Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Câu thơ mở ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với hình ảnh cỏ non xanh mướt tới tận chân trời và hoa lê đang bắt đầu nở khi xuân sang. Bức tranh có sự hài hòa đến tuyệt diệu. Màu trắng tinh khôi của hoa lê hòa cùng với màu xanh non mỡ màng của cỏ. Không gian rộng lớn bạt ngàn ngút ngàn với những bãi cỏ “rợn chân trời” kết hợp với không gian thu nhỏ trên một cành hoa xuân. Tất cả gợi lên một sức sống tràn đầy, một bầu khí quyển trong trẻo, nên thơ, dịu nhẹ của tiết thanh minh. Xuân về khoác áo xanh cho cỏ, mặc áo trắng cho hoa. Cỏ và hoa bừng dậy sau giấc ngủ đông dài lạnh lẽo để rồi cỏ non nối tiếp chân trời xanh, và hoa lê bừng sắc trắng trên cành. Còn gì đẹp hơn thế, còn gì trong trẻo hơn thế! Câu thơ của Nguyễn Du làm ta chợt nhớ tới câu thơ của thi nhân Ức Trai ngay trước :
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên)
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Cùng đặc tả màu xanh của cỏ nhưng mỗi thi nhân lại có cảm nhận rất khác nhau. Nếu đến với thơ Nguyễn Trãi, cỏ dưới làn mưa xuân giăng nhè nhẹ “xanh như khói” thì trong thơ của Nguyễn Du màu xanh của cỏ vẫn vẹn nguyên có cảm giác như cỏ nối liền chân trời tạo làm không gian được mở rộng tới vô cùng. Đó phải chăng chính là sức hấp dẫn của thơ ca, cùng viết một hình ảnh nhưng ở mỗi một bài thơ, qua những lăng kính nhìn khác nhau sẽ đem đến những cách cảm nhận riêng biệt, không trộn lẫn.
Câu thơ của Nguyễn Du được lấy tứ từ câu thơ cổ Trung Hoa:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp có màu sắc, có đường nét đặc biệt lại có cả hương thơm. Đó là hương thơm của cỏ non “phương thảo”. Đó là màu xanh mướt của cỏ nối liền với trời xanh “liên thiên bích”. Đó còn là đường nét của cành lê điểm nhẹ vài bông hoa mới nở “sổ điểm hoa”. Câu thơ của Nguyễn Du rất gần với tứ của câu thơ này. Nhưng chúng có nét giống nhau chứ không hề đồng nhất. Nguyễn Du đã có những sáng tạo của riêng mình để đem lại sức hấp dẫn cho câu thơ của Truyện Kiều. Nếu như câu thơ cổ Trung Hoa chỉ miêu tả một cách đơn thuần: cành lê có một vài bông hoa thì câu thơ trong Truyện Kiều lại nhấn mạnh màu sắc của hoa “trắng điểm”. Ở đây tính từ “trắng” đã được động từ hóa, câu thơ không chỉ nói lên màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy. Câu thơ không hề tĩnh tại mà có tính chất động. Chúng ta không chỉ cảm nhận được một màu trắng tinh khôi của hoa lê mà còn dường như thấy được cả những mạch sống đang cựa mình trỗi dậy theo bước chuyển mình của mùa xuân. Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ đôi câu thơ nhưng cũng đủ cho ta thấy sự sáng tạo, sức bút kì diệu của thiên tài Nguyễn Du. Đó phải chăng chính là một trong những yếu tố làm nên sức sống bất diệt của Truyện Kiều,Truyện Kiều của Nguyễn Du nằm ngoài sự “băng hoại” của thời gian.
ngày xuân con én đưa thoi
thiều quang chín chục đã ngoài 60
cỏ non xanh tận chân trời
cành lê trắng điểm môỵ vài bông hoa
Trả lời
a, Hình như không có
b,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ý nghĩa
Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân.
" Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa''
Trước mắt người đọc là không gian bất tận của màu xanh.Bầu trời mặt đất nối liền thành một dải tươi xanh mơn mởn ,tràn căng sức sống .Trên nền trời màu xanh ấy là sự điểm xuyết,chấm phá của một vài bông hoa lê trắng.Cảnh có rộng có hẹp,mùa xuân có màu sắc,âm thanh ,hình ảnh ,mùa xuân được vẽ bằng nét vẽ hội họa độc đáo ,tạo ra bức tranh mùa xuân căng tràn sức xuân.Nó gắn với niềm vui,niềm hạnh phúc của con người
''Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
so với câu thơ cổ của trung quốc để làm sáng tỏ sự tinh tế của nguyễn du:
"Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa"
Hai câu thơ cổ của trung quốc thiên về tả cảnh ,cảnh tĩnh ,giống như trong một bức tranh chủ yếu bằng nét đạm bạc.Còn hai câu thơ của Nguyễn Du cũng là bức tranh cảnh ngày xuân nhưng nhiều màu sắc hơn:"xanh" của cỏ ,"trắng"của hoa lê tạo nên một sự hài hòa êm dịu.Cảnh không tĩnh mà động bởi việc tạo nên các kết hợp từ "xanh đậm","trắng điểm"làm cho những tính từ chỉ màu sắc ít nhiều mang tính chất của động từ:màu xanh trải dài tới tận chân trời(khác với màu xanh của cỏ trong cau thơ của trung quốc:đặt canh,sát ngay với màu xanh ngọc của trời"liên thiên bích),màu trắng của hoa bắt đầu xuất hiện từng bông một trên cành.Những thay đổi tưởng như không đáng kể ấy đã khiến cho mùa xuân trong thơ Nguyễn Du trở nên tràn đầy sức sống.Tươi mới ,trẻ trung "non xanh":mới bắt đầu ,còn e ấp điểm một vài nhưng đã ẩn chứa sự dâng tràn ,mãnh liệt "tận chân trời".
