói vừa cười, đôi giọt mồ hôi lăn dài trên hai bầu má ửng hồng của em, có lẽ do chạy nhảy nhiều mà thành, trò chuyện dăm ba câu nữa, rồi Lượm vội từ biệt tôi, chắc em lại đi đưa thư liên lạc nữa. Tôi nhìn theo bóng Lượm mà lòng vừa cảm phục, vừa ngưỡng mộ, bởi thuở ấu thơ mấy ai đã được như Lượm, hăng hái xung phong vì Tổ quốc, đúng là Trường giang sóng sau xô sóng trước. Chỉ mong Lượm có thể bình an hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, sau này lớn lên lại thành một chiến sĩ dũng cảm, chinh chiến sa trường. Tôi cũng lặng lẽ khoác ba lô quay bước trở về Hà Nội. Tạm biệt Huế! Tạm biệt Lượm! Tháng 6/1949, tôi nhận được thư nhà báo tin dữ của Lượm (bởi tôi vẫn thường viết thư hỏi thăm nhà và cũng nhân tiện hỏi thăm chú bé Lượm), tôi bàng hoàng và thương cảm nhiều hơn cả. Lượm nay còn đâu nữa, em đã hi sinh anh dũng trong một lần làm nhiệm vụ, thư không nói nhiều về sự hi sinh của Lượm nhưng cũng đủ để tôi tưởng tượng ra viễn cảnh ấy. Vẫn như ngày nào Lượm mang vào cái xắc nhỏ, bỏ bức mật thư đề chữ "Thượng khẩn", băng qua cánh đồng em vẫn từng thân thuộc, mặc kệ mọi hiểm nguy em chỉ nghĩ làm sao đưa được thư đến tay người nhận. Và rồi súng đạn của giặc nào có tiếc thương cho tấm lòng yêu nước trong sáng mà nhiệt thành của em, chúng nỡ giết em khi tuổi đời còn chưa chớm, em ngã xuống trên cánh đồng bất tận, dưới thân em là mùi thơm hương lúa mới, trước mắt em là bầu trời xanh bất tận. Và cũng là lần cuối em được thấy mảnh đất và bầu trời tươi đẹp của quê hương. Tôi nhắm mắt, để không cho nước mắt tuôn rơi, tôi viết tặng em bài thơ đề "Lượm" để mãi ghi nhớ sự hi sinh anh dũng của người giao liên nhỏ tuổi mà tôi mãi còn đặt trong ký ức. Đất nước sẽ nhớ bóng hình em, máu em đã tô thắm cho nền độc lập tự do của dân tộc. Vĩnh biệt em, Lượm!
Tham khảo:
Dàn bài chi tiết a. Mở bài- Giới thiệu về em Lượm.
- Trong kháng chiến, nhiều thiếu nhi đã tham gia và hy sinh anh dũng.
- Lượm là một trường hợp rất đáng thương và cảm phục.
- Cuộc gặp Lượm tại Huế
- Giới thiệu cuộc gặp
- Miêu tả chân dung Lượm.
- Trò chuyện với Lượm.
- Chia tay.
- Trường hợp hy sinh của Lượm
- Giới thiệu người chứng kiến ra kể.
- Lượm nhận nhiệm vụ liên lạc.
- Lượm hi sinh, cảnh tượng hi sinh.
- Lòng thương tiếc.
- Ý nghĩ của em về cái chết của Lượm: Lượm là tấm gương sáng của thiếu nhi Việt Nam yêu nước.
1. Mở bài: Giới thiệu chung về Lượm và về nỗi thương tiếc đối với chú bé liên lạc ấy.
2. Thân bài: Kể về chú bé hồn nhiên và anh dũng:
(1) Qua hồi ức về cuộc gặp gỡ giữa hai chú cháu ở Huế Trong những ngày đầu kháng chiến.
(2) Câu chuyện vể chuyến liên lạc cuối cùng và sự hi sinh của Lượm.
