Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Trong dòng chảy lịch sử đầy biến động của dân tộc Việt Nam, hình ảnh những người anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, hun đúc nên lòng tự hào và ý chí quật cường. Trong số đó, thiếu niên Lê Văn Tám, dù còn nhiều tranh luận về sự tồn tại, vẫn sống mãi trong tâm trí nhiều thế hệ như một biểu tượng bất diệt của lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước. Anh đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ (1926-1947), để lại một câu chuyện bi tráng về sự hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Theo những câu chuyện được kể lại, Lê Văn Tám là một cậu bé giao liên dũng cảm, hoạt động trong lòng Sài Gòn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc sống của một thiếu niên giao liên đầy rẫy hiểm nguy, nhưng anh không hề nao núng. Tinh thần thép và lòng căm thù giặc sâu sắc đã thôi thúc anh hành động. Đỉnh điểm là vào đêm 17 tháng 10 năm 1947, khi quân Pháp gây khó khăn cho quân ta, Lê Văn Tám đã quyết định thực hiện một hành động vô cùng táo bạo và dũng cảm. Anh đã tẩm xăng vào người, biến mình thành một ngọn đuốc sống để phá kho đạn địch tại Thị Nghè.
Hành động của Lê Văn Tám đã gây ra một vụ nổ lớn, thiêu rụi một kho vũ khí và tiếp tế quan trọng của địch, làm chấn động toàn bộ chiến trường Sài Gòn. Hình ảnh ngọn đuốc sống Lê Văn Tám không chỉ là nỗi khiếp đảm đối với kẻ thù mà còn thắp lên ngọn lửa hy vọng và ý chí chiến đấu mãnh liệt cho đồng bào và đồng chí. Câu chuyện về sự hy sinh anh dũng của anh nhanh chóng lan truyền khắp cả nước, trở thành một biểu tượng cho sự hy sinh tận hiến, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Tuy nhiên, vào những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi về tính xác thực của câu chuyện này. Có ý kiến cho rằng hình tượng Lê Văn Tám được xây dựng dựa trên câu chuyện có thật của một chiến sĩ nào đó, nhằm mục đích cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Dù vậy, bất kể Lê Văn Tám có phải là một nhân vật có thật hay không, câu chuyện về anh vẫn mang một ý nghĩa nhân văn và lịch sử sâu sắc. Nó đại diện cho tinh thần của cả một thế hệ thanh niên Việt Nam đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, dâng hiến tuổi thanh xuân của mình cho độc lập dân tộc.
Lê Văn Tám không chỉ là một cái tên, mà còn là một biểu tượng. Biểu tượng của lòng yêu nước nồng nàn, sự dũng cảm phi thường và ý chí bất khuất. Dù có thể không phải là một nhân vật lịch sử cụ thể, anh vẫn là một anh hùng trong trái tim của hàng triệu người Việt, là một minh chứng sống động cho tinh thần chiến đấu quả cảm của dân tộc. Câu chuyện về anh sẽ mãi mãi được ghi nhớ như một bài học vô giá về sự hy sinh vì Tổ quốc, là ngọn đuốc soi sáng con đường cho các thế hệ mai sau.
(copy )
Lời bài hát “Lá xanh” của nhạc sĩ Hoàng Việt nhắc ta về tinh thần yêu nước, nhiệt huyết cứu nước của biết bao thế hệ anh hùng liệt sĩ vùng đất Hải Phòng. Họ là những người con mang “Sức oai hùng đang căng trong toàn thân” để “Ra tuyền tuyến thi tài cùng nhau giết Tây” trong đó phải kể đến liệt sĩ Đàm Văn Cẩm - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Là người con Hải Phòng được sống trong hoà bình độc lập, nhân dịp Kỉ niệm 78 năm ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, chúng ta cùng nhau ôn lại để tự hào và tri ân chiến công của anh.
Sinh năm 1926 tại xóm Sú 2, xã Lâm Động, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đàm Văn Cẩm tham gia dân quân, rồi giữ chức Tiểu đội trưởng Tiểu đoàn tự vệ Quang Trung, tiếp tục chiến đấu trong lực lượng Công an vũ trang của quê hương Thủy Nguyên.
