Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
thật ra mấy cái này có nhiều trên google lắm bạn, thay vì hỏi bạn có thể search ở trên đó luôn
Là một người con Việt Nam, không ai là không biết đến Truyện Kiều. Nhắc đến Truyện Kiều là nhắc đến người con đáng kính của dân tộc Việt Nam: Đại thi hào Nguyễn Du.
Ở ông hội tụ đầy đù cả tâm và tài. Cái tâmcủa ông thể hiện qua niềm cảm thông đối với những kiếp người bất hạnh. Ông là một người có tấm lòng nhân hậu. Nó chứa đựng cả trong những tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo sâu sắc của công. Là một người đau trước niềm đau của mọi người, ông đồng cảm và đau nỗi đau của những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc: đó là nằng Kiều, người ca nữ đất Long Thành, Tiểu Thanh …
Tài của ông nằm ở khả năng vận dụng và làm giàu con chữ Tiếng Việt. Truyện Kiều được viết theo thể thơ Nôm lục bát vừa gần gũi vừa dễ thuộc, dễ đọc. Ông dùng những từ ngữ, những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay, vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Hơn thế nữa, với khả năng sáng tạo của mình, ông đã làm cho Tiếng Việt trở nên giàu đẹp và phong phú hơn bao giờ hết. Nhiều từ ngữ, nhân vật trong Truyện Kiều đã sống lại trong lời ăn, tiếng nói thường ngày của người dân Việt Nam như: “Chết đứng như Từ Hải”, đồ “Sở Khanh”,…
Đại thi hào Nguyễn Du là một con người tài hoa với nhân cách cao đẹp. Ông trân trọng những giá trị phẩm chất của con người, tiếc thương cho những kiếp người khổ đau. Tư tưởng, giá trị văn học của ông vẫn mãi lưu truyền tới muôn đời sau.
~ hỏi j thế~
Em tham khảo:
Truyện Kiều đã từ mấy trăm năm qua trở thành một phần giá trị tinh thần không thể thiếu được của dân tộc ta. Ở bất kì góc độ nào, đây luôn là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc.
Để tạo ra được một kiệt tác như vậy, điều quan trọng nhất mà Nguyễn Du đã thể hiện được là tấm lòng nhân đạo cao cả và tài năng bậc thầy về nghệ thuật. Một trong những phương diện nghệ thuật thể hiện rất rõ tài năng của Nguyễn Du đó là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tài năng này được thấy rõ hơn cả, nhất là ở 8 câu thơ cuối được mở ra bằng “buồn trông”.
Không chịu nghe lời Tú Bà vào chốn thanh lâu, Kiều bị bắt giam lỏng ở lầu Ngưng Bích cao, xa xôi, bốn bề đẹp nhưng hoang vắng. Ngày nào nàng cũng đau khổ nhớ về gia đình và người yêu. Trong nỗi niềm đằng đẵng bao ngày, nàng nhìn ra phía xa nơi cửa bể vào lúc chiều hôm và thấy thấp thoáng cánh buồm nơi xa. Trong khói sóng hoàng hôn gợi buồn gợi mê, ai biết con thuyền kia là thực hay là ảo, mọi thứ mờ ảo và xa xôi đến mức chỉ có cánh buồm hiện lên. Ở đó có thể là một con thuyền thực nhưng cũng có thể chỉ là con thuyền trong nỗi mong mỏi giải thoát của Kiều. Nàng đang ước ao, mong chờ một con thuyền từ phương xa có thể tới đây, chở nàng về với gia đình thân yêu. Nhưng rồi càng mong lại càng tủi thân, con thuyền kia chỉ là ảo mộng, mà dù có là thực đi nữa lại khiến cho ai kia càng xót xa khi con thuyền cập bến còn mình vẫn còn chơi vơi. Nàng nhớ nhà, rồi nàng buồn. Từ hình ảnh nơi biển cả mông mênh rộng lớn gợi nỗi cô đơn, nàng trông ra đến ngọn nước mới sa, ngọn nước đã đục ngầu vì từng trận thác đổ xuống tung bọt lên trắng xóa.