3. Kết bài: Cảm nghĩ cửa người kể chuyện
1. Mở bài: Giới thiệu chung về Lượm và về nỗi thương tiếc đối với chú bé liên lạc ấy.
2. Thân bài: Kể về chú bé hồn nhiên và anh dũng:
(1) Qua hồi ức về cuộc gặp gỡ giữa hai chú cháu ở Huế Trong những ngày đầu kháng chiến.
(2) Câu chuyện vể chuyến liên lạc cuối cùng và sự hi sinh của Lượm.
3. Kết bài: Cảm nghĩ cửa người kể chuyện
Việt Nam là một đất nước anh hùng, chiến tranh nổ ra thì mọi người dân Việt Nam đều đồng khởi đứng lên đấu tranh, chống lại quân cướp nước. Điều đáng nói là trong dân tộc anh hùng đó, không chỉ có những bậc nam nhi đầu đội trời chân đạp đất làm nên những chiến công vang lừng, mà ngay cả những người phụ nữ, người già, trẻ em cũng đều trở thành những người chiến sĩ quả cảm khi đất nước đứng trước màn đêm nô lệ. Ta có thể nghe nói đến sự anh dũng của của những bậc nữ trung hào kiệt như: Hai Bà Trưng, bà Triệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, Võ Thị Sáu…nhưng những tấm gương về những đứa bé anh hùng khiến chúng ta bất ngờ, khâm phục. Một trong những cậu bé anh hùng đó chính là chú bé Lượm.
Đó là những ngày chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà cụ thể là vào năm 1949, khi thực dân Pháp dáo diết đàn áp cách mạng Việt Nam, mở những cuộc tấn quy mô lớn lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt Đảng, tiêu diệt chính phủ, kết thúc chiến tranh. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn nhưng những người dân Việt Nam không hề lùi bước mà kiên cường đấu tranh chống Pháp. Một trong những việc quan trọng nhất của cách mạng ngày ấy chính là công tác liên lạc giữa chiến khu với các địa phương trong cả nước. Và người thực hiện những công tác liên lạc đó không chỉ thành thạo đường mà còn phải vô cùng dũng cảm, bởi trên đường đưa tin bất cứ lúc nào cũng có thể bị giặc bắt hay bị đạn lạc của chiến tranh làm cho hi sinh.
Và điều bất ngờ hơn cả là trên mảnh đất của những anh hùng ấy, không chỉ có những người trưởng thành có ý thức chiến đấu chống giặc, mà ngay cả những cậu bé mười hai mười ba tuổi cũng tràn lòng căm thù và tinh thần chống giặc sâu sắc. Cậu bé Lượm là một cậu bé như vậy, dù còn nhỏ tuổi nhưng Lượm đã tình nguyện xung phong làm công tác đưa tin cho cán bộ. Ở độ tuổi của Lượm thì quân giặc cũng mất cảnh giác hơn, nhưng không phải vì vậy mà tránh được những hiểm nguy cận kề của chiến tranh. Hành trình đưa tin của Lượm không phải chỉ trải qua một hai khó khăn, mà đôi khi chỉ một hành động bất cẩn cũng có thể khiến em hi sinh, nhưng ở cậu bé Lượm luôn có tinh thần lạc quan yêu đời, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi, kể cả khi em đã hi sinh cho đất nước thì nụ cười ấy cũng chưa bao giờ tắt.
Lượm là một chú bé tầm mười hai, mười ba tuổi, dáng vẻ hồn nhiên đáng yêu thể hiện ra ngay ở hình dáng bên ngoài của em, đó là một chú bé có vóc dáng nhỏ bé, loắt choắt, đầu đội chiếc mũ ca nô, nhưng sự đáng yêu thể hiện ngay trong cách đội mũ ấy. Bởi Lượm không đội ngay ngắn bao giờ, lúc nào cũng đội lệch, cái đầu thì nghênh nghênh, miệng lúc nào cũng huýt sáo, hát lên những bài hát đầy vui vẻ. Dáng vẻ tươi vui, bước chân nhanh nhẹn khiến cho người nhìn liên tưởng em như những chú chim chích với đôi chân nhảy nhanh thoăn thoắt trên đường.
