...">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 3 2018

Đến gặp nhà thơ Y Phương, tác giả của bài thơ ''Nói với con'' tại nhà riêng của ông, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên với nhà thơ người dân tộc Tày này. Cánh cửa nhà mở toang, vọng ra tiếng ông đang ngâm một bài thơ tiếng Tày đầy sảng khoái. Khi chúng tôi tới, ông vừa gò lưng lau nhà vừa hát thơ. Ngẩng đầu lên, ông tươi cười, thay cho lời chào đáp lại ông nói:“nghề chính của tôi là tạp vụ, có nghề phụ làm thơ.”
* Đó là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn!
Sốngtrên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người xấu, mà chỉ có những tính xấu như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo, sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành “phân”, để “bón” cho cây cối và làm giàu cho đất cát.
Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa.

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Tày.

Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên tôi không biết đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm của tôi đã được đông đảo các em học sinh đón nhận. Với những tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện nay thì một tác phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác phẩm của mình.

Bài thơ “Nói với con”, dù thấy chẳng có gì đặc biệt hay, nhưng cũng khiến nhiều người băn khoăn . Chẳng hạn trong bài thơ có hai câu:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Đấy là hai câu chốt của bài thơ “Nói với con”. Thế nhưng, nhiều giáo viên dường như chưa hiểu hàm ý của hai câu thơ. Nên khi giảng bài, họ chỉ dựa vào hướng dẫn trong SGK là chính. Thực ra, theo tác giả, ý nghĩa của bài thơ khác hơn nhiều. Nó cao và sâu hơn câu chuyện về tình phụ tử. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Văn hóa dân tộc là tài sản lớn. Giữ cho mình và giữ cho con cháu mình.

25 tháng 2 2018

Cha và Con

Cha
hôn gò má trẻ
xoa đầu con cha cười
ánh mắt soi vào tim đứa bé
sưởi ấm tâm hồn của trẻ thơ
thắp sáng lên một góc trời
cha và con nhìn thấy
cha già còn đấy
tóc đã bạc
lưng còng
những ngày vất vả
có lúc chong đèn cha thức suốt
nghe hạt mưa lộp độp ở mái nhà
chỉ có trời mới hiểu hết tình cha
nó rộng lớn bao la hơn biển cả
rồi những lúc ngoài trời trở gió
cha lặng im ngước nhìn đây đó
tìm thân con sờ soạng trên gường
thằng nhỏ này co quắp thấy thương
cha thắp nến tìm chăn đến đắp
khi lúa thất, bão giông tới tấp
con lên đường tìm lấy cái ăn
sợ đứa con xa xứ nhọc nhằn
sợ xa vắng không ai chăm sóc
nay con lớn hai màu trên tóc
thấm thía đời nước mắt của cha
thời gian trôi thêm lấy cái già
còn vất vả nợ trần, cơm, áo
cha ơi! Con đã lớn nhanh như Thánh Gióng
và sẽ tung hoành giữa sóng lớn gió to
con sẽ sống với những gì cha mong ước
hãy tin con! Cha mãi mãi trong lòng

8 tháng 3 2019

Cha kính yêu!

Cảm ơn cha vì tất cả. Nhận được thư cha gửi con càng hiểu ra rằng cha thương yêu con nhường nào. Tình yêu thương mà cha dành cho con tựa như lá của cây trong rừng, trong lành như con suối trong thung. Con lớn lên, khôn lớn trưởng thành như thế này là nhờ bàn nay nuôi nấng chăm sóc, quan tâm của cha mà thành. Cha dạy dỗ con những điều mà con người ta nên làm. Con sẽ sông như lời cha dặn, sẽ cố gắng cống hiến sức mình cho quê hương, cho đất nước mình ngày càng tươi đẹp. Cha luôn bên cạnh con trên suốt chặng đường mà con bước. Ngày thơ bé cha và mẹ bên con nhìn con những bước đi chập chững vào đời, rồi dần con trưởng thành cha bên cạnh dạy dỗ chỉ bảo con thành người. Dưới sự chỉ bảo của cha, con hiểu được rằng:” rừng cho hoa”,” con người cho những tấm lòng”. Con hiểu rằng bản thân mình phải sống như thế nào để cống hiến hết mình vì Tổ quốc, quê hương. Cho dù đường đời có chông gai thế nào, con phải " lên thác xuống gềnh" ra sao thì con vẫn sẽ luôn cố gắng làm mọi điều có thể, con sẽ không giục ngã trước thất bại. Cha, con nhất định sẽ làm được, con sẽ cố gắng hết để xây dựng quê hương, đất nước, báo ơn Tổ quốc.