Câu thơ cổ Trung Quốc vẽ lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân:có hương vị(cỏ thơm),màu sắc xanh mướt(bích) của cỏ nối xanh ngọc của chân trời tạo nên khối xanh.Có đường nét của cành lê trắng điểm vài bông hoa.Cảnh đẹp mà tĩnh tại.Còn 2 câu của NDlấy 2 gam màu chủ đạo là màu xanh non của thảm coe xanh bất tận ''tận chân trời'' làm nền nổi rõ sắc trắng của hoa lê.Dùng từ ''non'' vừa bổ nghĩa cho từ ''cỏ''.vừa bổ nghĩa cho từ xanh,mùa xuân vì thế mà càng mềm mại,non tơ,đầy sức sống.''tận chân trời'' là 1 nét tạo hình,đường nét mở rộng khiến ta hình dung ra mùa xuân ở đây như được kết thành hình khối,không gian mùa xuân đẹp,tươi,rộng.Trên nền ấy,điểm xuyết vài bông hoa trắng làm cho màu sắc hài hòa.Mùa xuân của cỏ,của trời làm màu trắng hoa lê thêm thanh tao,đẹp đẽ.Màu trắng của hoa làm mùa xuân thêm tươi sáng,nền nã.Mùa xuân hiện lên sinh động,sắc nét,gợi cảm.Kia nữa.từ ''điểm''dùng thật thần tình.Câu thơ Nguyện Du chỉ thêm môt chữ trắng cho sắc màu hoa lê mà bức tranh đã khác.Chữ''trắng''làm điểm nhấn ,nổi bật thần sác cành hoa lê.Sắc xanh của cỏ, sắc trắng hoa lê tạo bức tranh mới mẻ,đầy sức sống và thật nhẹ nhàng...Tất cả gợi lên vẻ đẹp tinh khôi,trong trẻo sức sống của mùa xuân.
Sự khác nhau giữa hai đoạn trích thể hiện ở chính tâm trạng mà người trong đoạn trích cụ thể:
- Cụm từ xanh trong đoạn trích (1) gợi lên không gian bất tận của màu xanh.Bầu trời mặt đất nối liền thành một dải tươi xanh mơn mởn ,tràn căng sức sống .Trên nền trời màu xanh ấy là sự điểm xuyết,chấm phá của một vài bông hoa lê trắng.Cảnh có rộng có hẹp,mùa xuân có màu sắc,âm thanh ,hình ảnh ,mùa xuân được vẽ bằng nét vẽ hội họa độc đáo ,tạo ra bức tranh mùa xuân căng tràn sức xuân.=> Nó gắn với niềm vui,niềm hạnh phúc của con người
- Cụm từ xanh xanh trong đoạn trích (2) lại biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự chán nản, vô vọng của Kiều trước một khung cảnh thiếu vắng sự sống, cô đơn, và tẻ nhạt và cũng là nỗi đau đớn, xót xa, lo lắng và khắc khoải của một kiếp má đào, trôi nổi, vô định, mong manh và bế tắc không biết đi về nơi đâu.
=> Dụng ý nghệ thuật của tác giả chính là muốn mượn cảnh ngụ tình, diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” của nhận vật.
Câu 2: Cho các ví dụ sau.
a) Em hãy chỉ ra nghĩa của từ "xanh" trong từng lần sử dụng.
b) Nghĩa nào là nghĩa gốc, nghĩa nào là nghĩa chuyển.
1. Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu, mời anh xơi trầu.
(Ca Dao)
=> Từ ''xanh'' trong câu trên được sử dụng theo nghĩa gốc, ''cau xanh'' có nghĩa là cau chưa chín
2. Đoái trông theo đã cách xa
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.
=> ''xanh'' ở đây dùng theo nghĩa gốc, là núi được phủ bằng nhiều cây xanh
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
3. Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.
=> ''xanh'' ở đây dùng theo nghĩa chuyển, ''xanh kai'' có ý chỉ trên bầu trời
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
- Trường hợp thứ nhất :
a. Đuề huề lưng túi gió trăng.
Sau chân theo một vài thằng con con.
( Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Từ chân: được dùng theo nghĩa gốc.
- Trường hợp thứ hai :
b. Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
( Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Từ chân: được dùng theo nghĩa chuyển ,theo phương thức ẩn dụ .
a) Đuề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con. (Nguyễn Du, Truyện Kiều)
chân:chân người
b) Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
chân:chân trời
- Câu thơ Nguyễn Du tiếp thu ý tưởng câu thơ cổ Trung Quốc khi miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân
+ Cỏ xanh trải dài tận chân trời, mở ra không gian bao la (Cỏ non xanh)
+ Cỏ thơm tới tận chân trời (Phương thảo – cỏ thơm)
- Sự sáng tạo đậm chất trong câu thứ hai:
+ Nguyễn Du nhấn mạnh vào việc điểm xuyết “một vài bông hoa” tạo ra sự chấm phá độc đáo trong bức tranh thiên nhiên
+ Cấu trúc đảo ngữ, nhấn mạnh hoạt động “điểm”
Well, không biết nó có giúp gì được cho bạn không, nhưng vẫn chúc bạn học tốt :D
P/S: đề giống đề của bạn, tuy nhiên, nó lại là viết đoạn văn, yêu cầu của bạn là viết bài văn ^^
Thanks bạn nhiều nha <3 <3 <3!!!!!! Chúc bạn học tốt!!!
Từ "xanh" trong bài thơ thứ nhất là nghĩa gốc
Từ "xanh" trong bài thơ thứ hai là nghĩa chuyển