Trên đường làm công tác liên lạc, Lượm gặp nhiều những người lính, những người bộ đội đang làm nhiệm vụ. Cậu bé rất lễ phép, hễ gặp ai thì cũng chào hỏi nhiệt tình, khi được các chú hỏi han thì cậu bé rất tự hào nói với các chú rằng: Cháu đang làm công tác liên lạc, khi những người lính hỏi cậu bé không sợ à? Thì cậu bé rất khảng khái thể hiện được niềm yêu thích với công việc liên lạc của mình: Thích lắm chú ạ. Và điều khiến cho những người lính khâm phục hơn nữa ở cậu bé này, chính là tinh thần kiên cường, dũng cảm của cậu bé, chú nói ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà. Có lẽ cái “thích” mà cậu bé Lượm nói đến đó chính là cái ý nghĩa cao đẹp của công việc liên lạc mang lại.
Lượm là cậu bé vô cùng vui vẻ, hài hước, trước khi chia tay những người lính, cậu bé đã để tay lên đầu, đứng nghiêm trang và nói “Thôi, chào đồng chí” với khuôn miệng chúm chím nụ cười dễ thương. Có thể thấy dù hồn nhiên, yêu đời nhưng Lượm lúc nào cũng ý thức được nhiệm vụ của mình, bởi công tác liên lạc đòi hỏi sự bí mật, nhanh chóng nên dù vui khi được gặp những người lính thì chú bé cũng đều chủ động nói lời chia tay và tiếp tục lên đường. Nhưng, không khí chiến tranh quá khốc liệt, vì một bức thư “Thượng Khẩn” không thể chậm chễ nên Lượm đã vượt qua mưa bom bão đạn, không để ý đến sự an nguy của bản thân mà muốn nhanh chóng đưa thông tin cho cán bộ, bởi sự tình đang vô cùng cấp thiết.
Nhưng, thật đau lòng thay, viên đạn vô tình, khốc liệt đã gim vào người em, Lượm ngã xuống, miệng vẫn lấp lánh tia cười đầy hồn nhiên. Lượm đã hi sinh dũng cảm cho đất nước nhưng trong tâm thức của người Việt Nam, em luôn bất tử, lúc nào cũng là một cậu bé hồn nhiên, đội chiếc mũ ca nô lệch, miệng huýt sáo vang
Phần Kết bài và Mở bài ok, nhưng bạn còn thiếu mất phần trò chuyện giữa Tố Hữu và Lượm
"Bỗng loè chớp đỏ,
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ,
Một dòng máu tươi!"
Giọng đọc của cô sáng nay cứ vang vọng bên tai tôi, đưa tôi chìm vào giấc ngủ...
Tôi đang ở giữa cánh đồng cùng lũ trẻ con gần nhà bà ngoại. Trên tay chúng tôi là những chiếc diều với hình thù ngộ nghĩnh. Bây giờ đang là buổi sáng. Bầu trời hôm nay không xanh trong như mấy hôm trước mà pha chút sắc trắng của những chòm mây bồng bềnh. Nắng rải đầy khắp cánh đồng. Màu nắng với màu lúa chín quyện vào nhau tạo nên sắc vàng rực rỡ của ngày mùa. Đang mải miết chạy theo những cánh diều trên con đường nhỏ hẹp ven ruộng, tôi thấy một chú bé chạc tuổi chúng tôi đang tung tăng trên đường, ngược hướng với chúng tôi. Chú không đi chơi thả diều như chúng tôi. Tôi cũng không thấy chú giống vẻ đi chơi. Chú ta mặc một bộ quần áo như các chiến sĩ vệ quốc tôi từng thấy trong tranh ảnh, đầu đội chiếc mũ ca lô hơi chếch về một bên. Tới gần, tôi mới để ý vẻ mặt vui tươi, hồn nhiên của người bạn đặc biệt này. Một đứa trong nhóm tụi tôi cất tiếng:
- Cậu đi đâu đó?