Con yêu cha.

5 tháng 5 2020

1. Tham khảo bài viết trên Giáo dục thời đại:

1. Sang thu gồm mười lăm câu thơ, chia làm ba khổ, cả bài thơ chỉ có một dấu chấm (.): Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về, tiếp đến là quang cảnh đất trời vào thu, và bài thơ được kết lại bằng những biến chuyển trong lòng cảnh vật và suy ngẫm của nhà thơ trước cuộc đời. Theo mạch vận động của tứ thơ, cảnh vật tựa hồ như một cuốn phim quay chậm dần hiện lên. Vẻ đẹp của bài thơ nằm trong chính mạch chuyển vận tinh tế ấy.

Sang thu được chia làm ba khổ khúc chiết, nhưng nhịp thời gian chuyển dịch qua ba khổ thật khó phân định. Từ đầu đến cuối bài thơ các hình ảnh thơ, trạng thái sự vật đều mang hơi thu, dáng thu. Đó là hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ và hàng cây đứng tuổi… Nhưng thật ra, trong sự dính liền của hệ thống hình ảnh, vẫn có một sự chuyển vận của tự nhiên, của vạn vật khi đất trời sang thu.

Cả bài thơ đều nằm trong sự vận động sang thu, nhưng mỗi khổ thơ mang một dáng vẻ: Khổ một, cảnh vật là những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đâu đó của mùa thu từ góc nhìn vườn ngõ Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về; Khổ hai nghiêng về cảnh sắc thiên nhiên, mây trời, sông nước chuyển mình sang thu Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã, Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu; Khổ ba nghiêng về những những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi.

Có thể thấy, ba khổ thơ làm nên hành trình chuyển vận của thiên nhiên: Từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ ngoài vào trong… Sự chuyển vận tinh tế nhưng cũng rất mãnh liệt. Từ sự chuyển vận của tứ thơ trên bề mặt câu chữ của bài thơ Sang thu, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “mạch cảm nghĩ” của thi sĩ trước mùa thu: “Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một …Hình như thu đã về, là đến niềm say sưa ở khổ hai …

Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu, và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm …Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu: Bất giác, khổ hai: Tri giác, khổ ba: Suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hóa sang nhau trong cùng một dòng tâm tư. Chúng đan dệt với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi, phức tạp”.

Như vậy, rõ ràng là trong thế giới nghệ thuật của bài thơ Sang thu có một sự chuyển vận của đất trời và của dòng cảm xúc nhà thơ. Cấu trúc của chỉnh thể nghệ thuật ấy được tạo bởi sự chuyển vận ngầm đã mang lại cho người đọc những khám phá lý thú và bất ngờ.

2. Mở đầu bài thơ ta bắt gặp tiếng reo vui khi hồn thơ bất giác nhận ra những tín hiệu báo thu về:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Trong thơ thu, người đọc đã từng bắt gặp lá thu rơi trong thơ Lưu Trọng Lư, áo mơ phai dệt lá vàng trong thơ Xuân Diệu; hương cốm mới, cái chớm lạnh, xao xác hơi may trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Với Hữu Thỉnh, thu về bằng hương ổi, và gió se. Trong nhịp bước âm thầm của thời gian, đất trời chuyển từ mùa hạ sang thu, gió thu nhẹ nhàng mang theo chút hơi “se” rất đặc trưng của mùa thu Đồng bằng Bắc bộ, hương ổi “phả” vào trong gió, lan tỏa vào không gian. Đây thực sự là những hình ảnh đặc trưng của mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc, gần gũi với con người Việt Nam.

Trong “Lời tự bạch với Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh từng trầm ngâm kể: “…giữa đất trời mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ, điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra, đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta”.