Năm 1947, trong trận càn lớn của thực dân Pháp vào căn cứ Vẹt Khê (xã Phù Ninh), anh xung phong trèo lên cây đa đầu đập làm nhiệm vụ quan sát và phát tín hiệu. Khi giặc lọt vào trận địa, anh kích mìn, ném lựu đạn, khiến quân thù hoảng loạn. Bị thương nặng và rơi vào vòng vây, anh vẫn chiến đấu tới hơi thở cuối cùng, kiên cường ném tiếp hai quả lựu đạn, tiêu diệt thêm nhiều địch trước khi anh anh dũng hy sinh.
Trong trận đánh ấy, quân ta tiêu diệt 30 tên địch, buộc chúng phải rút lui khỏi khu vực Núi Đèo. Còn Đàm Văn Cẩm – người chiến sĩ cảm tử – đã hiến trọn tuổi xuân cho sự sống của bao người, cho tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
Để tưởng nhớ và ghi nhận công lao của anh, ngày 10/4/2001, Nhà nước truy tặng liệt sĩ Đàm Văn Cẩm danh hiệu cao quý: “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Tên anh – người con ưu tú của đất Thủy Nguyên – đã trở thành biểu tượng bất tử của lòng trung kiên và tinh thần sẵn sàng hiến dâng trọn đời cho độc lập dân tộc.
Tấm gương anh đã trở thành bất tử. Tên anh đã hòa vào đất nước. Máu anh tô thắm quê hương.
Thế hệ hôm nay và mai sau nguyện sống xứng đáng với sự hy sinh ấy – giữ trọn niềm tin, lý tưởng và lòng yêu nước mà anh đã gửi lại mảnh đất Thủy Nguyên anh hùng…

Trong giai đoạn 1919 – 1945, dân tộc Việt Nam sống trong ách đô hộ tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, biết bao thế hệ thanh niên ưu tú đã lên đường tham gia phong trào cách mạng. Họ là những chiến sĩ cộng sản, những đoàn viên thanh niên, trí thức yêu nước và cả những người nông dân chân chất nhưng mang trong tim ngọn lửa khát khao giải phóng dân tộc. Nhiều người đã ngã xuống nơi pháp trường, trong nhà tù thực dân hay trên những chiến trường ác liệt. Máu của họ đã tô thắm trang sử vàng của dân tộc, góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhắc đến những liệt sĩ giai đoạn này, chúng ta không thể quên Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, hay những người cộng sản kiên trung như Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Lý Tự Trọng, Phan Đăng Lưu... Họ là những tấm gương sáng ngời của lòng yêu nước, tinh thần quả cảm và niềm tin sắt son vào tương lai của dân tộc.
Hôm nay, sống trong hòa bình, chúng ta càng biết ơn và tự hào về những người đã ngã xuống. Chính sự hy sinh cao cả của liệt sĩ giai đoạn 1919 – 1945 đã hun đúc tinh thần bất khuất, tạo nền móng vững chắc để đất nước ta đi đến độc lập, tự do. Thế hệ trẻ hôm nay cần trân trọng quá khứ, học tập tinh thần yêu nước và tiếp bước cha anh để xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, xứng đáng với sự hy sinh anh hùng ấy.
( Mẫu đó bro )

1. Để khen thưởng, động viên cho những học sinh có thành tích tốt trong năm học vừa qua trường em đã tổ chức một chuyến viếng lăng Bác.
Em rất háo hức và kỳ vọng vì sẽ được nhìn thấy Bác Hồ. Sáu giờ sáng, tất cả các chiếc xe đều xuất phát. Chuyến xe dừng tại lăng Bác lúc bảy giờ ba mươi phút sáng. Ngay khi bước xuống xe cảm giác đầu tiên của em là sự choáng ngợp bởi không gian rộng lớn và sự trang nghiêm, thành kính nơi đây. Đường vào lăng Bác có rất nhiều những chú bộ đội đứng gác lăng, các chú đứng trang nghiêm với khẩu súng trên vai. Các chú bộ đội là người ngày đêm canh giữ, bảo vệ bình yên cho giấc ngủ của Bác, ai cũng có khuôn mặt thật nghiêm trang.