Và ngay trên dòng nước ấy, có những cánh hoa mỏng manh đang trôi trong vô định, cứ dập dềnh chực chìm chực nổi. Phải chăng, Kiều đang thấy thân phận mình giống với đóa hoa tội nghiệp kia, cứ trên dòng đời trôi mãi trong sự vùi dập dày vò của bao nhiêu con sóng cuộc đời. Cánh hoa ở giữa dòng ấy rỗi sẽ trôi về đâu giống như số phận nàng hiện tại rồi sẽ đi về đâu. Câu hỏi tu từ đã bật lên một sự lo lắng cho một tương lai của một số phận mỏng manh vô định hình. Từ sự lo lắng này, tâm trạng của Kiều lại càng tiếp tục rơi vào sự vô định mông lung không biết đi đâu về đâu. Dường như đến đây, mọi cảnh vật trước mắt Kiều đã bị nhòe đi bởi một màn nước mắt, đến nội cỏ vô tri cũng trở nên rầu rĩ bởi tâm trạng con người không thể nhìn nó bằng con mắt khác.
Khung cảnh mênh mông đến rợn ngợp giờ đây trở nên càng mênh mông hơn khi mà từ chân mây đến mặt đất như không còn ranh giới, màu xanh ở đây không còn là màu xanh tươi của sự sống như ngày xuân xưa kia mà là một màu xanh đơn điệu, một bức tranh một màu không có chút sức sống giống y như cuộc sống lúc này của Kiều. Nhưng mọi thứ vẫn còn ở một mức tâm trạng buồn lo nhưng đến câu cặp lục bát cuối cùng. Từ những cảm xúc buồn, lo lắng, đến đây, ta thấy Kiều như rùng mình sợ hãi. Những cơn gió cuốn những cơn sóng ngoài biển tạo những âm thanh to như cơn bão khiến cho con người phải hãi hùng. Từ tượng thanh “ầm ầm” đặt ở đầu câu như nhấn mạnh sự bất ngờ hoảng hốt của Kiều nơi lầu cao khi con sóng lạnh lùng dữ dội xô vào chân lầu khiến người trên phải sợ hãi.
Đây có lẽ là sự dự đoán về một tương lai không mấy êm đềm sẽ đến với Kiều, và ngay sau đấy, sóng to gió lớn sẽ đổ lên cuộc đời Kiều làm cho nàng phải đau đớn, sợ hãi mà chao đảo. Bốn cặp lục bát mở đầu bằng “buồn trông” tạo nên một đoạn điệp khúc có nhạc tính tăng dần mức độ. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, hình ảnh được chọn từ mờ ảo, mông lung đến rõ ràng cụ thể, tâm trạng nhân vật trữ tình từ buồn, lo đến sợ hãi hoảng hốt. Nguyễn Du đã thật tài tình trong việc miêu tả rõ nét tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày tháng dài bị giam nơi lầu Ngưng Bích, những ngày tháng mở đầu cho quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Kiều lúc này, càng buồn thì càng trông, càng trông thì càng buồn, chính Nguyễn Du đã hiểu được điều này và bộc lộ sự cảm thông từ ngòi bút.
Bốn cặp lục bát ngắn gọn mà chứa đựng được tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của đại thi hào Nguyễn Du. Đọc đến những dòng thơ ấy, người đọc không khỏi xót thương trước số phận Thúy Kiều đồng thời trân trọng biết bao tài năng cùng tấm lòng của thi sĩ họ Nguyễn.