Đến hai câu tiếp theo trong khổ đầu của bài thơ, chúng ta bắt gặp sự chuyển vận của đất trời rất tinh tế. Sự vật đang ở thế vận động mạnh - hương ổi “phả”, gió “se”, bỗng như chùng lại:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sương thu như muốn đọng lại, lưu luyến, ngập ngừng trong sự chuyển dịch chầm chậm qua ngõ. Từ láy “chùng chình” đặt giữa câu thơ tạo nên sự ngắt quãng nhịp nhàng (Sương/ chùng chình/ qua ngõ), mà vẫn chứa đựng sự chuyển vận của sương trong không gian thong thả, yên bình. Biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu thơ “Sương chùng chình qua ngõ”, như để diễn tả sự cố ý trong chuyển động chậm của sương. Nó như muốn giăng mắc vào giậu rào, níu vào nhành cây khô đâu đó ở trước ngõ, đầu thôn. Ở đây, sương mang vẻ duyên dáng, yểu điệu như bóng hình thiếu nữ chưa muốn rời bước trước ngõ nhà ai. Trong cái “chùng chình” của sương, có sự níu giữ của hồn thơ, có vẻ tư lự của thi sĩ trước thời khắc giao mùa.

Trong sự chuyển mình tinh tế của cảnh vật nhà thơ nhận ra “thu đã về”. Sự hiện hữu của nó cũng không thật rõ, nhà thơ chỉ phỏng đoán bằng cảm nhận -“hình như”.

3. Nếu ở khổ thơ mở đầu, tín hiệu mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ thì đến khổ thơ thứ hai, cùng với dòng chảy thời gian, thu bước ra khỏi thời khắc giao mùa, hiện hình rõ nét. Mùa thu đi từ ngõ để đến với không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Hơi thở của thu, đến đây đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ, không phải “hình như”nữa mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Sông vào thu với dòng trôi “dềnh dàng”, thong thả, khoan thai, rất mềm mại và duyên dáng. Trên nền không gian ngưng đọng ấy, có chuyển động vội vã, gấp gáp của đàn chim trời trong hành trình di trú. Sự vận động của đất trời ở thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của cảnh vật.

Từ láy “vội vã” đặt trong vế đối với từ “dềnh dàng” ở câu trên tạo nên mạch vận động từ chậm đến nhanh, từ nhẹ đến mạnh. Phải chăng có sự tương phản giữa sông dềnh dàng và chim vội vã? Dềnh dàng cũng là sự vận động nhưng diễn ra chậm, còn vội vã là nhanh. Quá trình ấy phù hợp với quy luật vận động từ chậm đến nhanh.

Nhịp cầu mong manh giữa hạ sang thu, cuối cùng đã được cụ thể qua đám mây: Vắt nửa mình sang thu. Cả đất trời đang cựa mình thay áo mới. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè đã qua - mây trời vắt nửa mình sang thu.

Hình như trong đám mây còn có làn nắng mùa hè. Hình như trong làn mây đã mang theo chút se của mùa thu. Đám mây mang trên mình cả hai mùa. Bước đi của thời gian trong hình ảnh “đám mây” vừa mãnh liệt lại vừa vô cùng tinh tế. Đó là cái tinh tế của hồn thơ nhạy cảm trước những chuyển vận của tạo vật ở thời khắc giao mùa.

Sang thu âm thầm nhưng thi sĩ vẫn cảm nhận được được sự khẩn trương trong mạch vận động.

4. Ở hai khổ thơ đầu, thu hiện hình bằng hình ảnh, bằng sự chuyển động được nhìn thấy thì ở khổ cuối, thu lắng sâu vào suy ngẫm. Hình tượng thơ, bởi vậy mang tính triết lý sâu xa:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu không phải “hình như… đã về” mà đã hiện hữu trong không gian. Trong sự vận động của tứ thơ, theo mạch cảm, mạch nghĩ (từ bất giác sang tri giác đến suy ngẫm, theo ba khổ thơ), “nắng”, “mưa”, “sấm” không chỉ là hình ảnh tự nhiên mà còn mang tính biểu tượng - cho những sóng gió, thăng trầm trong cuộc đời mà con người phải trải qua.

Rồi đây nàng thu sẽ ngự trị cảnh vật nhưng tác giả vẫn tin rằng hàng cây đứng tuổi vẫn còn đó. Thời gian mang tính lưỡng giá ấy để nhà thơ suy ngẫm trước cuộc đời. Qua bão giông, sóng gió của cuộc đời con người cần vững vàng, điềm tĩnh đón nhận mọi thử thách.