Cậu bạn dừng chân đáp lời:
- Tớ đi công việc. Còn các cậu?
Tôi bèn nói:
- Nhìn thế này còn hỏi? Bọn tớ đang chơi thả diều.
Chú bé gương mặt nghĩ ngợi rồi mỉm cười:
- Thế à? Vui thế nhỉ?
- Tớ thấy cậu quen lắm! - Tôi liền nói khi trong đầu cứ mang mang mình từng gặp người này ở đâu đó.
- Tớ là Lượm. Tớ thường đi qua cánh đồng này. - Cậu bạn đáp.
"Lượm? Chú bé Lượm mà tôi đã học trên lớp ư? Thật diệu kì!" - Tôi ngạc nhiên nghĩ.
- Thôi! Các cậu chơi vui nhé! Tớ phải đi rồi! - Cậu bạn vẫy tay chào tạm biệt chúng tôi.
Tôi dõi theo bóng dáng chú Lượm. Đúng là Lượm rồi! Đôi chân chú thoăn thoắt, vừa đi vừa huýt sáo vang. Bóng chiếc mũ ca lo của cậu dần khuất sau đám lúa vàng. Tôi vẫn ngẩn người nhìn theo. Bỗng trên vòm trời xanh xen trắng kia xuất hiện những chiếc máy bay khổng lồ. Như biết trước chuyện gì sẽ xảy đến, tôi chạy lao về phía Lượm, gọi theo mãi nhưng chẳng thấy cậu dừng. Từ trên cao, chiếc máy bay thả bom xuống cánh đồng. Một tiếng nổ dữ dội vang lên. Chiếc mũ ca lô của chú bé Lượm tinh nghịch ban nãy biến mất. Tôi chỉ thấy trên cánh đồng là hình ảnh Lượm đang nằm. Những giọt máu đỏ tươi khẽ chảy trên những lá lúa vàng. Miệng chú vẫn vẻ vui tươi. Tôi cố chạy thật nhanh đến bên cậu. Nhưng chạy mãi, chạy mãi vẫn không tới.
"Ai xôi lạc, bánh khúc đi..." - Tiếng rao lớn dưới lòng đường làm tôi chợt tỉnh giấc. Dưới ánh mờ của chiếc đèn ngủ, tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ. 11 giờ đêm! Thì ra tôi vừa nằm mơ. Một giấc mơ diệu kì! Một cuộc gặp thoáng qua nhưng đầy ấn tượng. Hình ảnh Lượm trong bài giảng của cô quả thực ấn tượng mạnh với tôi.
Đất nước Việt Nam có rất nhiều vị anh hùng. Trong đó, Võ Thị Sáu chắc hẳn là nữ anh hùng vô cùng nổi tiếng, được mọi người biết đến với lòng dũng cảm, gan dạ.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Những câu chuyện kể về chị Võ Thị Sáu vẫn còn được lưu truyền.
Ngay từ khi còn nhỏ, Võ Thị Sáu đã theo anh gia nhập Việt Minh. Chị gia nhập vào đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp. Chị còn nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.
Vào tháng 7 năm 1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Dù nhiệm vụ gian nan, có phần nguy hiểm nhưng chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Xe tỉnh tới, chị tung lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh. Hai tổ công an xung phong đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho chị Sáu rút an toàn. Người của Việt Minh được bố trí trong đám đông hô to “Việt Minh tiến công” và hướng dẫn người dân giải tán. Sau nhiệm vụ này, chị Sáu được tuyên dương khen ngợi và giao nhiều nhiệm vụ quan trọng khác.