Hôm ấy không chỉ có thầy cô và chúng em đến thăm lăng và còn rất nhiều những đoàn tham quan khác, họ đến từ khắp nơi của Tổ Quốc. Đôi khi em còn bắt gặp những đoàn tham quan của những du khách nước ngoài. Nhìn những đoàn tham quan, em cũng như các bạn đều tràn ngập cảm xúc tự hào.
Sau lễ duyệt binh nghiêm trang, chúng em được các thầy cô hướng dẫn xếp hàng để đi vào lăng. Không gian trong lăng không rộng lắm nhưng không khí lại vô cùng thành kính, thiêng liêng. Bác nằm đấy, đôi mắt hiền từ nhắm lại như đang chìm vào giấc ngủ sâu, miệng Bác như hé một nụ cười. Bác như phát ra vầng hào quang chói lọi, vừa suy nghĩ, vừa gần gũi.
Ra khỏi Lăng, chúng em đi thăm quan Phủ Chủ tịch, nhà sàn, ao cá Bác Hồ, nhà Bảo tàng, được nhìn tận mắt từng dụng cụ sinh hoạt của Bác thường ngày: đôi dép cao su, chiếc gậy tre, chiếc mũ cối, bộ quần áo vải bạc màu, chiếc giường Bác nằm, chiếc bàn làm việc, chiếc ghế Bác ngồi… Những câu chuyện về Bác khiến chúng em cảm thấy thật tự hào.
Kết thúc chuyến đi, chúng em trở về trường học với rất nhiều cảm xúc tự hào,...
Chuyến tham quan lăng Bác quả thật là một chuyến đi đầy thú vị. Cũng qua chuyến đi này, em càng biết ơn Bác Hồ, tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc ta và thêm yêu quê hương, đất nước của mình.
2. Em đọc soát và chỉnh sửa nếu có.
3. Em đọc bài làm của em trong hoạt động Viết cho người thân nghe.

Tên một cơ quan, tổ chức trong câu là: Trường Trung học cơ sở Tam Sơn -> tên tổ chức được viết hoa chữ cái đầu

Hà Nội, ngày … tháng … năm …
Cô Hà Lê thân mén!
Em là Ngọc Hân - học sinh cũ lớp 3G được cô chủ nhiệm năm ngoái đây ạ. Năm nay, em đã chuyển sang ngôi trường mới, nhưng em vẫn rất nhớ và biết ơn cô. Vì vậy, em viết lá thư này để được hỏi thăm và chúc mừng cô nhân ngày Nhà giáo.
Dạo này cô vẫn khỏe chứ ạ? Cô vẫn đến trường và dạy dỗ các bạn nhỏ như trước nhỉ? Các em học sinh mới năm nay có ngoan và vâng lời cô không ạ? Vườn hoa hồng do cô trồng và chăm sóc cạnh thư viện năm nay có lẽ đã cao hơn và nở nhiều hoa rồi cô nhỉ?
Ở trường mới, em đã làm quen được với các bạn và thầy cô. Việc học tập của em cũng đã ổn định rồi. Nhờ cô quan tâm dạy dỗ, mà em không gặp nhiều khó khăn về bài vở. Em biết ơn cô lắm. Nhân ngày 20-11 sắp tới, em chúc cô luôn mạnh khỏe, yêu đời và ngày càng thành công hơn trong sự nghiệp trồng người.
Học sinh cũ
Ngọc Hân

Hằng năm, các trường học trên cả nước sẽ tổ chức buổi lễ mít tinh chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam vào ngày 20 tháng 11. Đây là một dịp ý nghĩa để tri ân thầy cô giáo - những người lái đò thầm lặng.
Tôi vẫn còn nhớ buổi lễ hôm đó. Ngôi trường của tôi dường như được khoác một chiếc áo mới. Sân trường được quét dọn vô cùng sạch sẽ. Hàng ghế nhựa được xếp gọn gàng. Trên sân khấu treo một tấm băng rôn màu xanh, có dòng chữ màu trắng: “LỄ KỈ NIỆM NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20 - 11”. Phía bên dưới là tên trường “THCS….”. Hai bên sân khấu để rất nhiều lẵng hoa chúc mừng. Từ sáng sớm, học sinh đã đến trường. Ai cũng mặc đồng phục gọn gàng. Khuôn mặt tỏ ra hân hoan, háo hức. Các cô mặc áo dài thướt tha. Còn các thầy mặc áo sơ mi, quần âu trang trọng. Nụ cười của thầy cô rạng rỡ trên môi.