Em tham khảo nhé:
Chữ "Tâm" mà Nguyễn Du nói đến là tấm lòng của người nghệ sĩ đối với con người, với cuộc đời. ( Người nghệ sĩ nhận thức cuộc sống, trăn trở, cảm thấy cuộc đời thôi thúc mình cầm bút viết ra những suy nghĩ, nỗi niềm, và khi ấy, người nghệ sĩ đã đặt vào trang viết của mình cả trái tim, cả tấm lòng ...)Cái tâm được biểu hiện rất nhiều khía cạnh: thái độ trân trọng, đề cao giá trị con người; đó là nỗi trăn trở, đau đáu, khắc khoải trước nhân tình thế thái; đó là sự đồng cảm, xót thương cho những kiếp đời bất hạnh; đó là niềm mong ước một cuộc sống tốt đẹp cho con người ...Cái tâm của người nghệ sĩ chính là điều góp phần tạo nên giá trị nhân văn lớn lao cho một tác phẩm .Câu thơ của Nguyễn Du còn khẳng định cái tài của nhà văn, nhà thơ là rất đáng trân trọng, nhưng cái tâm vẫn nên đặt cao hơn cái tài.Trong Truyện Kiều, cái tâm của Nguyễn Du được thể hiện sâu sắc, thấm thía. Cái tâm ấy đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm và làm nên tầm vóc vĩ đại của Nguyễn Du.
Tham khảo:
-Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện là một trong những tác phâm rất nổi tiếng lúc bấy giờ đc viết bỏi hai tác giả đó là Nguyễn Du à Thanh tâm tài nhân.
-Đặc điểm của hai bài thơ này rất khác nhau, một bài thì là thơ, còn bài kia thì lại là văn xuôi.
-Và Nguyễn Du lấy cảm hứng từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân để viết nên bài thơ của mik.
-Chỉ với vài câu thơ thôi mà Nguyễn Du đã miêu tả đc hết những nét đẹp của Kiều, và với Thanh Tâm tài nhân thì cần rất nhiều từ ngữ để biến hóa nó, để có thể lột tả đc hết nét đẹp của Kiều.
-Thật hay phải ko nào, cuộc đối đầu của hai cây bút hàng đầu của hai đất nước khác nhau, khi chỉ miêu tả một con người và tích cách của họ
Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.
Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.
Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.
Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.
Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.
Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn:
Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.
Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm.
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.
Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.
Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.
Cảm nhận về Thúy KiềuNghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.
Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.
Mỗi tác phẩm văn chương xuất hiện đều mang theo những ẩn ngữ. Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du có nhiều ẩn ngữ cần giải mã; những tranh luận về tu từ, về sự biến, về chữ nghĩa vẫn còn đó, dường như thiếu một lam bản để tỏ tường. Có lẽ vào thời đại của Nguyễn Du, sinh hoạt văn chương chỉ là một phần trong việc diễn tập dùi mài kinh sử chữ nghĩa, do đó những tục lệ của đời sau như bản quyền, tác quyền không coi là quan trọng, như trong Truyện Kiều, tác giả chỉ viết:
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh
Và không cần gióng lên là phóng tác ở nguồn nào. Điều đó thật tự nhiên trong một nền văn hoá cổ, chưa để ý đến những việc thương mại, tiếp thị, xuất bản, tác quyền v.v…Ở trong một nền văn hoá lấy thơ văn là nền tảng, thi cử là cứu cánh, dường như kiến thức phổ cập, nên việc Nguyễn Du không cần phải giáo đầu, việc cứ để những người khác làm:
Chẳng hạn trong tổng thuyết của vua Minh Mệnh viết: Thánh Thán bất phùng, hàn yên tản mạn để nhắc đến Thánh Thán bình phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân; tổng từ của vua Tự Đức viết: phần lô nhàn độc Thanh Tâm biên, thị biên bắc nhân Thánh Thán trước, dịch âm ngã quốc Nguyễn Tiên Điền đều để dẫn truyện Kim Vân Kiều nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân, và Thánh Thán luận bàn, nay Nguyễn Du diễn ra Quốc âm.