Sau này, chị bị địch bắt, đày đến nhà tù ở Côn Đảo. Dù chị bị xử tử hình, nhưng vẫn giữ được khí tiết của người cách mạng. Chị Võ Thị Sáu được truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1993.
viết về lượm
Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân ta quyết hi sinh tất cả để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do mà dân tộc ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc Pháp tấn côngvào Huế (1947). Không khí những ngày đó thật sôi sục. Nhân dân Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đoàn kết một lòng đánh giặc.
Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy? Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca lô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao! Chú bé cười, phô hàm răng trắng đều rồi sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước.
Ồ! Thì ra là Lượm! Đứa cháu bé bỏng thân yêu của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như anh chiến sĩ vệ quốc thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:
- Cháu làm liên lạc chú à! ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu thấy vui ghê! Cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm liên lạc... Nhiều thứ lắm!
Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ửng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, chào tôi: "Thôi, chào đồng chí! " kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì cháu đã trở thành đồng chí, đồng đội của tôi - một đồng đội tí hon.
Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao lệnh của cấp trên tận tay những người chỉ huy trận đánh. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu đã ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi...
Mỗi khi nghĩ đến Lượm, tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô, miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hoà ánh nắng.
Bài bạn làm thế là khá được rồi đó
Chỉ cần kiểm tra lại lỗi dùng từ đâu !
Mình nghĩ nếu cô giáo bạn chấm sẽ là 8 hoặc 9 điểm đó ^_^
Tham khảo thôi nha !!!
Ngày chiến tranh chống giặc Pháp bắt đầu, Lượm vào Huế và tình cờ gặp được người chú của mình. Tuy chỉ mới mười. mười một tuổi nhưng cậu đã xin được theo các chú bộ đội đi làm nhiệm vụ liên lạc và đã được các chú đồng ý. Lượm có vóc người nhỏ nhắn gầy gò nhưng lại dẻo dai, linh hoạt. Nhiệm vụ đi liên lạc là 1 nhiệm vụ nguy hiểm nhưng Lượm lúc nào cũng giữ được vẻ hồn nhiên yêu đời. Lượm mặc bộ đồ đội viên đã sờn cũ, bám bẩn bao nhiêu là khói bom, bụi đường. ... Tôi đâm đắm nhìn ra phía xa...
Trước mặt tôi là một khung cảnh hoang tàn, đổ nát. Những mái nhà sụp vỡ, những mảng tường tan hoang. Cánh đồng làng đang mùa trổ bông mà ruộng nào ruộng nấy gãy rạp từng mảng, loang lổ những vết cháy đen. Đường quốc lộ thì nham nhở những hầm hố ổ gà, nhìn hết sức bi thương. Không chỉ vậy, từ xa, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng súng nổ đì đùng. Bất chợt, có một tiếng nói cất lên phía sau tôi:
- Chào bạn! Tại sao bạn không đi tản cư mà lại ngơ ngác ở đây? Bạn có nghe tiếng súng rất gần đó không?
Tôi giật mình nhìn lại: một cậu bạn trạc tuổi tôi, gương mặt sáng láng, nụ cười tươi tắn, mũ ca lô đội lệch nhìn nghịch ngợm hết sức; trên vai cậu ấy còn đeo một chiếc túi xắc xinh xinh. Nhìn cậu bạn dễ thương, tôi trấn tĩnh lại rồi hỏi:
- Chào bạn! Bạn là ai? Và đây là đâu hả bạn?
Nụ cười lại lấp lánh trên đôi môi của người bạn mới gặp:
- Bạn không biết mình đang ở đâu ư? Bạn dang đứng ở Thừa Thiên Huế. Còn tôi, tên tôi là Lượm.
- Lượm! Có phải anh Lượm làm liên lạc trong một bài thơ của nhà thơ Tố Hữu?
Bạn ấy lắc đầu:
- Mình bằng tuổi bạn đấy, đừng xưng hố như thế. Chắc gia đình bạn tản cư, bạn bị lạc đường mất rồi. Bạn có nhìn thấy cái cây cổ thụ phía xa kia không? Bạn chịu khó đi đến đó hỏi đường các chú cảnh vệ nhé. Mình phải đi bây giờ, mình đang vội lắm!