Buổi lễ mít tinh được bắt đầu vào đúng bảy giờ ba mươi phút. Một hồi trống giòn giã vang lên. Học sinh xuống sân trường và xếp hàng. Mở đầu buổi lễ, một số tiết mục văn nghệ được trình bày. Giai điệu quen thuộc của các bài hát như “Bụi phấn”, “Người thầy”, “Nhớ ơn thầy cô”,... vang lên. Kết thúc phần văn nghệ, thầy cô và học sinh toàn trường thực hiện nghi thức chào cờ trang nghiêm. Sau đó, phần phát biểu của thầy hiệu trưởng đã gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Đến bây giờ, từng lời của thầy cùng với giọng nói trầm ấm vẫn vọng trong tâm trí của tôi. Lời tri ân của thầy dành cho các thầy cô thật đáng trân trọng, cảm động. Tiếp đến, chị Đỗ Thu Hà là một học sinh khối chín, đã thay mặt cho học sinh toàn trường phát biểu cảm nghĩ cũng như gửi lời cảm ơn đến các thầy cô. Bài phát biểu của chị thật cảm động. Chương trình tiếp tục được diễn ra với phần khen tặng các thầy cô xuất sắc.

Mẹ em là người mà em yêu quý nhất trên đời. Mẹ năm nay khoảng 35 tuổi, dáng người mẹ thanh mảnh, cao vừa phải. Mái tóc mẹ dài và đen óng, thường được buộc gọn gàng sau gáy. Khuôn mặt mẹ tròn, làn da hơi ngăm, nụ cười của mẹ luôn dịu dàng khiến em cảm thấy ấm áp.
Mẹ rất hiền và chăm chỉ. Mỗi ngày, mẹ đều dậy sớm nấu ăn cho cả nhà rồi mới đi làm. Dù công việc vất vả, mẹ vẫn luôn quan tâm và lo lắng cho em từng chút một. Mỗi tối, mẹ hay ngồi bên em, giúp em học bài và kể chuyện cho em nghe trước khi đi ngủ.
Em rất yêu mẹ và em luôn cố gắng học giỏi, ngoan ngoãn để mẹ vui lòng.
Chúc bạn học tốt!

Học sinh nghe thầy cô nhận xét và sửa lại bài theo lời nhận xét

Sáng ngày khai giảng, bầu trời trong xanh, những tia nắng vàng dịu nhẹ len qua kẽ lá, gió thu thổi mát rượi. Từ cổng trường, dòng người nô nức kéo vào, ai cũng mặc đồng phục chỉnh tề, gương mặt rạng rỡ niềm vui. Sân trường hôm nay được trang hoàng rực rỡ, cờ hoa bay phấp phới, dãy ghế xếp thẳng hàng ngay ngắn chờ đón học sinh.
Khi buổi lễ bắt đầu, tiếng quốc ca cất lên trang nghiêm, vang vọng khắp sân trường. Thầy hiệu trưởng bước lên bục phát biểu, giọng nói trầm ấm, thân thương gửi gắm bao niềm tin vào năm học mới. Rồi giây phút được mong chờ nhất cũng đến, tiếng trống khai trường vang lên từng hồi rộn rã, ngân dài như thúc giục chúng em bước vào chặng đường học tập mới.
Nhìn quanh, em thấy nụ cười hiền hậu của thầy cô, thấy ánh mắt hân hoan, háo hức của bạn bè. Không khí trang trọng xen lẫn niềm vui rộn ràng khiến em cảm thấy tự hào và tràn đầy quyết tâm. Buổi lễ khai giảng đã để lại trong lòng em một ấn tượng sâu sắc, tiếp thêm cho em động lực để học tập thật tốt trong năm học mới.
Sáng đầu thu, bầu trời cao vút và trong xanh, những tia nắng dịu dàng trải nhẹ trên sân trường. Tiếng chim líu lo trên cành cây như cũng vui mừng chào đón ngày khai giảng – ngày hội lớn của thầy trò sau kỳ nghỉ hè dài. Không khí rộn ràng, tươi vui bao trùm khắp ngôi trường thân yêu.