5.Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể được biểu hiện qua mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức. Nếu như nội dung thể hiện tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của người nghệ sĩ thông qua các chất liệu lấy từ cuộc sống thì hình thức là hình tượng, thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, nói cách khác là hệ thống các phương tiện diễn đạt để chuyển tải nội dung của người nghệ sĩ. Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Sang thu là một bài thơ như thế.

Sang thu được viết bởi thể thơ năm chữ. Sự lựa chọn thể thơ xuất phát từ sự đòi hỏi của nội dung, từ cái nhìn của tác giả, cái mạnh của thể thơ năm chữ là chất hoài niệm, hễ non tay thì thành vè (Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ, tr.104). Chọn thể thơ này là một thử thách nghệ thuật, bởi thơ năm chữ còn gọi là thơ ngũ ngôn có cội nguồn là thể thơ truyền thống có mặt trong các sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao, tính chất cổ kính cùng với sự hạn chế về câu chữ khó diễn đạt tình cảm. Tuy nhiên, một số nhà thơ như Xuân Quỳnh với Sóng; Hữu Thỉnh với Sang thu đã rất thành công ở thể thơ này với chỉnh thể chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa vần với nhịp:

Theo vị trí hiệp vần, Hữu Thỉnh sử dụng vần chân:

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần ông sử dụng vần thông:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Điều khá thú vị ở đây là đường nét thanh điệu của bài thơ, theo thống kê, bài thơ có 60 âm tiết thì có đến 33 âm tiết vần bằng, 27 âm tiết vần trắc. Vấn đề ở đây là có nhiều cặp câu nhà thơ tạo ra sự phối thanh nhịp nhàng, nếu câu thơ trước kết thúc bằng âm tiết vần trắc thì câu thơ sau đó kết thúc là âm tiết vần bằng, sự hiện diện của nhiều thanh bằng. Ví như sự phối hợp nhịp nhàng các cặp câu: (bảng 1)

Chính sự hiệp vần ấy tạo nên sự êm ái, nhịp nhàng phù hợp với lối tâm tình và hoài niệm của tác giả.

Theo Mai Ngọc Chừ: Sự ngừng nhịp trong dòng thơ phụ thuộc vào nội dung, ý nghĩa và vào từng thể thơ cụ thể (Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học, tr. 38). Để tránh sự đơn điệu của thể thơ truyền thống trong cách ngắt nhịp, Hữu Thỉnh thể hiện sự tìm tòi đổi mới qua cách ngắt nhịp linh hoạt 2/3: Hình như/ thu đã về; 1/2/2: Vắt/ nửa mình sang thu. Ngoài ra, có nhiều câu không có nhịp cắt giữa dòng, mỗi dòng thơ là một nhịp:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Không gò ép và gọt dũa cầu kỳ, Hữu Thỉnh đã để lại trong lòng người đọc những câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu, cách xử lý nghệ thuật của ông thể hiện sự tìm tòi sáng tạo.

5 tháng 5 2020

Trong kho tàng văn học Việt Nam luôn “tràn đầy” những trang thơ về mẹ. Bởi vậy, không hề khó để ta có cơ hội cảm nhận về người đã “mang nặng đẻ đau” khi tiếp cận với văn chương. Và giữa vùng thơ văn dạt dào tình mẹ, Y Phương đã lấp đầy khoảng trống để ca ngợi cha và tình cha. Nói với con là tác phẩm hay nhất của nhà thơ miền núi thể hiện chân thực tình cảm thương yêu vô bờ bến của người cha với đứa con thân yêu. Qua hình ảnh phụ – tử, nhà văn còn nêu ra trước mắt độc giả nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc.


Với cách nói, cách diễn đạt, cách nói ví von qua những hình ảnh cụ thể diễn tả mộc mạc gợi cảm và mạnh mẽ, cả bài thơ là lời khuyên bảo ân cần của người cha đối với con và ước muốn của người cha cũng được thể hiện xuyên suốt bài thơ. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động còn nhiều vất vả, gian lao và thử thách; con sống trong một dân tộc với những truyền thông và đức tính tốt đẹp. Không những thế, qua Nói với con Y Phương còn nêu lên lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ của quê hương và mong ước người con kế tục được những truyền thống tốt đẹp đó của quê nhà.Cả bài thơ là lời tâm sự cùa người cha, giàu cảm xúc, tuy cách diễn tả mộc mạc nhưng vẫn giúp người đọc cảm nhận được hết cái thần, hồn của nó.