Thanh Tâm Tài Nhân viết ra tiểu thuyết vào thế kỷ 17. thời kỳ sáng tác tiểu thuyết được xem như phồn vinh cực thịnh, Thánh Thán (Kim Nhân Thụy) nổi tiếng là tay bình giá sâu sắc, cho nên ở thời đại Nguyễn Du, truyện Kiều hẳn giới đọc sách ai cũng biết, việc diễn ra Quốc âm làm theo thể truyện thơ riêng của văn chương Việt nam là thể thơ lục bát đã phổ biến rộng khắp, từ nơi cung đình, đến chốn văn gia, lại đi sâu vào đại chúng, như những bài tựa tác phẩm Quốc âm này ở ngay thế kỷ 19 ghi nhận. Tuy nhiên điều đáng chú ý là tác phẩm Quốc âm càng nổi tiếng, tên tuổi Nguyễn Du đã lừng danh trong văn học thế giới, song tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân dường như đi vào quên lãng. Chẳng hạn, lấy một vài sách tiêu biểu, như Trung Quốc Tiểu Thuyết Sử Lược của Lỗ Tấn, mấy chương viết về tiểu thuyết thời Minh không hề nhắc đến tác giả hay tác phẩm Kim Vân Kiều truyện này, bộ Trung Quốc Văn học sử thông lãm do nhiều học giả hiện đại trong phần về tiểu thuyết thời Minh có nói đến Kim Bình Mai, đến Tỉnh thế nhân duyên truyện còn nhiều tiểu thuyết khác xem như nghệ thuật tầm thường nên không nói đến, ngay sách viết bằng Anh ngữ như An Introduction to Chinese Literature của Liu Wu-Chi (Liễu Vô Kỵ) để giới thiệu ra thế giới cũng không đá động đến tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân.
Nay Kim Vân Kiều truyện được dịch giả Đàm Quang Hưng hoàn tất việc chuyển ngữ, đem ra xuất bản thật hữu ích cho người đọc cũng như cho người phê bình.
Sự khác biệt giữa tiểu thuyết và thơ không chỉ ở thể loại, ngày nay với sự phát triển của thi pháp/sáng tạo học về văn xuôi cũng như về thơ xây dựng trên cơ sở những khoa ký hiệu học,văn phong học, ngữ nghĩa học có thể giúp cho việc đối chiếu tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân với truyện thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du về nhiều mặt.
Trong Thi pháp học cổ điển phương đông, như Vân đài loại ngữ, quyển 5 Văn nghệ loại, Quế đường Lê Quí Đôn ở thế kỷ 18 đã nói đến một trong hai nguyên tắc nhị phế/phải bỏ là: tuy dục phế từ thượng ý nhi điển lệ bất đắc di nghĩa là bỏ lời lấy ý nhưng không được bỏ cái đẹp và cũng nói đến tình, cảnh, sự trong phép làm thơ, ba điều đó có thể áp dụng vào việc đọc truyện thơ Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Bàn về Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, người cùng thời với cụ Nguyễn, khi phân chia sách vở văn chương phong phú như rừng làm những loại như hiến chương, kinh sử, thi văn, truyện ký; như vậy Đoạn trường tân thanh có thể kể vào loại truyện ký vì là một thực lục. Song là một thực lục bằng thơ, nghĩa là đọc dưới nguyên tắc thi pháp của thơ, khác với đọc tác phẩm văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân. Đứng từ quan điểm thi pháp hiện đại, tôi muốn dẫn một cái nhìn của người đời nay như Marcelin Pleynet khi hỏi: Thơ phải có mục đích như thế nào? và trả lời là: thơ phải có mục đích như một truyện kể song luôn luôn khác với hoạt động thực tiễn, có thể là tiêu chuẩn để đối chiếu việc Nguyễn Du viết về hành trạng/cuộc đời Kiều bằng thơ khác với Thanh Tâm Tài Nhân thuyết thoại qua văn xuôi.
Tản văn có thi pháp của tản văn/poétique de la prose cho nên không thể so sánh nguyên tắc, nghệ thuật, tình tiết, câu chuyện Kiều trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân với truyện ký bằng thơ của Nguyễn Du. Cảm nghĩ về mỗi tác phẩm là thẩm quyền của người đọc.