Từ sáng sớm, các bạn học sinh trong trang phục đồng phục chỉnh tề đã có mặt đông đủ. Ai cũng vui vẻ, háo hức, trên gương mặt rạng rỡ là nụ cười tươi tắn. Những bó hoa tươi thắm được các bạn mang đến tặng thầy cô như lời tri ân dịu dàng và sâu sắc. Trên sân trường, cờ hoa rực rỡ, băng-rôn “Chào mừng năm học mới” được treo trang trọng trên lễ đài.
Buổi lễ bắt đầu bằng nghi thức chào cờ trang nghiêm. Lá cờ Tổ quốc tung bay trong gió, tiếng quốc ca vang lên hùng tráng khiến ai cũng xúc động và tự hào. Sau đó, thầy hiệu trưởng lên đọc diễn văn khai giảng, tiếng nói ấm áp, thân quen vang vọng khắp sân trường. Những tràng pháo tay không ngớt vang lên cổ vũ, hưởng ứng.
Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất là khi trống trường vang lên – âm thanh của sự khởi đầu. Tiếng trống trầm hùng vang vọng như đánh thức không gian yên ắng, báo hiệu một năm học mới đã đến. Các thầy cô giáo và học sinh đều nhìn nhau với ánh mắt tin tưởng, quyết tâm cho một chặng đường mới.
Buổi lễ kết thúc trong niềm vui và sự phấn khởi. Dư âm của buổi khai giảng vẫn còn vang mãi trong lòng em. Em thầm hứa sẽ chăm ngoan học giỏi, xứng đáng với tình yêu thương của thầy cô và mái trường. Tham khảo
Ngô Đình Diệm – Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, Ngô Đình Diệm là một nhân vật có ảnh hưởng lớn, đồng thời cũng là một trong những chính trị gia gây nhiều tranh cãi. Ông là Tổng thống đầu tiên của chính thể Việt Nam Cộng hòa, người giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn chia cắt đất nước sau Hiệp định Genève (1954).
Ngô Đình Diệm sinh năm 1901 tại Quảng Bình, trong một gia đình công giáo có truyền thống quan lại. Ông từng làm quan dưới thời nhà Nguyễn, giữ chức Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua Bảo Đại. Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm với chính quyền bảo hộ Pháp và triều đình Huế, ông từ chức, sống ẩn dật nhiều năm, sau đó sang Mỹ và phát triển mối quan hệ với giới lãnh đạo Mỹ.
Năm 1954, sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17. Mỹ và các thế lực phương Tây đưa Ngô Đình Diệm về làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam. Năm 1955, ông tổ chức trưng cầu dân ý, phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, và trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa.
Trong những năm đầu cầm quyền, Ngô Đình Diệm đã thực hiện một số cải cách như cải tổ hành chính, xây dựng quân đội, chống lại các giáo phái vũ trang và ổn định tình hình miền Nam. Tuy nhiên, ông cũng bị chỉ trích vì phong cách cai trị độc đoán, tập trung quyền lực vào gia đình, đặc biệt là người em ruột – cố vấn Ngô Đình Nhu và em dâu Trần Lệ Xuân.
Một biến cố lớn trong nhiệm kỳ của ông là cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, khi chính quyền đàn áp các cuộc biểu tình của Phật tử. Điều này làm bùng nổ làn sóng phản đối trong nước và gây bất mãn trong cộng đồng quốc tế. Cuối cùng, ngày 1/11/1963, một nhóm tướng lĩnh quân đội tổ chức đảo chính. Ngày hôm sau, 2/11/1963, Ngô Đình Diệm và em trai bị giết tại Sài Gòn.
Dù có công trong việc xây dựng nền hành chính và tạo lập một số nền tảng ở miền Nam, di sản của Ngô Đình Diệm vẫn là một vấn đề gây tranh luận sâu sắc trong giới nghiên cứu lịch sử. Có người ca ngợi ông là người yêu nước chống cộng sản, nhưng cũng có người chỉ trích ông vì đường lối cai trị cứng rắn và chia rẽ dân tộc.
Ngô Đình Diệm là một nhân vật phức tạp, gắn liền với những bước ngoặt lớn của đất nước trong giai đoạn chia cắt. Việc nhìn nhận về ông cần đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể, khách quan và toàn diện.
Tham khảo
mình ko thể viết được xin lỗi bạn nhé