Bốn câu thơ đầu bài thơ là tình yêu thương của cha mẹ đối với con:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Một không gian đầm ấm của một gia đình hoà thuận, hạnh phúc gần như được bộc lộ hết chỉ qua bốn câu thơ.Gia đình là cái nôi, là nơi xuất phát mà cha mẹ tạo dựng cho con. Người con lớn lên trong sự yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ và người con lớn lên, trưởng thành bởi sự chở che của cha mẹ, trong không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt.

Người cha không chỉ gợi lại cho con về gia đình mà còn gợi lại cho con nhớ về cội nguồn, nơi nuôi dưỡng dạy bảo con khôn lớn nên người:

Người đồng minh yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Những câu thơ tiếp, người cha không muốn nói gì hơn rằng con đã lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương, con sống trong cuộc sống lao động vất vả, gian lao. Người đồng mình yêu lắm con ơi câu nói gợi tình cảm cộng đồng. Hai câu thơ tiếp theo Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát diễn tả hành động trong các công việc khác nhau. Từ đây người con biết rằng mình lớn lên trong cuộc sống lao động, trong tình cảm nhân hậu của quê hương. Những hình ảnh như đan, ken lại gợi cho ta một sự gắn bó khăng khít giữa người với người, chắc chắn như không thể tách rời.

Những câu thơ tiếp theo:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người cha đã cho người con thấy rõ đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước rất giản đơn của người cha. Ba câu đầu là đức tính cao đẹp của người đồng mình. Cuộc sống lao động dù có vất vả nhưng mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương. Ngoài ra, hai câu thơ Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn còn thể hiện sức mạnh, chấp nhận mọi thử thách và quyết vươn lên băng ý chí của mình. Những đức tính cao đẹp đó người cha muôn truyền lại cho con. Thể hiện trong ước muốn cùa người cha là người con phải tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Cuộc sống dù có khó khăn đến đâu thì cũng phải đứng vững gắn bó với quê hương, không bao giờ được rời bỏ quê hương mà phải vươn lên bằng ý chí của mình.

Người đồng mình thô sợ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé Nghe con.

Lại một đức tính nữa mà người cha muốn truyền cho con: người đồng mình tuy mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Bằng tâm hồn, ý chí của họ, bằng sự lao động cần cù nhẫn nại hàng ngày đã làm nên quê hương với những truyền thống tốt đẹp. Qua đây người cha còn muốn nhắn nhủ với con rằng sống phải có tình, có nghĩa, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận vượt qua mọi gian lao thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Hơn thế nữa, người con còn biết tự hào truyền thống quê hương, tự tin vững bước trên đường đời.

Nhưng xuyên suốt cả bài thơ lại là tình cảm cha con thắm thiết. Đó chính là tình yêu thương trìu mến, thiết tha thể hiện qua niềm tin tưởng của người cha qua lời Nói với con. Điểm lớn nhất người cha truyền cho con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ, cuộc sống cao đẹp của quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Với giọng thơ tha thiết trìu mến, ở các lời tâm tình dặn dò với cách dẫn dắt rất tự nhiên Y Phương đã tạo nên sự gắn bó, tình yêu thắm thiết giữa cha và con.

Nói với con là một thành công lớn trong con đường sự nghiệp của Y Phương. Với những lời nói rất đỗi mộc mạc và giản dị tình cảm cha con hiện lên là một tình cảm vô cùng thắm thiết và cao đẹp. Bài thơ là lời khuyên bảo và ước mong của người cha đốì với con, muốn con kế thừa đức tính tốt đẹp của người đồng mình, biết tự hào truyền thống quê hương, yêu quê hương, tự tin trên đường đời và cố gắng vươn lên, vượt qua mọi thử thách để xây dựng quê hương với những truyền thống tốt đẹp.

19 tháng 1 2017

- Tình phụ tử thiêng liêng, ấm cúng.

- Yêu mến truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Hiều thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, thêm yêu quý gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

- Chúng ta từng viện cớ thiếu thốn, khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa, dường như ngày nay các con em dân tộc không mấy mặn mà với truyền thống, họ đang dần tự nguyện nhập ngoại một cách dễ dãi. Nghe lời cha nói, tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không hòa tan. Văn hóa là tài sản vô cùng to lớn.