Với quyển sách Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân trước mặt, người ta có thể giải toả những thắc mắc, chẳng hạn trong tác phẩm thơ của Nguyễn Du, sự biến xẩy đến cho gia đình Vương ông tóm lược trong hai câu:
Hỏi ra sau mới biết rằng
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ
Xem trong hồi 4 tiểu thuyết kể qua tản văn rõ ràng là:
Kiều lên tiếng hỏi: “Cha Mẹ làm gì ở bên ngoại mà bây giờ mới về ?”. Vương ông đáp: “Vì cha gặp chuyện chẳng lành. Dượng con cho hai khách buôn tơ thuê phòng ở trong nhà. Không biết họ buôn tơ của ai mà khi họ đem tơ ra chợ bán thì bị một người tới nhận là tơ của mình bị mất cắp, rồi đi cáo quan. Hai khách buôn khai với quan rằng họ buôn tơ của dượng con, rồi họ vu oan cho dượng con tội oa trữ của trộm cắp. Dượng con bị bắt. Cha có ngồi uống rượu với hai khách ấy mấy bữa nên chỉ sợ là họ biết cha với dượng con là anh em cột chèo, rồi cũng vu oan cho cha tội oa trữ của trộm cắp!”.
Trong khi Vương ông đang nói với Kiều, thì có một sai nha chừng bảy tám tên, xông thẳng vào nhà, chẳng nói chẳng rằng, dùng dây trói Vương ông với Quan, treo ngược lên xà nhà. Tiếng hò lục soát tìm tang vật lừng vang khắp xóm. (Xem: bản dịch sách này).
Vương Thuý Vân là một tác nhân trong truyện Kiều, vì nếu không có cô em trong gia đình Vương ông, thì không thể có tái hồi Kim Trọng, có happy endingtrong tiểu thuyết. Dường như trong phần nói về tiểu thuyết thế thái nhân tình thời nhà Minh, nói đến trai tài gái sắc gặp nhau rồi yêu nhau, trải qua bao gian khổ lại đoàn viên (có vẻ “cải lương”) học giả Phạm Ninh như ám chỉ những tiểu thuyết như Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tầm thường về nghệ thuật [trong Trung quốc văn học sử thông lãm nói đến ở trên]. Song quả thực trong tiểu thuyết, thuyết thoại là bộ phận thiết yếu, tác giả tả một Thuý Vân năng hoạt linh động:
Vân tươi đẹp óng ả, mềm mại, hiền lành, ít nói.
Cả ba chị em cùng giỏi văn thơ.
Kiều rất thích âm nhạc, say mê hồ cầm. Vân thường khuyên chị: “Âm nhạc không phải là việc của con gái, người ngoài nghe chuyện chị mê âm nhạc, họ sẽ cười cho!
Đoạn tác giả nói về chuyện Kim Trọng gặp gỡ hai nàng:
Kim thấy Kiều mày nhỏ mà dài, ánh mắt lấp lánh như liếc mắt đưa tình, dung như trăng thu, sắc tựa hoa đào, khoan thai văn nhã, chim sa cá lặn! Còn Vân thì tinh thần phẳng lặng, dung mạo đoan trang, vượt lên thường phàm, phong thái cá biệt. Bị sắc đẹp đoạt hồn, Kim tự nhủ: Cái tương tư này sẽ hại ta đây! Rồi lại tự thề: Nếu ta không xin cưới được hai nàng này thì suốt đời, ta sẽ không lấy vợ!
Còn về phía hai nàng: Tới nhà thì trời vừa tối. Kim lên phòng mình ở trên lầu. Lát sau, thấy Vân đẩy cửa vào chơi, Kiều nói: “Anh chàng nho sinh họ Kim ấy có cái thú thật ngược đòi! Làm sao hiểu được cái thú thích đi thăm mộ nàng Lưu Đạm Tiên của ảnh?” Vân đáp: “Em nghĩ không phải là ảnh thích đi thăm mộ Đạm Tiên đâu, mà là ảnh thích đi xem mặt hai chị em mình!”.(hồi 1)
Đến việc Thuý Kiều nhờ em nối hộ duyên mình:
Vân hỏi: “Đang nói chuyện với em, sao chị lại bỏ ngang? Nhìn mặt chị, em thấy chị ngậm lo chứa hận, tựa như ngoài cái ưu sầu khổ não do việc bán mình, chị còn có muôn vàn tâm sự khác. Đúng thế không?” Kiều đáp: “Đúng thế! Chị vẫn muốn nói với em, nhưng khó bề hé răng. Tuy nhiên, nếu không nói thì lại e phụ lòng một người thuộc giống chung tình! Vân hỏi: “có phải người thuộc giống chung tình của chị là anh Kim Thiên Lý không? Mới thoáng nhìn thấy ảnh có một lần mà sao chị đã biết là ảnh chung tình?” …
Vân hỏi:”Chị lạy em để làm gì?” Kiều đáp:”Chị lạy em để nhờ em một việc! Chị chưa đền đáp được ân tình của anh Kim, nên chị muốn tỏ bày cùng em tất cả nỗi lòng của chị, rồi nhờ em thay chị mà đền đáp ân tình ấy cho ảnh. Chị dầu thịt nát xương mòn, ngậm cười chin suối, vẫn còn thơm lây!” (hồi 4)
Đến việc Thuý Vân thay chị lấy Kim Trọng:
Một hôm rảnh việc, Kim bảo phu nhân Thuý Vân thuật lại cho mình nghe chuyện cũ, khi gia đình bị nạn vu cáo. Thuật xong, phu nhân nói:”Liên tiếp mấy đêm nay, thiếp mộng thấy chị Kiều! Vì thế thiếp nghĩ có thể nơi đây sẽ giúp ta tìm ra tin tức chị Kiều!” Đột nhiên Kim tỉnh ngộ mà nói:”Nếu phu nhân không nói thì ta bỏ lỡ mất cơ hộ! Lâm Truy với Lâm Thanh chỉ khác nhau có một chữ, có thể là vì nghe lầm! Ngày mai, ta sẽ tra hỏi thư lại xem ở huyện này xem có ai tên là Mã Giám Sinh không?” Phu nhân khen: “Lang quân làm thế là đúng!” (hồi 26).
Tới chuyện Vương Thuý Vân trả chồng cho chị:
Rượu được một tuần thì Vân đứng dậy thưa với cha mẹ: “Con có một việc muốn trình cha mẹ!” Vương ông hỏi:”Con có việc chi cứ nói!” Vân thưa:”Thưa cha mẹ! Một là ngôi nhà này chỉ là ngôi nhà mà gia đình ta thuê để tạm cư trong thời gian hỏi thăm tin tức chị Kiều con. Nay Kim lang với em trai con cùng có lệnh phải đi phó nhậm, đã có văn thư bổ nhậm trong túi, nên chúng con chẳng thể ở lại đây lâu. Hai là Kim lang với em con phải đi phó nhậm ở hai nơi nam bắc khác nhau nên chúng con chẳng thể cùng đi. Thế mà bây giờ, gia đình ta phải giải quyết ngay một việc cần có sự hiện diện của tất cả mọi người trong gia đình, nên con nghĩ gia đình ta phải giải quyết ngay việc ấy trong đêm nay!” Vương phu nhân hỏi:” Ý con muốn nói việc chi?”
Vân đáp:”Việc chị Kiều con phải phối hợp với Kim lang. Vì chữ hiếu, chị bán mình cứu cha nên chị đã nhờ con thay chị mà phối hợp với Kim lang cho vẹn lời thề. Vì thương chị, con đã nhận lời. Nay chị đã may mắn thoát chết, thì lời thề cũ vẫn còn nguyên! Nếu đêm nay chị không thực hiện lời thề ấy thì chờ đến bao giờ mới lại có sự hiện diện đông đủ của mọi người trong gia đình ta như thế này?” (hồi 28).