Lượm toan rảo bước chân đi nhưng tôi phần vì không muốn rời xa người bạn đáng mến mới quen như thế, phần vì tò mò (bom đạn thế này sao bạn ấy không đi tản cư như mình mà định đi đâu?) nên vội níu áo bạn:
- Ấy khoan! Cậu đi đâu mà vội thế?
- Mình là liên lạc của Việt Minh! - Cậu bạn tự hào trả lời. Khi nói câu này, mặt cậu ấy còn hơi nghênh lên rất ngộ! - Mình đi làm việc như mọi ngày thôi, đưa thư cho các cán bộ trong tỉnh, trong huyện,...
Trời ơi! Thật vậy không? Một cậu bé nhỏ xíu bằng tuổi tôi? Mà dám đi làm liên lạc cho cách mạng?
- Thế... thế cậu có sợ không?
- Ừ... Sợ thì cũng có sợ chứ. Tớ mấy lần bị đạn bắn hút chết. Có lần bị thương thật rồi đấy, nằm mấy ngày liền. Nhưng đất nước có chiến tranh ai cũng phải góp sức mình cho Tổ quốc. Hơn nữa, cứ ở nhà mà nghe tin này, tin nọ của ta, của địch sốt ruột lắm, mình thấy chân tay như thừa cả ra ấy, chỉ muốn góp chút sức mình cùng với mọi người. Mình làm liên lạc, đi lên đồn Mang Cá với các anh các chị trên ấy vui lắm! Thôi chào bạn nhé! Minh đi đây!
Tôi ngỡ ngàng nhìn bóng Lượm thoăn thoắt trên con dường đầy thương tích. Cậu ấy đang chữa lành vết thương cho những con đường đấy! Để tin tức của ta không vì bom bạn mà đứt quãng. Nhìn từ xa, tôi chỉ thấy một dáng hình nhỏ nhắn nhưng lanh lẹ, chiếc xắc lắc lên đập xuống theo nhịp chân sáo của Lượm; nhất là cái mũ ca lô, Lượm đã vào những bờ lúa mà chiếc mũ vẫn nhấp nhô thoắt ẩn thoắt hiện. Nắng đang lên nhẹ rải những ánh vàng trên con đường Lượm đi...
Thế rồi một tiếng súng nổ vang vọng cả trời đất. Lượm ngã xuống trên cánh đồng lúa. Dù đã ra đi nhưng hình ảnh cậu nằm trên thảm lúa,tay nắm chặt bông trông thanh thản như đang ngủ. Gió thổi nhè nhẹ làm đồng lúa gợn sóng, vang lên những âm thanh xào xạc như bài ca ru Lượm vào giấc ngủ. Thiên nhiên nhẹ nhàng mở rộng vòng tay ôm Lượm vào lòng. Lượm đã mãi mãi ra đi.
Tôi không dám đi tiếp theo dòng suy tưởng của mình. Bừng tỉnh, tôi thấy trời đã khuya lắm, hàng xóm xung quanh đã tắt điện cả rồi. Rất nhiều năm trước, có biết bao anh hùng nhỏ tuổi đã ngã xuống để hôm nay tôi có dược những đêm yên bình thế này. Tôi bâng khuâng nhớ về Lượm nhớ về các anh với niềm cảm phục vô hạn. Tôi đã toan cất sách đi ngủ nhưng lại tiếp tục giở trang học tiếp bài còn đang sang dở...Dù dã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ nhưng hình ảnh cậu bé Lượm hồn nhiên ngày nào sẽ luôn sống mãi trong tim mọi người. Lượm đã truyền tình yêu dân tộc, yêu hòa bình vào mọi người.Lượm quả thật là tấm gương sáng về tình yêu quê hương, đất nước cho chúng em noi theo.
Chúc bạn học tốt!
Tham khảo: