Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
refer
Tham khảo:
Công lao của vua Quang Trung:
-Lật đổ chính quyền thối nát Nguyễn ,Trịnh ,Lê
Xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước
Đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia
-Đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh, bảo vệ độc lập dân tóc & toàn vẹn lãnh thổ
Có những chính sách giúp phục hồi và phát triển kinh tế , quốc phòng ngoại giao.
Tham khảo:
Công lao của vua Quang Trung:
-Lật đổ chính quyền thối nát Nguyễn ,Trịnh ,Lê
Xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước
Đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia
-Đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh, bảo vệ độc lập dân tóc & toàn vẹn lãnh thổ
Có những chính sách giúp phục hồi và phát triển kinh tế , quốc phòng ngoại giao
Giở SGK Âm Nhạc và Mỹ Thuật lớp 7 trang 79-80 là có bạn à
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh vào thời Hồng Đức, nhưng khi 8, 9 tuổi thì cũng là lúc vua Lê Thánh Tông băng hà. Cái nạn tranh giành xâu xé của các vương, hầu triều Lê cũng từ đấy tái diễn và càng ngày càng trở nên quyết liệt. Hai vợ chồng ông Nguyễn Văn Định, mặc dù có tài, văn chương chữ nghĩa bề bề nhưng cũng chỉ đứng bên lề thế cuộc, chứ không đua chen cào chốn danh lợi quan trường. Mọi sự quan tâm của họ là đổ dồn vào việc nuôi nấng, dạy dỗ cho con cái nên người - để dùng vào lúc khác chứ không phải lúc này, còn ngoài ra, là hưởng cái thú điền viên của nơi thôn dã. Và có lẽ, chính cách ứng xử ấy của cha mẹ, đã ảnh hưởng và làm nên cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau.
Tương truyền, khi mới sinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có thiên tư đĩnh ngộ. Chưa đầy năm mà đã biết nói. Còn 4, 5 tuổi thì đã biết đọc sách và đối đáp linh hoạt. Một hôm ông Văn Định ngồi đùa với con, ngâm rằng: “Nguyệt treo cung, Nguyệt treo cung”, chẳng ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng ứng khẩu đối luôn: “Vin tay tiên, Hốt hốt rung”. Ông Văn Định mừng lắm, đem chuyện ấy khoe với vợ, nhưng bà lại bực tức mà bảo: “Trăng là cái tượng của kẻ bề tôi, sao ông lại đi dạy cho con cái như thế?”.
Lúc còn nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm học chữ với cha mẹ nhưng khi trưởng thành thì vào Hoằng Hoá - Thanh Hoá theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng - một vị danh sĩ nổi tiếng đương thời. Ngoài việc học văn chương chữ nghĩa và kinh sử ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được thầy dạy cho sách “Thái ất thần kinh” - giải thích các lý lẽ huyền bí của đất, trời và vạn vật. Có lẽ chính vì vậy - do được mẹ và thầy chỉ bảo cùng sự nỗ lực của bản thân, mà về sau, ngoài hàng ngàn bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã để lại nhiều bài sấm ký và câu chuyện, nói lên tài tiên đoán các việc như “thần”, xứng đáng để người đời ngưỡng mộ và truyền tụng.
Tuy nhiên, so với các vị danh sĩ khác, con đường công danh sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm kể ra thì cũng muộn mằn. Nếu tính từ năm Nguyễn Bỉnh Khiêm 18 tuổi (là tuổi bắt đầu trưởng thành) đến năm 45 tuổi (là lúc ông đã đỗ Hội nguyên rồi Đình nguyên, Trạng nguyên) - thì trong khoảng 27 năm ấy, sau Lê Hiến Tông, có tới 7 vị vua nữa thay nhau “ngự” trên ngai vàng (triều Lê: 5, triều Mạc: 2). Đất nước loạn lạc. Trong triều ngoài nội, các vụ thảm sát, đánh giết nhau xảy ra liên miên.
Trong hoàn cảnh ấy, mặc dù hay chữ nhưng cũng như cha mẹ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không chọn cho mình con đường “dấn thân” mà lại sống cuộc đời “ẩn dật” - đứng nhìn thời cuộc. Chỉ đến khi nhà Mạc chính vị đã vững vàng, thì theo lời khuyên của mọi người, ông mới đi thi và nhập thế, khi tuổi đã 45. Sau khi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan với nhà Mạc, vài năm sau tới chức Tả thị lang bộ Lại, Đông các Đại học sĩ triều thứ hai - Mạc Đăng Doanh. Nhưng chỉ được 8 năm, thì ông lại xin về trí sĩ. Tuy nhiên, vua Mạc vẫn hay cho người lui tới thăm viếng và hỏi han các việc, rồi phong cho ông tước Trình tuyền hầu. Vài năm sau, lại mời ông tham gia triều chính - làm Thượng thư bộ Lại, tước Trình quốc công. Về sau, dân chúng các thời thường gọi ông là Trạng Trình - do đã căn cứ vào tước phong của triều Mạc.
Sau lần về hưu thứ nhất, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng một am nhỏ ở bên trái làng, gọi là am Bạch Vân, làm thơ và sống cuộc đời nhàn tản - dân chúng gọi ông là “Bạch Vân cư sĩ”. Còn sau lần về hưu thứ hai, ông dựng quán Trung Tân ở ngay giữa đồng làng, làm nơi mọi người đi về nghỉ ngơi và đàm đạo. Ông cũng mở trường dạy học - học trò theo học rất đông, tương truyền có tới 3000 người, mà trong số đó có những người nổi tiếng như: Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Lương Hữu Khánh v.v...
để thể hiện lòng nhân hậu, khoan dung, độ lượng của Lê Lợi dành cho quân Minh
Tham khảo:
+Nghĩa quân đã lâm vào cảnh thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét+ Trong khi đó, lực lượng quân Minh còn mạnh và làm chủ cả nước.=> Vì vậy, mùa hè năm 1423 Lê Lợi đã đề nghị tạm hòa với quân Minh để bảo toàn lực lượng.2. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.
+ Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân. Quang Trung là anh hùng dân tộc vĩ đại.
- Ý nghĩa lịch sử:
+ Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc lật đổ chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn - Trịnh - Lê đã xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia.
+ Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc chống quân xâm lược Xiêm và Thanh có ý nghĩa lịch sử to lớn: giải phóng đất nước, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, một lần nữa đập tan tham vọng xâm lược nước ta của các đế chế quân chủ phương Bắc.
*Quan trọng nhất là nguyên nhân 1 vì nhờ có tinh thần đoàn kết yêu nước của nhân dân ta nên Tây Sơn mới thắng lợi hoàn toàn.
1.
- Xã hội cổ đại phương Tây tồn tại đên cuối thế kỉ V thì bị các bộ tộc người Giéc-man từ phương Bắc tràn xuống xâm chiếm. Sau khi vào lãnh thổ của đế quốc Rô-ma, người Giéc-man đã:
+ Thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thành lập nên nhiều vương quốc mới của người Giec-man như: Ăng-glô Xắc-xông, Vương quốc Phơ-răng, Vương quốc Đông Gốt, Tây Gốt,...
+ Chiếm ruộng đất của chủ nô Rô-ma cũ rồi chia cho nhau, trong đó các tướng lĩnh quân sự và quý tộc được phần nhiều hơn.
+ Từ bỏ các tôn giáo nguyên thủy của mình và tiếp thu Ki-tô giáo. Họ xây dựng nhà thờ và tìm cách chiếm ruộng đất của nông dân, phong tặng đất đai theo tước vị cho các quý tộc và nhà thờ.
- Những việc làm trên có tác động rất lớn, dẫn tới sự hình thành xã hội phong kiến ở châu Âu:
+ Hình thành 2 giai cấp cơ bản của chế độ phong kiến là: lãnh chúa phong kiến và nông nô.
+ Quan hệ sản xuất phong kiến ra đời: Nông nô phụ thuộc vào các lãnh chúa; ngược lại, lãnh chúa phong kiến bóc lột, đối xử tàn nhẫn với nô lệ và nông nô.
⟹ Xã hội phong kiến châu Âu được hình thành.
2.Trong suốt hơn một nghìn năm, giai cấp phong kiến châu Âu đã lấy Kinh thánh của đạo Ki-tô làm cơ sở tư tưởng chính thống của mình và dựa vào Giáo hội để thống trị nhân dân về mặt tinh thần. Vì thế, giai cấp tư sản đang lên coi Giáo hội là một thế lực cản trở bước tiến của họ. Họ đòi thay đổi và “cải cách” tổ chức Giáo hội đó.
Người khởi xướng phong trào cải cách tôn giáo là M. Lu-thơ (1483 – 1546), một tu sĩ ở Đức. Ông kịch liệt lên án những hành vi tham lam và đồi bại của Giáo hoàng, chỉ trích mạnh mẽ những giáo lí giả dối của Giáo hội, đòi bãi bỏ những thủ tục, lễ nghi phiền toái, đòi quay về với giáo lí Ki-tô nguyên thuỷ.
Tại Thuỵ Sĩ, một giáo phái cải cách khác ra đời, gọi là đạo Tin Lành, do Can-vanh sáng lập, được đông đảo nhân dân tin theo.
3.Các công trình tiêu biểu ở Phương Đông:
-Kim Tự Tháp ở Ai Cập
-Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc
-Đền Ăng co vát ở Campuchia
-Đền Taj Mahal ở Ấn Độ.
4.Đó là những di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng thế giới, thể hiện sức lao động và tài năng sáng tạo vĩ đại của con người.
5.
- Mô-giô-pa-hít
- Đại Việt
- Champa
- Lan xang
- Pa-gan
- Ăng-co,…
-Ấn Độ -Trung Quốc 6.Thời gian | Nội dung lịch sử |
Thế kỉ XIII-XIV | Thời kì hình thành.Thời kì này bắt đầu vào thế kỉ XIII, khi có bộ phận cư dân nói tiếng Thái di cư đến, tiến hành phát triển kinh tế , xã hội và tạo ra các tổ chức sơ khai của Lào là các mường cố |
Thế kỉ XV-XVII | Vương quốc Lan Xang bước vào giai đoạn thịnh vượng, các vua Lan Xang chia đất nước thành các mường,xây dựng đội quân hùng mạnh,thiết lập quan hệ hòa hiếu với các nước láng giềng |
Thế kỉ XVIII-XIX | Lào bước bước vào thời kì khủng khoảng,suy yếu |
năm 1698,,,,,Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, thấy nơi đây đất đã mở mang "hàng ngàn dặm và có dân trên 4 vạn hộ" để chấm dứt tình trạng lưu dân tự khẩn hoang lập ấp đó, Cảnh bèn lập phủ Gia Định để coi hai huyện: Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông) diện tích rộng khoảng 30.000 km2
Phủ Gia Định gồm 2 dinh: Dinh Trấn Biên thuộc tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước hiện nay -Dinh Phiên Trấn thuộc thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh hiện nay.
Công trình điêu khắc gỗ nào được coi là bảo vật quốc gia năm 2012 là Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay (thời Lê Trung Hưng, hiện lưu giữ tại chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
*Tượng Quan Âm Bồ Tát thiên thủ thiên nhãn mà dân gian vẫn gọi là Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay được dựng từ năm 1656 (thời Lê Trung Hưng), do nhà điêu khắc tài hoa Trương Thọ Nam tạc. Theo các nhà nghiên cứu, đây là pho tượng độc đáo nhất trong số các tượng Quan Âm cổ hiện có ở Việt Nam. Pho tượng được làm bằng gỗ phủ sơn, tĩnh tọa trên tòa sen với tổng chiều cao (cả phần bệ) là 3,7 mét với 42 cánh tay lớn và 952 cánh tay nhỏ.