Ý nghĩa - Giá trị

    Qua bài thơ, học sinh cảm nhận được tình cảm gia đình ấm cúng, truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mà tác giả Y Phương đã thể hiện, cụ thể là sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, từ đó tác giả gợi nhắc những tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống của con người.

    Học sinh đồng thời cảm nhận được ý nghĩa của những đặc sắc nghệ thuật trong ngòi bút tác giả: những từ ngữ mang tính chất địa phương miền núi, chân chất, giản dị, những hình ảnh giàu sức gợi, giọng điệu thủ thỉ, tâm tình ngọt ngào.

7 tháng 3 2018

Cha kính yêu!

Cảm ơn cha vì tất cả. Nhận được thư cha gửi con càng hiểu ra rằng cha thương yêu con nhường nào. Tình yêu thương mà cha dành cho con tựa như lá của cây trong rừng, trong lành như con suối trong thung. Con lớn lên, khôn lớn trưởng thành như thế này là nhờ bàn nay nuôi nấng chăm sóc, quan tâm của cha mà thành. Cha dạy dỗ con những điều mà con người ta nên làm. Con sẽ sông như lời cha dặn, sẽ cố gắng cống hiến sức mình cho quê hương, cho đất nước mình ngày càng tươi đẹp. Cha luôn bên cạnh con trên suốt chặng đường mà con bước. Ngày thơ bé cha và mẹ bên con nhìn con những bước đi chập chững vào đời, rồi dần con trưởng thành cha bên cạnh dạy dỗ chỉ bảo con thành người. Dưới sự chỉ bảo của cha, con hiểu được rằng:” rừng cho hoa”,” con người cho những tấm lòng”. Con hiểu rằng bản thân mình phải sống như thế nào để cống hiến hết mình vì Tổ quốc, quê hương. Cho dù đường đời có chông gai thế nào, con phải " lên thác xuống gềnh" ra sao thì con vẫn sẽ luôn cố gắng làm mọi điều có thể, con sẽ không giục ngã trước thất bại. Cha, con nhất định sẽ làm được, con sẽ cố gắng hết để xây dựng quê hương, đất nước, báo ơn Tổ quốc.

Con yêu cha.

7 tháng 3 2018

Cha kính yêu!

Cảm ơn cha vì tất cả. Nhận được thư cha gửi con càng hiểu ra rằng cha thương yêu con nhường nào. Tình yêu thương mà cha dành cho con tựa như lá của cây trong rừng, trong lành như con suối trong thung. Con lớn lên, khôn lớn trưởng thành như thế này là nhờ bàn nay nuôi nấng chăm sóc, quan tâm của cha mà thành. Cha dạy dỗ con những điều mà con người ta nên làm. Con sẽ sông như lời cha dặn, sẽ cố gắng cống hiến sức mình cho quê hương, cho đất nước mình ngày càng tươi đẹp. Cha luôn bên cạnh con trên suốt chặng đường mà con bước. Ngày thơ bé cha và mẹ bên con nhìn con những bước đi chập chững vào đời, rồi dần con trưởng thành cha bên cạnh dạy dỗ chỉ bảo con thành người. Dưới sự chỉ bảo của cha, con hiểu được rằng:” rừng cho hoa”,” con người cho những tấm lòng”. Con hiểu rằng bản thân mình phải sống như thế nào để cống hiến hết mình vì Tổ quốc, quê hương. Cho dù đường đời có chông gai thế nào, con phải " lên thác xuống gềnh" ra sao thì con vẫn sẽ luôn cố gắng làm mọi điều có thể, con sẽ không giục ngã trước thất bại. Cha, con nhất định sẽ làm được, con sẽ cố gắng hết để xây dựng quê hương, đất nước, báo ơn Tổ quốc.

Con yêu cha.

15 tháng 4 2022

xu hc lớp 9 à:)

15 tháng 4 2022

lớp 5 nhưng rảnh quá hết chuyện làm :vv

10 tháng 3 2022

em có thể tham khảo:

Qua lời nói chuyện với đứa con, người cha thể hiện tình cảm, suy nghĩ với quê hương, dân tộc

- Cuộc sống lao động cần cù tươi vui của người đồng mình được nhà thơ gọi lên qua những hình ảnh đẹp:

     + Đan lờ: dụng cụ đánh bắt cá của người miền núi

     + Cuộc sống hòa với niềm vui

     + Rừng núi quê hương thật mơ mộng và nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống

     + Người cha muốn cho đứa con biết quê hương là vùng quê giàu truyền thống văn hóa, nghĩa tình

     + Người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ, mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của quê hương

     + Khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: chăm chỉ, kiên cường, giản dị…

→ Người cha thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với quê hương, người đồng minh.