Trong thi pháp sáng tạo của tản văn, ký hiệu học là một thành phần sử dụng cho thuyết thoại, như trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân sử dụng những tên riêng mang ý nghĩa hàm ngụ nhân cách như Mã bất Tiến (học dốt), Mã Quy (mở ổ gái để cho vợ con làm nha đầu – chú thích của dịch giả) để chỉ con người Mã Giám Sinh, Thúc Thủ nghe như sự bó tay bất lực của Thúc Kỳ Tâm…
Dẫu sao Kim Vân Kiều truyện vẫn nằm trong hệ tiểu thuyết cổ điển của Trung hoa, nên cũng giống như những Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai, chỗ nào cũng có thơ phú. Chẳng hạn, trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều mộng thấy Đạm Tiên nói cho hay có tên trong sổ đoạn trường và ra mười đề thơ:
Vâng trình hội chủ xem tường
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Cùng người một hội một thuyền đâu xa
Này mười bài mới mới ra
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời
Kiều vâng lĩnh ý đề bài
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
Song Nguyễn Du không nói mười đề thơ đó và cũng không viết ra mười bài thơ đó như trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân; mười đề thơ đó là: Tích đa tài, Lân bạc mệnh, Bi kỳ lộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiến ngộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên, Khốc tương tư và còn viết ra nguyên mười bài thơ hồi văn Kiều làm.(xem hồi 2).
Người đọc có thể liên tưởng đến mấy lý do: trong truyện thơ Quốc âm theo thể lục bát, đưa ra mười bài thơ khác luật, lại bằng Hán văn thật không ổn; kể cả lấy lại nguyên mười bài hồi văn trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân cũng không ổn, hoặc Nguyễn Du chế tác ra mười bài khác cũng không ổn, chẳng lẽ nàng Kiều trong cùng không-thời gian lại có mười bài thơ khác nhau.
Sự khác biệt giữa tản văn tiểu thuyết và truyện thơ có thể biểu hiện trong cảnh Kiều ra ở lầu Ngưng Bích; trong tác phẩm của Nguyễn Du là những vần thơ lai láng tuyệt vời:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
…
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Trong tiểu thuyết là cảnh hiện thực: Lầu này có mặt tây trông về Kỳ sơn, nơi có móc trắng đọng trên cỏ kiêm cỏ gia, mặt nam trông về Kim Lăng, nơi có rồng hổ của tiên nuôi, mặt đông trông ra bãi dâu xanh trên hòn đảo nhỏ, mặt bắc trông về kinh đô, trong mây có hình cổng ngự thành (xem hồi 9).
Cảnh Kiều báo oán, trong truyện thơ thật đơn sơ nhưng súc tích:
Lệnh quân truyền xuống nội đao
Thề sao thì lại cứ sao gia hình
Máu rơi thịt nát tan tành
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời
Cho hay muôn sự tại trời
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta
Trong tiểu thuyết ở hồi 22 tả cảnh hành hình xử phạt đầy vẻ bạo động khủng cụ. Đối chiếu hai tác phẩm cùng diễn tả một cảnh,có thể suy ra một số những đặc tính: ở tản văn thuyết thoại, hình thái truyện kể có thể bành trướng và xoắn vẹo để mở rộng những tác động của nhân vật, có thể tóm lược, ở thơ không thể tóm lược hơn, thiên về cảm tính hơn là hiện thực. Tính khác biệt ấy chỉ ra tại sao có thể nói Nguyễn Du sáng tạo ra một truyện Kiều, cũng những sự biến ấy, nhưng không là sao bản của tiểu thuyết.
Dịch giả Kim Vân Kiều truyện là một giáo sư toán, việc ông làm văn chương không có gì phải lạ, dường như tinh thần toán học thiên về những hình thái trừu tương cũng giống như tinh thần văn chương thiên về những hình thái giả tưởng, mà giả tưởng và trừu tượng là hai mặt bổ sung trong sáng tạo.
Trong thế giới văn học hiện đại, có những tác phẩm tưởng như rơi vào quên lãng được phục hồi lại trong những thời đại về sau, chẳng hạn như Manuscrit trouvé à Saragosse của Jean Potocki, Locus Solus của Raymond Roussel. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có thể kể như được phục hồi trong tinh thần này qua công trình dịch thuật của giáo sư Đàm Quang Hưng.
mình kiếm mà không thấy