1.Mượn lời nói với con, nhà thơ nói về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.Bố cục của bài thơ đã thể hiện ý tưởng đó như thế nào? 2.Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương. Hãy tìm và phân tích các câu thơ nói lên điều ấy. 3.Người cha nói với con về những đức tính cao...
Đọc tiếp

1.Mượn lời nói với con, nhà thơ nói về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.Bố cục của bài thơ đã thể hiện ý tưởng đó như thế nào?

2.Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương. Hãy tìm và phân tích các câu thơ nói lên điều ấy.

3.Người cha nói với con về những đức tính cao đẹp gì của”người đồng mình”, từ đó nhắc nhở con trên đường đời cần phải như thế nào?

4. Em cảm nhận như thế nào về tình cảm của người cha đối với con trong bài thơ? Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con qua những lời này là gì?

5.Nhận xét về cách diễn tả tình cảm và suy nghĩ bừng hình ảnh của nhà thơ. (Gợi ý:  Người miền núi thường có cách nói giàu hình ảnh, cụ thể, mộc mạc mà có tính khái quát, giàu chất thơ. Chẳng hạn bốn dòng thơ đầu bài, hay các câu: “ Đan lờ cài nan hoa- Vách nhà ken câu hát”, “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương…)

1
23 tháng 1 2018

1, Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Bố cục của bài thơ thể hiện ý tưởng đó theo hai đoạn:

- Đoạn 1 (từ đầu đến câu "Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"): con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ và quê hương.

- Đoạn 2 (còn lại): lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao đẹp của quê hương.

2, Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ:

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, con còn lớn lên trong sự đùm bọc của quê hương: con người và rừng núi quê hương. Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện (cài nan hoa, ken câu hát) đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng".

3, Người cha nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" là:

- Dễ thương, giàu tình cảm (Người đồng mình thương lắm con ơi)

- Thủy chung, gắn bó với quê hương (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh – Sống trong thung không chê thung nghèo đói)

- Hồn nhiên, mạnh mẽ (Sống như sông như suối - Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc)

- Bản lĩnh, bền bỉ (Cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn - ... Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương)

- Mộc mạc, chân chất mà to lớn, kiêu hãnh (Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con)

Từ đó nhắc nhở con khi lên đường phải nhớ rằng "người đồng mình" yêu lắm, phải giữ gìn truyền thống của người "đồng mình", và điều đặc biệt là không thể nhỏ bé, phải luôn đàng hoàng, bằng anh bằng em.

4, Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

5, Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả, vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

Ngoài ra, còn có thể kể đến bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt rất tự nhiên của tác giả.

về quê hương thăm mộ cha

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghề nông nghèo khổ. Cách đây vài năm vì không có tiền lấy vợ, tôi đã quyết định bỏ đi làm đồn điền cao su mấy năm để kiếm một khoản kha khá về lo cho cuộc sống. Nhưng thật trớ trêu thay, đồn điền cao su hết việc thêm nữa bị bóc lột quá nhiều, không đủ sức làm việc nên tôi quyết định về quê sống gắn bó với đồng ruộng và chăm sóc cha.

Sau khi thu xếp công việc ổn thỏa, tôi trở về quê nhà sau mấy năm xa cách. Quang cảnh làng xóm vẫn thế không có gì thay đổi nhiều, mọi thứ vẫn nguyên vẹn; vẫn là giếng nước gốc đa thân quen. Hít một hơi thật sâu để cảm nhận cái không khí quen thuộc ở nơi mình sinh ra thật sảng khoái. Khi tôi đặt chân vào cửa nhà, điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là thấy nhà cửa không thay đổi nhiều nhưng lại xơ xác, vắng vẻ, đìu hiu. Tôi đi khắp sân vườn tìm kiếm nhưng không thấy bố đâu, không thấy cả Cậu Vàng, nhiều đồ đạc trong nhà bị bám bụi, mạng nhện dăng khắp nhà khiến tôi có chút gì đó lo lắng, bất an. Bỏ đồ đạc gọn vào một chỗ rồi đi dọn dẹp xung quanh cho gọn gàng hơn; tôi dùng số tiền ít ỏi để đi mua đồ về nấu ăn. Cơm nước thịnh soạn vẫn không thấy bố; tôi về đâm ra lo lắng và quyết định đi sang nhà ông giáo - người bạn thân thiết của bố để hỏi thăm.

Ông giáo khi nhìn thấy tôi rất ngạc nhiên pha chút gì đó buồn bã. Tôi gặng hỏi rằng có biết bố mình đi đâu không thì ông giáo ngập ngừng. Tôi linh cảm có chuyện không lành. Ông giáo gọi tôi vào nhà nói chuyện, sau khi tôi ngồi và uống nước, ông giáo từ từ kể lại những chuyện đã xảy ra với cha tôi rằng cha tôi đã sống khổ sở thế nào, ốm đau ra sau, thương tiếc và đau xót khi bán cậu Vàng thế nào; đau xót nhất chính là cảnh bố tôi phải ăn bả chó để tự tử vì đói nghèo và muốn giữ lại căn nhà, mảnh đất cho tôi. Tôi sững sờ, tất cả mọi thứ như sụp đổ trong phút chốc, không dám tin vào sự thật là bố mình đã ra đi mãi mãi. Tôi òa lên khóc nức nở như đứa trẻ con khi ông giáo nói về cái chết đầy thương tâm của bố. Tôi cảm thấy ân hận vì đã bỏ đi làm đồn điền cao su biền biện, không ở bên quan tâm chăm sóc bố, thậm chí là không biết đến cái chết của bố mình; không biết bố đã chịu đau khổ như thế nào trong những ngày cuối đời. Tôi tự dằn vặt, trách móc bản thân. Ông giáo khuyên tôi không nên quá buồn bã mà hãy sống tiếp thật tốt để bố dưới suối vàng được yên lòng. Sau khi ông giáo khuyên ngăn, tôi trở về nhà với tâm trạng vô cùng đau khổ.

Nén nỗi đau vào trong, tôi thu dọn nhà cửa gọn gàng. Ngày hôm sau nhờ ông giáo dẫn ra mộ bố, thắp cho bố nén nhang, hứa với bố sống thật tốt. Tôi đau quặn ruột khi nhìn thấy nấm mồ đã xanh cỏ của bố mình giữa nơi cánh đồng lạnh lẽo. Hai hàng nước mắt lã chã rơi trên má, tôi đứng chôn chân hồi lâu, có quá nhiều thứ muốn nói với bố, lời cảm ơn, lời xin lỗi nhưng tất cả nghẹn bứ trong cuống họng không thốt ra thành lời. Tôi chỉ đứng nhìn ngôi mộ đầy xót xa. Tôi nghe theo lời khuyên của ông giáo, người đi thì cũng đi rồi, tôi có đau xót hay dằn vặt thì bố tôi cũng không quay trở lại, tôi phải sống thật tốt để bố dưới suối vàng được yên lòng an nghỉ. Sau khi thăm mộ bố trở về, tôi chăm chỉ làm ăn, lao động, sống chan hòa với làng xóm, thay bố tiếp tục cuộc đời còn lại thật ý nghĩa.

Đó là kí ức đau buồn nhất trong cuộc đời tôi, cũng là bài học đắt giá giúp tôi trân trọng cuộc sống hơn. Cho đến bây giờ, khi nghĩ lại những việc đã xảy ra, tôi vẫn có chút đau lòng nhưng đó là bài học mà tôi luôn khắc ghi để sống tốt từng ngày.

28 tháng 5 2017

Qua lời nói chuyện với đứa con, người cha thể hiện tình cảm, suy nghĩ với quê hương, dân tộc

- Cuộc sống lao động cần cù tươi vui của người đồng mình được nhà thơ gọi lên qua những hình ảnh đẹp:

     + Đan lờ: dụng cụ đánh bắt cá của người miền núi

     + Cuộc sống hòa với niềm vui

     + Rừng núi quê hương thật mơ mộng và nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống

     + Người cha muốn cho đứa con biết quê hương là vùng quê giàu truyền thống văn hóa, nghĩa tình

     + Người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ, mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của quê hương

     + Khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: chăm chỉ, kiên cường, giản dị…

→ Người cha thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với quê hương, người đồng mình